Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

Những bằng chứng về Tái sinh (phần I)

"Vàng 9999" - người đẹp Trung Quốc
Sushil Bose đã bỏ khá nhiều thời gian để tìm hiểu về trường hợp của Shanti Devi và kết quả là ông đã tìm ra được bằng chứng xác thực chứng minh rằng hiện tượng lạ lùng về Shanti Devi là có thật. (ảnh không liên quan đến bài viết)
Trường hợp thai nhi có dấu tích Luân hồi 
Câu chuyện có thật này xảy ra trong gia đình Traveed ở nước Pháp. gia đình bà Traveed rất đau buồn vì sinh con hai lần nhưng lần nào đứa con mới ra đời được vài giờ cũng đều chết cả. Hai vợ chồng rất buồn. Họ ngày đêm cầu nguyện Chúa. May mắn là chưa đầy một năm sau khi đứa con thứ hai qua đời,bà Traveed lại chuyển bụng.Đây là đứa con thứ ba. Cả hai vợ chồng đều hồi hộp. Họ chẳng mong chi con trai hay con gaí, con nào cũng được, miễn rằng đứa bé ra đời mạnh khoẻ sống lâu là hai vợ chồng vui sướng rồi.Quả thật trời không phụ lòng họ,đúa con sinh ra lần này trông vui vẽ, khoẻ mạnh.Hai vợ chồng đặt tên cho con là Paul Traveed. Điều kỳ lạ chỉ có bà Traveed để ýtheo dõi là trên ngực Paulcó cái vết giống cái vết mà đứa cun thứ hai của bà lúc chào đời cũng có. Thật ra lúc đó bà có làm một dấu chấm màu xanh như vết chàm lên ngực đứa con đã chết này vì trong thâm tâm bà bà nghĩ rằng đứa con thứ hai này chết đi thì đứa co kế tiếp cũng có thể là nó sẽ lại ra đời. Bà Travee làm dấu ấn như vậy để xem thử lần sinh thứ ba hài nhi ra đời có còn mang dấu vết ấy không, nếu không thì điều bà nghĩ không đúng. Giờ đây khi thấy dấu chấm màu xanh hiện rõ trên ngực đứa con thứ ba thì bà Travee vô cùng lo lắng vội vã gọi chồng và nói: 
- Anh ơi, xem này, thằng bé cũng có dấu chấm xanh ở ngực giống cái dấu mà em đã làm lên ngực đứa con bất hạnh thứ hai của mình. Vậy cái dấu chấm này là gì? Có phải là dấu trước đây không? Hay là... Paull chính là đứa con thứ hai của mình? Ngoài ra thằng Paull lại còn có thêm một vết thẹo dài ở bắp đùi mà lúc sinh ra mình đã thấy đó. Người chồng nghe vợ nói thì chạy lại nhìn chăm chăm vào ngực đứa bé. Trên bộ ngực trắng hồng mơn mởn của Paull rõ ràng có một dấu chấm màu xanh. 
Hai vợ chồng bà Traveed từ đó sống trong lo âu hồi hộp, họ chờ đợi từng giờ từng phút sự ra đi của đứa con. Nhưng thế rồi suốt trong 12 năm dài đăng đẳng, Paull vẫn khỏe mạnh, ăn ngủ, học hành đi chơi bình thường như bao đứa trẻ khác. Điều kỳ lạ là mặc dầu còn trẻ con nhưng dáng dấp, cử chỉ lời nói của Paull lại giống như người lớn. Thỉnh thoảng ngồi trước mặt mọi người trong gia đình, Paull thường phát biểu những câu mà không ai có thể ngờ được rằng ở tuổi nó lại có những câu nói như thế. 
Một hôm bé Paul hỏi mẹ: 
- Mẹ à! Bên cạnh cửa ngõ vườn nhà mình trước đây có một cây lớn tốt tươi nhưng nay lại không còn. Vậy ai đã chặt nó vậy? 
Bà Traveed vô cùng kinh ngạc khi nghe con nói câu đó vì thật sự cái cây con bà nhắc đến đã bị chồng bà đốn ngã trước khi Paull ra đời. Tuy vậy bà Traveed cũng lấy làm tò mò, bà hỏi Paull: 
- Tại sao con lại biết cây này vì lúc ba con đốn ngả nó thì con chưa ra đời mà? 
Paull nhăn mặt tỏ vẻ bực tức và nói: 
- Tại sao ba lại đốn cây ấy đi? 
Bà Traveed giải thích: 
- À! Là tại vì cây này dễ trở thành chỗ thuận tiện cho kẻ trộm leo vô nhà. 
Paull dằn từng tiếng rõ ràng: 
- Trong số những đứa trộm ấy có đứa bị ba đâm chết mẹ có nhớ vụ đó không? Đứa bị đâm chết ấy tên là Jainqeville. 
Bà Traveed vừa kinh ngạc vừa lo sợ. Hai tay bà ôm lấy ngực mồm há hốc, bà hỏi Paull dồn dập. 
- Này con! Ai đã chỉ vẽ lời nói bậy bạ ấy cho con! Ai? nói cho mẹ biết đi... 
Paull nói như phân bua: 
- Việc này đã xảy ra lâu rồi má à! Con biết rõ điều này. Không ai kể cho con nghe hết. Con đã biết rõ sự việc là ba dùng dao đâm Jainquevill chết gục nơi gốc cây ấy. Jainquevill có một vết sẹo ở bắp đùi. 
Bà Traveed quá sợ hãi nên dùng tay che miệng con lại và nói: 
- Thôi đi! Con nói nghe ghê quá! Ai dạy con nói thế? Từ nay con đừng nói bậy nữa nhé! 
Paull vẫn tiếp tục nói có vẽ hằn học: 
- Con phải nói: vì đó là sự thật. Con cũng có vết sẹo ở bắp đùi mà ba má thường thấy đó. 
Sau đó, Paull đợi người cha đi làm về và cũng nói tất cả những lời mà nó đã nói với mẹ mình. Tự nhiên ông Traveed lo sợ thấy rõ. Ông có cảm tưởng như tên cướp Jainquville đã nhập vào thân xác Paull để nói chuyện với ông. Từ đó ông ít khi tiếp xúc với đứa con. Trong khi đó Paull thường tỏ ra lầm lì. Thường ngày nó chỉ loay hoay chơi với một con dao nó mua ở đâu đó. Hết mài lại ngắm nghía. Ông bà Traceed thấy con như vậy càng thêm lo sợ. 
Thế rồi một hôm, Paull từ đâu không biết chạy bay về nhà. Bà Traveed kinh ngạc kêu lên: Paull gì thế con, có việc gì xảy ra thế? Paull vừa khóc vừa đưa cho mẹ xem tờ giấy nhỏ có chữ viết. Trong thư lời lẽ của ông Traveed thuê người đầu bếp nơi trường học tìm cách giết Paull để phi tang mọi chuyện. 
Bà Traveed thấy rõ ràng chữ của chồng mình viết chớ không ai xa lạ. Bà lo sợ quá nói với Paull: Trời ơi! có chuyện gì xảy ra quá ghê gớm lạ lùng như vậy? Vậy con cứ ở đây với mẹ, đừng đi đâu cả. Paull vừa khóc vừa nằm xuống chiếc ghế trường kỷ cạnh giường mẹ, Sáng hôm sau, trời còn tinh mơ, bà Traveed tự nhiên choàn tỉnh dậy, bà không thấy Paull đâu. Hoảng hốt, bà xô cửa đi tìm, căn nhà vắng lặng, bà cất tiếng gọi, chỉ có người giúp việc chạy lên. Không nghe tiếng Paull cũng không như ông Traveed lên tiếng trả lời. Bà Traveed và người giúp việc liền phá cửa buồng của Paull. Cánh cửa mở toang, một cảnh tượng rùng rợn hiện ra: Ông Traveed và thằng Paull đều nằm chết dưới sàn nhà, máu lênh láng. Nơi ngược ông Traveed, con dao mà thằng Paull thường mân mê hàng ngày cắm sâu đến tận cán. 
Câu chuyện có thật trên đã được tờ báo của Pháp tên là Revue des Deux Mondes đăng tải vào năm 1989 và mới đây được tác giả Thiện Nhựt lược thuật lại trong một đặc san Phật Đản xuất bản tại Hoa Kỳ. 
- Trường hợp cậu bé George Fild
George Fild là một cậu bé Hoa Kỳ. Năm 15 tuổi, Fild bắt đầu có những cảm giác và hình ảnh lạ lùng chợt ẩn chợt hiện trong trí và luôn luôn cậu tỏ ra áy náy, thắc mắc, băn khoăn về những gì giống như mình đang rơi vào mộng ảo. Lúc bấy giờ có nhà thôi miên nổi danh tên là Williams. Ông này yêu cầu được giúp George Gild khơi dậy các hình ảnh từ tiền kiếp. Qua giấc ngủ thôi miên, George Fild đã kể lại rất rành rọt những gì của tiền kiếp mình như sau: 
- Lúc bấy giờ tôi là người dân vùng Bắc Carolina tôi là một nhà nông bận rộn đủ mọi thứ việc đồng áng. Trên tôi lúc đó là Jonathan Powell, cuộc sống thật buồn bã vô vị. Tôi sống lẻ loi cô độc như kẻ lạc vào chốn hoang vu. Tôi nhớ rõ mình sinh vào năm 1832 tại thị trấn Jefferson và 31 năm sau tức là vào 1863 trong cuộc nội chiến, tôi vào quân ngũ và bị giết chết khi một đám lính nổi loạn tôi nhớ mãi những nơi tôi đã đi qua và nhất là vùng đồng cỏ Bắc Carolina hiu quạnh. 
Nhà thôi miên Williams đã kiểm soát lại các tài liệu, hồ sơ, giấy tờ ở các thư viện, các văn khố, các vùng liên quan đến Jonathan Powell và biết được rằng những gì cậu bé mô tả đều đúng cả. Điều kiểm chứng lại rõ ràng hơn, nhà thôi minh đã cùng George Fild đến ngay thị trấn Jefferson tại đây, trước sự hiện diện của nhà Địa phương chí trong thị trấn, cậu bé George Fild lại được nhà thôi miên đưa vào giấc ngủ thôi miên lần nữa và lần này cậu bé còn nêu tên cả những địa danh trong thị trấn cùng những người có tiếng ở đó, đặc biệt, cậu bé còn mô tả quang cảnh và nhà cửa đường sá của thị trấn rõ ràng. Tất cả những gì George đã kể đều đã được nhà Địa phương chí hiện diện xác nhận là đúng. Ngoài ra cậu bé còn cho biết danh tánh của bà nội Jonathan là Mary Powell. Trong tài liệu còn lưu trữ tại nhà văn khố thì Mary Powell là một người đàn bà đã đứng tên mua một khu đất ở vùng Jefferson. Hồ sơ ghi năm 1803. Điểm đáng quan tâm là về sau, cậu bé George Fild có nhận được một lá thư của người trong dòng họ Jonathan Powell gởi đến kể lại rất chi tiết về cuộc đời sự nghiệp của Jonathan Powell. Trong thư có đoạn viết như sau: "Các tư liệu này được lưu giữ cẩn thận trong gia phả dòng họ tôi. Theo nhưng gì ghi trong gia phả thì ông Jonathan chính là ông của tôi và ông bị những người lính Mỹ giết năm 1963." 
- Trường hợp cậu bé Nicola 
Khoảng năm 1800 tại thành phố Haworth Anh Quốc, có một gia đình mà người chồng tên là Benson. Hai vợ chồng Benson có hai người con gái và một người con trai. Người con trai tên là John Henry. Một hôm John Henry chạy băng qua đường rầy xe lửa thì bị xe lửa cán chết thê thảm. Sự kiện đáng thương tâm này rồi cũng theo thời gian mà xóa mờ dần. Nhưng không lâu sau đó, một gia đình ở vùng kế cận HaWorth có người đàn bà tên là Kathleen Wheaters, bà bày sinh hạ được một bé gái đặt tên là Nicola. Bé Nicola sống bình thường như bao nhiêu bé khác nhưng điều lạ lùng là lúc lên 5 tuổi. Nicola có cử chỉ và lời nói chững chạc giống như người lớn. Vào một buổi trưa, bé Nicola đang ngồi chơi với mẹ bỗng nhiên bé hỏi một câu: 
- Mẹ ơi! Con đâu phải là con gái? Con là con trai mà? Trước đây con là John Henry, mẹ con là bà Benson rất mộ đạo và hay đi nhà thờ. Ba con là thợ đường rầy xe lửu. Con bị xe lưu cán chết và bây giờ con trở thành bé Nicola của mẹ. Tại sao mẹ không dẫn con đến nơi mà trước đây con đã ở. Con biết ngôi nhà đó mà. 
Bà Kathleen nghe con nói rất kinh ngạc cứ tưởng Nicola nói mê sảng nên sợ lắm. Nhưng Nicola cứ thỉnh thoảng lại nêu lên câu hỏi tương tự khiến bà Kathleen quyết định tìm thử thật hư. Hai tháng sau, bà cùng Nicola đến Haworth để dò la tin tức về gia đình nhà Benson. May mắn là bà Kathleen có quen biết với một vị chức sắc torng Đạo Cơ Đốc nên nhờ nhà thờ chính cổ xưa ở Harworth lục lại hồ sơ và biết được gia đình Benson có ba người con nhưng có một người con bị tai nạn xe lửa mà qua đời. Người con ấy là John Henry. 
- Trường hợp của bé gái Manju Sharma 
Đây là một trường hợp tái sinh khá lạ lùng. Câu chuyện có thật này do bác sì Pasricha thuật lại như sau: 
Manju Sharma là một cô gái Ấn Độ, sinh ra và lớn lên ở tại thành phố Brindevan (phía Bắc Ấn Độ). Manju Sharma thường nhớ lại quá khứ. Nhưng ở đây, Manju không phải nhớ lại quá khứ đời mình mà là những gì đã xảy ra ở kiếp trước. Manju kể như sau: 
"Tôi cứ nhớ hoài hình ảnh mình bị rơi xuống giếng nước tại làng Chaumula. Lúc tôi vừa đúng 10 tuổi hồi đó tôi tên là Krishna chớ không phải là Manju Sharma như bây giờ. Tôi đã tái sinh trở lại. 
Tôi đã gặp chú tôi, người chú tiền kiếp tên là Tanji. Tôi nhận ra người chú ấy ngay và đã nói chuyện rất lâu với chú ấy mặc dầu chú Tanji không nhận ra tôi là cháu của chú trước đây. Khi tôi nhắc đến Krishna thì chú nhớ và tỏ dấu tiếng thương vô cùng. Tuy không tin chuyện tôi là Krishna tái sinh nhưng chú tôi đã đồng ý để người mẹ tiền kiếp của tôi gặp tôi. Bà ta đến, tôi ngồi bên bà và kể lại những nỗi bất hành đã đến trong đời tôi cho bà nghe. Bà xoa đầu tôi và tỏ vẻ thương yêu tôi nhiều khi nghe tôi nhắc đến Kishna. Tôi ngỏ ý muốn theo bà, người mà tôi khẳng định là mẹ tiền kiếp của tôi. Ý muốn của tôi được thỏa mãn và tôi đã trải qua mười năm sống với ba má tiền kiếp tôi. Về phần ông bà thì sẵn lòng đón tôi về sống chung vì hai người luôn luôn nhìn tôi qua hình ảnh của đứa con thân yêu bị chết sớm. 
Bác sĩ Pasricha và một số nhà khoa học Ấn Độ đã đến gặp Manju lúc đó Manju đã là một người đàn bà có chồng và đã có 2 con. Khi hỏi người cha tiền kiếp về cảm tưởng của ông đối với Manju ra sao thì ông này cho biết như sau: 
- Chúng tôi gọi Manju là Kishna Devi. Chúng tôi tin tưởng rằng đó là con gái của chúng tôi. Các con của Manju gọi tôi là ông ngoại và vợ tôi là bà ngoại. Chúng tôi sống với nhau rất thuận hòa. 
Theo bác sĩ Pasricha thì Manju là con gái trong một gia đình người Bà La Môn (Brahmin) là một người đẳng cấp rất cao đối với người Hindu. Đây là một tấp cấp ở Ấn Độ và một thời vượt lên trên các tập cấp khác (theo Will Durang) trong xã hội Ấn. Nhưng Manju lại chịu đến sống với gia đình thuộc đẳng cấp thấp hơn rất nhiều. Như vậy không thể nào nghĩ rằng trường hợp Mánju là trường hợp tạo dựng ra sự kiện luân hồi tái sinh để mưu cầu lợi nhuận hay sung sướng cho đời mình được vì thông thường nghèo thường muốn tìm đến nơi người giàu. Ở đây, trường hợp của Manju thì ngược lại. 
- Trường hợp Tái sinh của Sudeih Babu 
Tại thành phố Baranes (Balanại) thuộc xứ Ấn Độ (lúc bấy giờ Ấn Độ là thuộc địa của người Anh) có nhiều nhà chiêm tinh, nhiều Đạo sĩ nhiều vị chân tu nhưng nổi tiếng nhất về lãnh vực chiêm tinh, ngoài Bhrigu ra, kế đến phải kể Sudeih Babu. Sudeih Babu là một nhà hiền triến cũng là một nhà chiêm tinh lừng danh của Ấn Độ. Dân chúng Ấn, nhất là người Ấn Độ giáo đã xem Sudeih Babu như một vị Thánh Sống. Ông thường ngày xem sách cổ và tĩnh tọa trong một ngôi nhà nhiều phòng với hàng vạn cuốn sách cổ bí truyền. Chính vào thời đó một phái đoàn khoa học gia người Anh Gồm các giáo sư tiến sĩ đến xin gặp ông và đã nghe ông thuyết giảng về mọi vấn đề thuộc lãnh vực khoa học, kỹ thuật, sinh vật tự nhiên và các hiện tượng siêu nhiên, chính Sudeih Babu đã tiên đoán rằng từ năm 1957 trở đi thế giới vẫn tưởng rằng chủ nghĩa duy vật sẽ phát triển bành trướng khắp nơi. Nhưng sự thật, thuyết duy vật chỉ cực thịnh vào thời kỳ đầu và giữa của thế kỷ 20 mà thôi. Dần dần phong Duy tâm lại bắt đầu nở rộ hơn và đến cuối thế kỷ 20, chủ nghĩa Duy vật sẽ hoàn toàn sụp đổ khi đó những gì thuộc về Tâm linh sẽ nẩy nở và phát triển nhanh. Nhiều nhà khoa học đã quay về nghiên cứu các hiện tượng siêu hình với tinh thần hăng say thẳng thắn vì theo Sudeih Babu thì những nhà khoa học này chính là những hạt giống đang được gieo để sau nảy mầm đơm hoa kết quả phát tán khắp thế giới. Cũng theo nhà chiêm tinh này thì trong vòng 25 năm cuối thế kỷ 20 (kể từ năm 1975) thế giới sẽ có nhiều thay đổi lớn. 
Sudeih Babu ngoài tài tiên tri ông còn là người cứu giúp vô số những người cùng khổ ở Ấn Độ bằng nhiều phương các khác nhau theo những tài liệu và những lời truyền khẩu thì Sudeih Babu đã từng làm nhiều phép lạ. Ông còn biết trước ngày qua đời và ghi rõ từng ngày giờ tháng năm và những gì ông căn dặn mọi người sau khi ông mất. Vị Thánh Sống Sudeih Babu đã viên tịch đúng vào năm ông loan báo truớc, đó là năm 1918. Lời di chúc của ông là Dân tộc Ấn nên đoàn kết và nếu cần, nên hợp nhất tôn giáo. Ông cho hay: đất nước Ấn Độ sẽ còn nhiều xáo trộn và đau khổ, nạn đó và sự phân chia giai cấp, kỳ thị tôn giáo còn nhiều và sẽ có nhiều xô xát đẫm máu xảy ra. Ông khẳng định với các tín đồ Ấn Độ giáo rằng sẽ tái sinh vào năm 1926. 
Thời gian trôi qua, lời di chúc như chìm dần vào quên lãng. Nhưng thời gian vẫn tiến và năm 1926 nhằm ngày 23-11, có một cháu bé chào đời tại một ngôi làng nhỏ ở Ấn Độ, cháu được đặt tên là Satyanarayana Raju cháu bé mạnh khỏe không đau ốm gì. Sau khi bỏ bú sữa cháu lớn nhanh nhưng tuyệt nhiên không bao giờ chịu ăn thịt. Tuy còn nhỏ nhưng dáng dấp của chỉ của Raju giống người lớn, thường có vẻ đăm chiêu, tư lự và thích chơi một mình. Mỗi lần trông thấy người ăn xin qua đường là Raju vội vã chạy ra dẫn vào nhà lấy cơm cho ăn. Càng lớn Raju càng thích đến lễ bái ở các đền thờ và cung cách hành lễ rất rành rẽ mặc dù chưa học qua lần nào, điều này đã khiến cha mẹ Raju và ngáy các bà con bạn bè cũng lấy làm kinh ngạc. Dân chúng quanh vùng đều bắt đầu bàn tán về chú bé lạ lùng Raju. Thế rồi việc gì đến sẽ đến... năm Satyanarayana Raju đúng 13 tuổi bỗng có một sự kiện lạ lùng xảy ra. Câu bé đang ngồi suy tư thì bỗng nhiên vụt kêu thét lên một tiếng lớn rổi lại đi đứng tự nhiên như không có gì xảy ra. Người nhà lo sợ hỏi nguyên do thì chú bé chỉ lắc đầu im lặng. Qua đến chiều hôm sau, bỗng nhiên chú bé té xuống đất bất tỉnh nhân sự. Gia đình lo việc chạy chữa đến gần khuya chú bé Raju mới tỉnh lại. Lần này Raju có vẻ ngỡ ngàng xa lạ. Mọi việc quá khứ Raju đều không nhớ. Ngay cả đồ vật dùng hàng ngày cũng không biết để đâu. Rõ ràng lần này Raju đã là con người khác, chỉ có thể xác hình hài là của Raju mà thôi. Từ ngày đó trở đi, người nhà chứng kiến chuyện lạ này đến chuyện lạ khác nào Raju hát những bài hát xa xưa lạ lùng hay đọc những câu kinh dài và khó đọc. Đặc biệt nhiều khi Raju yêu cầu cả nhà ngồi quanh mình để nghe thuyết giảng những bài kinh bằng tiếng Phạn, thứ tiếng mà ngay cả cha mẹ Raju cũng công nhận là rất khó thì làm sao Raju đọc được? Cha mẹ sợ cậu bé bị ma nhập nên tìm thầy hóa giải nhưng mọi cố gắng đều vô hiệu. Trong khi đó, càng ngày cậu bé Raju vàng có nhiều hành động lạ lùng hơn nữa. Rồi vào một buổi trưa đứng bóng, cậu bé Raju bước ra sân, dang 2 tay rộng ra như hít thở dưỡng khí và chậm rãi tuyên bố: 
- Tôi không phải là Satyanarayana Raju, tôi chính là Sudeih Babu. 
Sau đó, để mọi người tin chắc mình là hóa thân của Sudeih Babu, Raju đã mô tả những gì mà trước kia mình đã sống như cảnh tượng thành phố Ben nares, ngôi nhà nhiều phòng của vị thánh sống, các tủ gỗ đầy ắp sách cổ, tên tuổi nhưng người nổi tiếng vào lúc đó nhất là đọc lại lời di chúng mà Sudeih Babu đã viết trước khi qua đời vào năm 1918... Và hình như để tăng cường cho niềm tin của mọi người, vị thánh sống này đã dùng tay không lấy từ không khí ra nhiều đồ vật và yêu cầu mọi người lần lượt nêu tên những thứ mình ưa thích để ông biếu tặng cũng bằng cách lấy từ không khí ra. Chính các ảo thuật gia nổi danh thế giới khi nghe tiếng của Babu đã không ngại xa xôi tốn kém tìm đến để quan sát và tìm hiểu vì họ nghĩ rằng Babu cũng chỉ là một ảo thuật gia và đã áp dụng một phương cách biểu diễn khác lạ nào đó mà họ cần phải đến quan sát tận mắt để phê phán hay học hỏi. Tuy nhiên, khi đối diện trước con người kỳ lạ đó, những nhà ảo thuật đã phải lắc đầu thán phục vì dù họ có tài ba điệu nghệ trong màn trình diễn lấy đồ vật từ không khí thì họ cũng chỉ giới hạn trong vài thứ mà họ đã định sẵn. Còn riêng Sudeih Babu (tức là Raju hóa thân) thì có thể lấy bất cứ thứ gì mà người khác yêu cầu. Có lần giữa đám đông người có một Fakir tỏ ý thách thức nên yêu câu Babu hãy lấy từ không khí ra cho mình một thứ đồ vật trong vòng 5 phút. Babu đưa tay ra lấy từ không khí ra một nắm đinh sắt và vui vẻ nói: 
"Đây là vật ông bị thiếu chứ không phải bị mất, tất cả 5 cái đinh và ở bàn chông của ông". 
Vị Fakir giật mình khiếp sợ vì quả thật ông đang kiếm vật đó. Hiện nay qua thân xác Satyanarayana Raju, Sudeih Babu đã có hàng triệu tín đồ theo ông. Ông có tài tiên tri và thường nhắdc nhở các tín đồ làm việc thiện cứu giúp người cùng khổ. Ông thường dùng đôi tay chữa bệnh nan y cho nhiều bệnh nhân và nhiều tín đồ còn cho biết có lần một người chết đuối quá lâu, bác sĩ vô phương cứu chữa, ông nghe tin vôi vã đến bên giường xoa nắn lưng ngực và mũi người chết, chỉ trong 15 phút người ấy cựa quậy thở ra hơi và sống lại. Những sự kiện về Raju đã làm sôi nổi dư luận Ấn và cả thế giới. Nhiều khoa học gia đã tìm đến quan sát, nghiên cứu và hầu hết đều cho rằng: "Đây là vấn đề vượt khỏi lằn ranh của khoa học thực nghiệm" Chính Colin wilson, một người luôn tìm tòi nghiên cứu những vấn đề khúc mắc cũng đã viết như sau: "Raju là hiện thân của vị Thánh Sống Ấn Độ". 
"Nông dân" - tranh của họa sĩ Laxman Aelay
- Trường hợp của Michael Wright 
Walter Miller là một thanh niên bảnh trai có nhiều nhân tình. Tuy nhiên trong số các người tình, anh ta yêu nhất là cô gái bạn học cũ. Hai người yêu thương nhau rất mực. Không may, vào năm 1967, Walter Miller bị tai nạn xe hơi và qua đời. Cô gái nghe tin bất tỉnh mấy lần. Cô quên ăn bỏ ngủ, khóc lóc suốt ngày suốt đêm. Thế rồi liên tiếp mấy đêm liên cô ta nằm mơ thấy Walter Miller trở về đức trước mặt cô nét mặt hớn hở và nói: "Em à! anh sẽ trở lại với em!". Cô gái mỗi lần tỉnh giấc đều buồn chán vì nghĩ rằng đó chỉ là giấc mơ vì không bao giờ người yêu của cô lại có thể trở về với cô lần nữa. Walter Miller đã chết và nấm mồ anh đã bị phủ biết bao lá rụng mùa thu rồi. 
Bốn năm sau cô gái lấy chồng và sinh hạ một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Michael Wright. Khi đứa bé đúng 3 tuổi nó trở nên khôn ngoan lạ lùng và nói chuyện như người lớn. Một hôm Michael nói: "Con chính là Walter Miller. Các đây khoảng ba bốn năm đã bị tai nạn xe hơi, chiếc xe lăn xuống dốc, cửa kính vỡ tan..." Sau đó, Michael kể hết tất cả những gì về mình, về cô nhân tình (giờ đây chính là mẹ của Michael) và còn nói rõ ràng tên người em gái của Walter Miller nữa, đã mô tả rõ ràng thành phố mà Walter Miller đã cùng bạn người bạn dừng lại nghỉ ngơi trước khi tiếp tục lại xe lên đường rồi tai nạn chết người xảy ra... Câu chuyện này đã được tác giả Quỳnh Châu lược thuật trong Tiền Phong (1991 Hoa Kỳ). 
Trong cuốn Have We lived beford của Linda Atkinson, vị nữ giáo sự triết học này đã nêu lên một số bằng chứng về sự kiện luân hồi tái sinh (tác giả Nguyên Minh đã dịch lại năm 1995 do hội Phật học Quan Âm ở Canada ấn hành). Chúng tôi xin tóm lược 5 trường hợp tái sinh có thật như sau: 
- Trường hợp bà Bridey Murphy 
Nhà thôi miên nổi tiếng Monrey Bernstein đã dùng phương pháp thôi miên để dẫn dụ bà Virgina Tighe đi vào giấc ngủ và tìm về quá khứ xa xăm của mình. Bà Virgina Tighe là một người đàn bà trẻ đẹp thông minh, sáng trí. Qua giấc ngủ thôi miên bà đã nhớ lại một tiền kiếp của mình lúc đó bà là một cô gái trẻ tên là Bridey Murphy. Cô là người Ái Nhĩ Lan, sinh năm 1798 tại Cork. cha cô tên là Duncan Murphy và mẹ tên là Kathleen. Cô có một người anh cũng có tên là Duncan. Vào thời đó gia đình Bridey sống hạnh phúc trong một căn nhà gỗ xinh xắn. Về sau Bridey lấy chồng. Người chồng là một luận sư tên là Brian Mc Carthy. Cả hai đến Belfast sinh sống. Số phận không may, Bridey qua đời khiến người chồng đau khổ không nguôi. Qua giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe cho biết rằng: "Lúc bấy giờ tôi (Bridey Murphy) tuy đã chết nhưng linh hồn tôi vẫn lẫn quất trong nhà, ở ngay đấy với Brian một thời gian nên biết Brian đau khổ vì nhớ thương tôi nhưng anh ta lại chẳng bao giờ thấy được tôi. Tôi cũng trở về Cork thăm anh tôi, tôi ở ngay bên cạnh anh ấy, nói chuyện với anh ấy nhưng anh ta chẳng thấy tôi và chẳng nghe được tôi nói. 
Nhà thôi miên Morey Bernstein đã đưa bà Virginia Tighe vào giấc ngủ thôi miên nhiều lần nữa. Ông đã ghi âm lại tất cả những lời kể của bà. Và hỏi ý kiến những nhà luật sư, bác sĩ, giáo sư, ký giả về trường hợp lạ lùng này bằng cách để những người này nghe những lời kể của bà Virginia Tighe về tiền kiếp của mình qua các cuộn băng ghi âm lại. Sau đó, nhà thôi miên Morey quyết định viết một cuốn sách về trường hợp Virginia và Bridey Murphy. Để cuốn sách có giá trị trung thực chớ không phải là viết chuyện bịa đặt, một nhà xuất bản đã đứng ra lãnh nhiệm vụ kiểm chứng sự việc. Nhà xuất bản này đã liên lạc với các cơ sở có liên hệ trong việc kiểm chứng sự kiện và hợp tác với một số nhân vật đáng tin cậy khác ở Ái Nhĩ Lan, như thư viện để kiểm tra về nhân vật Bridey Murphy cùng những sự kiện cùng liên quan mà qua giấc ngủ thôi miên, bà Virginia Tighe kể lại rõ ràng. 
Kết quả cho biết rằng các tài liệu sổ bộ ở Cork ghi rõ năm 1800 có luật sư tên John Mc Carthy làm việc ở đó. Ngoài ra trong cuốn niên giám có ghi tên 2 tiệm tạp hóa mà qua giấc ngủ thôi miên bà Virginia có nhắc đến. Đó là tiệm tạp hóa ở Belfast tên là Fari's và một tiệm tên là John Carrigan's. Về những địa danh khác mà bà Virginia nhắc đến qua giấc ngủ thôi miên thì phần lớn đều được xác nhận là đúng. 
Cuốn sách do nhà thôi miên Morey viết nhan đề là The Search for Bridey Murphy lúc bấy giờ (khoảng thập niên 1950) được coi là sách bán chạy nhất. Các báo chí đua nhau đăng tải và bình luận về chuyện lạ của Virginia Tighe, người đã nhớ lại tiền kiếp mình. Hồi đó tại Hoa Kỳ, phát sinh hai phe, một phe chống đối, bài bác, một phe bênh vực, ủng hộ mạnh mẽ về chuyện bà Virginia Tighe và cho hiên tượng tái sinh là có thật. Chuyện tái sinh của bà Virginia mới đây còn được đăng tải lại trong cuốn The People's Almanac của David Wallechinsky và Irving Wallace Battaw Books xuất bản. 
- Trường hợp của hai người không quen biết nhau: Phil và Ann 
Đây là một trường hợp ngẫu nhiên, lạ lùng đã xảy ra bắt đầu từ cuộc gặp gỡ của hai người chưa từng quen biết nhau bao giờ, một người tên là Phil một người kia tiên là Ann. 
Một hôm Phil lái xe hơi đến Maliba thì bị lạc đường. Phil còn đang ngơ ngác thí thấy một người đang đứng bên lề phố nên dừng xe hỏi thăm. Mặc dầu người này không biết rõ đường để chỉ vì thật ra cô ta không phải là dân ở đây nhưng vào lúc này tự nhiên Phil không quan tâm nhiều vào chuyện lạc đường nữa vì hai người tự nhiên cảm thấy cảm tình với nhau ngay mặc dầu mới gặp nhau lần đầu. Cô gái tự giới thiệu tên là Ann. Họ rủ nhau đi chơi đến chiều thì chia tay Phil về Los Angeles còn Ann thì về Monterey. Hai người lại gặp nhau và tuần kế tiếp, lần này, trước khi chia tay Ann buồn rầu bảo rằng nàng sẽ về trường học tại tiển bang Arizona. Hai người đều buồn bả và họ thấy thật sự đã thương yêu nhau rất nhiều, một thứ tình cảm lạ lùng đồng điệu giữa hai người thật hiếm thấy trên đời, đặc biệt họ có cảm tưởng lạ lùng như đã quen biết nhau từ thuở nào rồi và họ cảm tấhy bằng mọi cách phải sống bên nhau... 
Thế rồi trong giấc mơ tự nhiên Phil thấy Ann xuất hiện. Trong mơ rõ ràng Phil và Ann sống vui vẻ bên nhau. Phil lúc ấy có tên là Walter Morris và Ann là Martha Williams. Walter Morris là một mục sư thường đi diễn thuyết ở nhiều nơi và được nhiều người kính nể. Walter Morris có vợ nhưng ông ta ly dị vợ để theo sống với Martha Williams và Walter đã cùng Martha qua Trung Hoa làm việc chung với nhau trong Giáo Hội cứu giúp những người đau khổ bệnh tật. Thế rồi quân Nhật tiến chiếm Trung Hoa. chúng bắt bớ và sát hại vô số người. Mục sư Walter và Martha đã tính đến chuyện đưa một số trẻ em mồ côi xuống tàu để đến Hoa Kỳ nhưng tàu vừa rời bến đã bị chiến hạm Nhật chận bắt và giết hại trong số đó có cả Martha. Mục sư vô cùng đau xót và uất hận nên đã liên kết với những người bị Nhật bắt trói trên tàu nửa đêm thình lình tấn công các thủy thủ Nhật. Cuộc tàn sát diễn ra, nhưng sau một chiếu tàu khác của Nhật đã đến tiếp ứng nên toàn thể người nổi loạn đều bị chết. Mục sư bị rơi xuống biển và cố bơi thật xa torng đêm. Sáng hôm sau được một chiếc tàu bi qua vớt lên và qua bao gian khổ, mục sư đến được Hoa Kỳ và chết ở đó sáu tháng sau. Cái chết của mục sư Walter, tự nhiên làm Phil tỉnh giấc và từ đó giấc mơ cứ ám ảnh Phil hoài. Phil tự hỏi đó có phải chính là cuộc đời của mình không? Đó có phải là tiền kiếp của mình không? Nhưng đó chỉ là giấc mơ. Tuy nhiên tại sao giấc mơ lại đủ chi tiết như thế? Cái tên Walter Morris hiện ra rõ ràng trong trí Phil, các hình ảnh sự việc, địa danh, năm tháng đều đầy đủ. Chỉ có cách kiểm chứng lại qua các sổ bộ thành phố tỉnh hạt liên quan, thế rồi Phil viết thư hỏi phòng sổ bộ thành phố này và được trả lời rằng Walter Morris là một mục sư sống ở đây khoảng thập niên 1930. Phil còn được cho biết tại thành phố này vẫn còn cháu chắt họ hàng liên quan đến mục sư Walter Morris. Phil liền nghĩ việc gửi thư liên lạc với những người này theo những địa chỉ đã được các viên chức trả lời thư của Phil trước đây cho biết. 
Một thời gian sau, Phil nhận được một số thư trả lời trong đó có thư của một người đàn bà cho biết trong khoảng thập niên 1930 bà ở gần Walter Morris từ lúc mục sư đi qua Trung Hoa cứu giúp những người nghèo và trẻ mồ côi cho đến khi người Nhật xâm lăng Trung Hoa. Một người đàn bà khác tên là Crawley ở South Carolina thì cho biết bà ta là con gái của Mục sư Walter Morris. Khi đọc thư của người đàn bà tên Crawley này, Phil vừa kinh ngạc vừa hồi hộp vừa lạ lùng vì bà cho biết: "cha tôi đã bỏ mẹ tôi khi bà còn đang mang thai để theo một người đàn bà khác, mặc dầu vậy, ba tôi lại thường gởi thư về cho má tôi. Ông tả rất chi tiết những gì ông đã trải qua... 
Thế rồi, Phil yêu cầu được đến South Carolina để gặp mặt Crawley. Phil được bà này trao cho một xấp thư dày của mục sư Walter Morris gởi cho mẹ bà lúc đó. Đọc cẩn thận cả tập thư Phil vô cùng kinh ngạ vì tất cả những gì mục sư viết trong thư đều giống hệt các sự việc mà Phil đã thấy rõ từng chi tiết trong giấc mơ. Tự nhiên Phil linh cảm được rằng mình chính là mục sư Walter Morris chính nhờ sự gặp Ann mà châu chuyện hiện ra rõ ràng từ đầu tới cuối trong ký ức của Phil. Như thế Ann và Phil đã có một thời sống bên nhau ở kiếp trước... và bà Crawley phải chăng là con của Phil ở kiếp trước? 
- Trường hợp người đàn bà Diane Strom
Bà Diane Strom có chồng, gia đình sung túc nhưng luôn luôn bà bị một nỗi lo âu dằn vặt trong lòng về vấn đề tiền bạc. Mỗi khi có điều gì liên quan đến tiền là bà sợ sệt lo lắng mất ăn mất ngủ nhất là phải nợ ai dù số tiền nhỏ mọn bà cũng vẫn canh cánh bên lòng vì bà linh cảm như mắc nợ ai thì rồi sẽ có một sự khủng khiếp ghê rợn xảy đến với bà. Nổi lo lắng lạ lùng ấy cứ xảy ra mãi làm bà Diane Strom trở lên một con người luôn luôn suy nghĩ, sợ hãi, hồi hộp như bà bị bệnh về giáp trạng tuyến bị tổn thương. Nhưng khi đến bác sĩ khám nghiệm thì kết quả bà chẳng có bệnh gì cả. Cuối cùng người bạn mách cho bà đến bác sĩ Morris Netherton người đã từng áp dụng phương pháp khơi dậy ký ức xa xăm hay nói khác đi là tiền kiếp của những người bị khủng hoảng tinh thần vô căn cứ. Khi truy nguyên được nguyên nhân thì sự khủng hoảng ấy sẽ mất dần đi. 
Nghe lời bạn, bà Diane đến gặp bác sĩ ẩn khuất trong lòng cho bác sĩ nghe. Bác sĩ Morris thuyết phục và khuyên dụ bà Diane xem thử nghĩ sâu xa về cuộc đời mình ngược về quá khứ để xem thử nguyên nhân nào đã gây nên sự lo sợ lạ lùng trong cuộc sống hiện nay của bà. Nhiều tuần lễ trôi qua. Nhờ phương pháp dẫn dụ ấy của bác sĩ Morris mà bà Diane có thể tập trung được tư tưởng mình và phát hiện được những cảm giác và hình ảnh lạ mà từ lâu bà chưa từng biết tới. Bà thấy mình là một bé gái ngây thơ tên là Rita. Rita là một đứa con rơi vì bị mẹ là một nữ kịch sĩ ở NewYork bỏ rơi khi vừa hai tuổi. Lúc ấy Rita được một cặp vợ chồng ở Pensylvania nhận về nuôi. Năm lên 13 tuổi, Rita lại bơ vơ lần nữa vì cha mẹ nuôi bị tai nạn xe hơi qua đời. Bé Rita sống lạc loài không nơi nương tựa đến 6 năm trời và đến năm 20 tuổi Rita gặp một người đàn ông tên là Keith Mc Culluw, họ yêu nhau và cưới nhau. Rita sinh hạ một trai, nàng cảm thấy hạnh phúc về mọi mặt vào lúc này, nàng lại có một công ăn việc làm đàng hoàng. Rita chuyên vẽ kiểu thời trang và tự cắt may lấy một tiệm may mặc tại đại lộ thức bảy ở New York. Nhưng cuộc sống sung sướng hạnh phúc không kéo dài được bao lâu. Mùa đông năm 1928 chồng Rita qua đời rồi năm sau đứa con nàng cũng bị bệnh rồi mất. Trong khi đó, khắp Hoa Kỳ, tình trạng khủng hoảng kinh tế gia tăng trầm trọng. Rita bị vỡ nợ, số nợ quá lớn khiến phải phá sản và Rita tuyệt vọng đến độ phải tìm cái chết để giải quyết vấn đề. Nàng thắt cổ tự vẫn ngay trong phòng làm việc hôm đó là ngày 11 tháng 6 năm 1933, lúc ấy Rita vừa đúng 30 tuổi... 
Sau khi biết rõ chi tiết về cuộc đời mình, tự nhiên bà Diane Strom cảm thấy thoải mái trong lòng, giống như một người đang đau khổ uất ức được òa lên rồi sau cơn nức nở ấy bỗng cảm thấy được vơi đi phần nào đau khổ. 
Nhờ các sự kiện xảy ra rất gần và các chi tiết rất rõ ràng nên bác sĩ Morris đã nhờ các nhân viên ở văn phòng lưu trữ hồ sơ, các sổ bộ ở New York kiểm chứng lại xem về những gì mà bà Diane đã cho biết như cửa tiệm may mặc ở đường số 7 tại New York, tên của người đàn ông Keith Mc Culluw, cái chết của nữ chủ tiệm may mặc tên là Rita.v.v... Tất cả những gì đã được trả lời đều phù hợp với những điều mà bác sĩ Morris đã ghi nhận được từ bà Diane sau mỗi lần dùng phép dẫn dụ để ký ức bà trở về đời sống quá khứ hay nói khác đi là quay về những sự kiện xảy ra từ kiếp trước. Theo bác sĩ Morris Netherton thì tái sinh là câu giải đáp của vấn đề và Rita là tiền thân của bà Diane Strom. 
- Trường hợp của Dolores Jay 
Hai vợ chồng Carroll và Dolores Jay sống yên vui hạnh phúc trong một căn nhà lớn ở Hoa Kỳ. Ông Carroll là một mục sư có khả năng thôi miên và thường giúp nhiều người bị bệnh nhức đầu nhờ phương pháp thôi miên này. Riêng bà Dolores Jay, vợ ông thì có nhiều lần nằm ngủ và mơ thấy nhiều chuyện lạ lùng và bà thường la, hét, rên rỉ và nói năng qua giấc mơ. 
Ông Carroll quyết định áp dụng phương pháp thôi miên để tìm nguyên nhân sự việc đã khiến vợ ông nói mê sảng trong giấc ngủ. Qua nhiều lần thực hiện phương pháp thôi miên, bà Dolores Jay đã được đưa vào giấc ngủ và trả lời bằng những câu hỏi của chồng rất có mạch lạc. Bà Dolores cho biết rằng trước đây bà là cô gái Đức tên là Gretchen Gottlieb. Lúc 16 tuổi Gretchen cùng người cậu ruột cởi ngựa đi dạo thì bất thần bị một bọn cướp giết chêt. Giờ đây, bà là Dolores nhưng hình ảnh về cuộc giết chóc khủng khiếp ấy cứ xuất hiện ngày càng rõ nét trong mộng dữ. Điều kỳ lạ là phần lớn khi hỏi về hoàn cảnh, thời gian, địa điểm xảy ra sự kiện thì bà Dolores đều trả lời qua giấc ngủ thôi miên bằng tiếng Đức mà thôi. Ông Carroll đã mời một số chuyên viên biết tiếng Đức tới dự những buổi thôi miên của mình cho vợ là Dolores. Chính những người nay đã nêu những câu hỏi mà họ tin chắc là bình thường bà Dolores không biết, không thấy, không nghe được vì nó thuộc về lịch sử, về những gì liên quan đến nước Đức cũng như sinh hoạt, phong tục, tập quán, nghĩa là đời sống hàng ngày tại Đức khoảng thời gian mà bà bảo mình là cô gái Gretchen. Tuy nhiên những câu hỏi trả lời của bà Dolores qua giấc ngủ thôi miên đều rất phù hợp với những sự thật vào hoàn cảnh đó ở Đức, mặc dầu bà Dolores sống ở Mỹ và chưa bao giờ học tiếng Đức hay đặt chân tới nước Đức. 
Để được chắc chắn hơn, hai vợ chồng Carroll và Dolores đến gặp chủ tịch Hội Kiểm Nghiệm, dò xét người nói dối (Scientific Life Detection Inc ở New York vào năm 1974). Sau những câu hỏi hóc búa và đầy tính cách kiểm chứng của những nhân viên trong hội tập chú vào bà Dolores, với sự hỗ trợ của máy dò thì kết luận được đưa ra là bà Dolores hoàn toàn trung thực, tự nhiên và quả quyết trong các câu trả lời và đó là sự thật. Sự thật rõ ràng nhất cho thấy là chưa bao giờ bà Dolores nói tiếng Đức vì bà đã chưa bao giờ học tiếng Đức cả, bà cũng chưa bao giờ sống ở Đức. Vậy mà trong giấc ngủ thôi miên bà lại nói tiếng Đức và nói đúng giọng (các cuộn băng ghi âm được thu trực tiếp). Vậy phải chăng bà Dolores Jay là hậu kiếp của cô gái Đức này? 
Mặc dù ông Carroll là một mục sư chuyên phục vụ ở nhà thờ Methodist và cũng là nhà giáo nhưng ông tin rằng: Sở dĩ vợ ông là bà Dolores nói tiếng Đức một cách kỳ diệu như thế là do bà đã từng là một cô gái Đức ở tiền kiếp. 
- Trường hợp bé Imad Elawar 
Đây là trường hợp mà nhà nghiên cứu về hiện tượng luân hồi Ian Stevenson xem như bằng chứng rõ rệt nhất chứng minh sự tái sinh là có thật. 
Sự kiện xảy ra tại một ngôi làng ở nước Liban. Tại đây có một cháu bé trái tên là Imad Elawar. Bé Imad rất thông minh, mau biết đi và biết nói. Nhưng khi nói câu đầu tiên rõ ràng thì đó là chữ Jamileh. 
Trong nhà không hiểu bé Imad nói chữ đó là nghĩa là gì. Bé Imad bảo đó là tên của một đứa con gái trẻ đẹp. Bé còn bảo rằng nó có hai người em tên là Amin và Huda nhưng những người em hiện nay không còn nữa. Imad cho biết nó là con của gia đình Bouhamzy ở Khriby. Trong đời nó trước đây nó đã trải qua một kiếp sống với nhiều sự kiện đáng sợ. Nó đã chứng kiến cảnh rùng rợn chết chóc khi một người láng giềng bị xe vận tải cán chết một cách khủng khiếp rồi khi nó làm tài xế lái xe buýt, có lần ngừng xe lại vừa nhảy xuống xe thì bất ngờ chiếc xe vẫn tiếp tục chạy làm bị thương nhiều người, nó còn kể mình thường đi săn, có lần cải lẩy của một người, và tức giận dùng súng bắn người ấy... Nó nhớ đủ chuyện, và tự nhiên kể cho mọi người trong nhà nghe, khiến ai cũng ngạc nhiên cứ tưởng rằng thằng bé Imad bị nhiễu loạn thần kinh. 
Một hôm bé Imad đi dạo với bà nó, lúc còn bé vừa lên bốn. Giữa đường nó gặp một người đàn ông đi ngược chiều nó chạy lại và kêu lên co vẽ vui mừng: 
- A! Đây là người láng giềng ngày xưa của tôi. 
Người đàn ông kia ngơ ngác chẳng hiểu gì cứ tưởng bé nói đùa. Câu chuyện được bà của Imad kể lại cho gia đình nghe, về sau cha của Imad mới biết được rằng người đàn ông này ở làng Khriby, nhà ông ở gần nhà của gia đình Bouhamzy sống. Chính nhà nghiên cứu Ian Stevenson đã tìm hiểu kỷ chuyện lạ về bé Imad. Ông cho biết ngôi làng hiện nay bé Imad đang ở cách xa Khriby khoảng 30 cây số. Bác sĩ Stevenson đã đề nghị kiểm chứng sự kiện bằng cách đi với Imad và cha của cháu đến Khriby. Mặc dầu là nơi xa lạ nhưng bé Imad có vẻ quen thuộc đường sá trong chuyến đi ấy. Tại đây có gia đình Bouhamzy. Bác sĩ Stevenson tìm hiểu và biết rằng trong gia đình này có một người bị chết vì tai nạn xe hơi thật rùng rợn giống như điều bé Imad đã kể trước đó. Người cha trong gia đình này là Haffez Bouhamzy cho biết họ có một người anh em họ tên là Ibrahim Bouhamzy. Khi đến căn nhà của Ibrahim, vừa bước vào sân, Imad đã dừng lại chỉ tay vào cuối sân và nói: 
- Đây là chỗ của con chó ở. Chỗ kia là chỗ nuôi dê. Nơi đây có một căn nhà nhỏ để lưu trữ các dụng cụ. Khi bước lên lầu tới căn phòng của Ibrahim, bé Imad chỉ một cái giường và nói: 
- Cái giường này xưa kia tôi nằm ngủ. Imad còn cho biết giường đã đổi chỗ vì ngày xưa giường này để ở chỗ khác. Bà Bouhamzy hỏi thử bé Imad một điều mà bà nghĩ rằng chỉ khi nó ở đây trong tiền kiếp thì nó mới biết được thôi. Bà hỏi như sau: 
- Này! cháu có nhớ là tại đây cháu đã thường xuyên chuyện trò với bạn bè bằng cách nào không? 
Imad chỉ cái cửa sổ và trả lời một cách tự nhiên khiến bà Bouhamzy kinh ngạc: 
- Qua cái cửa sổ ấy. 
Theo lời bà Bouhamzy thì trước khi Ibrahim qua đời, bệnh tình ngày càng nặng không ai có thể đến thăm. Ibrahim lúc bấy giờ chỉ nằm trên giường và nói chuyện với bạn bè qua cửa sổ ấy mà thôi. 
Người nhà thường nghe Imad nhắc đến cân súng săn nên sẵn dịp hỏi Imad thử cây súng cất ở đâu. Imad cho biết cây súng giấu sau tủ. Điều này hoàn toàn đúng. Lúc đó người em gái của Ibrahim là Huda bước đến hỏi Imad một câu: 
- Có biết tôi không? 
Imad cười nói: À Huda em tôi đây mà. 
Huda ngạc nhiên vô cùng chỉ bức hình vẽ treo trên tường hỏi: 
- Hình của ai đấy? 
Imad trả lời: 
- Đó là hình của em trai tôi, Fuad đó! 
Huda lại đi lấy một tấm ảnh chụp của Ibrahim hỏi Imad. 
- Còn đây là hình của ai? 
Imad nhìn kỹ hình rồi nói: 
- Đây là hình tôi trước đây! 
Bỗng Huda như chợt nhớ ra điều gì, đến gần Imad và nói: 
- Nếu quả là Ibrahim thì trước khi chết, Ibrahim nói câu gì? 
Imad trả lời với giọng buồn buồn: 
- Huda ơi! hãy kêu Fuad đi! 
Nghe Imad trả lời như thế, Huda nổi gai ốc khắp người. Quả thật lúc đó, trước khi tắt hơi, Ibrahim đã kêu lên như thế. Như vậy, mọi người có mặt, kể cả bác sĩ Stevenson cũng đều thừa nhận rằng Imad chính là Ibrahim tái sinh. 
Trong cuốn Bạn Tinh có Tái Sanh, tác giả Minh Tuệ (1974) đã viết lại một số trường hợp có thực về tái sanh (tài liệu được cung cấp bởi Đại Đức Narada Maha Thera, ông Francis Story và Amarasiri Weerarartna) xin tóm lượt như sau: 
- Trường hợp nam tài tử nổi danh Glenn Ford 
Giới điện ảnh quốc tế và giới mộ điệu phim ảnh không ai là không biết đến nam tài tử gạo cội Glenn Ford của màn bạc Hoa Kỳ. Cuộc sống sôi động qua các vai của Glenn Ford trong cuộc đời hiện tại cũng tượng như trong "Những cuộc đời tiền kiếp" của ông. Glenn Ford nói: "Tôi không mê tín dị đoan, tôi không tin những điều mù quáng vớ vẩn, nhưng tôi tin vào cái gọi là đầu thai". 
Glenn Ford ngoài say mê đóng phim, ông còn một say mê khác là tìm hiểu những vấn đề có tính cách huyền bí nhưng đầy tính khoa học. Ông say mê lý thuyết về Thiền học, và đồn ý ới phương pháp yên tĩnh tâm hồn qua thuật thôi miên. Chính nhờ sự giúp đỡ của một chuyên gia tài giỏi về khoa thôi miên Glenn Ford đã ghi lại qua băng ghi âm lời thuật về chính tiền kiếp của mình như sau: 
"Năm 1774 tôi chào đời tại Egin (thuộc xứ Scotland). Tên tôi lúc ấy là Charles Stewart, là một nhạc sư, tôi thường dạy nhạc cho nhiều người. Về sau tôi bị bệnh phổi và qua đời n8m 1812". 
Tôi còn biết là tôi cũng đã trải qua một kiếp làm người nữa vào thời đại vua Louis thứ 14 của nước Pháp nghĩa là khoảng những năm 1643 đến 171. 
Lúc bấy giở tôi là một sĩ quan kỵ binh bảo vệ hoàng cung tên tôi là Launvaux. Trong thời gian bảo vệ điện Versailles, tôi đã để ý và yêu tha thiết một phụ nữ quý tộc đã có chồng. Không may là câu chuyện yêu đương tuy chưa thành sự thật, nhưng lại bị chồng người đàn bà này biết và thách thức đấu súng. Kết quả là tôi bị bắn trọng thường và tôi phải trải qua một thời gian dài đau đớn quằn quại trước khi chết..." 
Điều kỳ lạ là sau này khi nam tài tử Glenn Ford còn sống, ông thường hay bị đau nhức ngưới, chỗ đau này chình Glenn Ford cảm nhận rõ ràng và ông thường than với bác sĩ riêng của mình về vết đau kỳ lạ ấy. Chính Glenn Ford đã viết trong tập hồi ký đời mình về vấn đề này như sau: 
"Vết thương từ cuộc đấu súng tay đôi từ "kiếp trước" ấy vẫn thỉnh thoảng làm tôi đau đớn ngay ở "đời hiện tại" và chỉ có mình tôi cảm nhận đều được đó thôi." 
- Trường hợp cậu bé Michael Croston 
Machael Croston sanh tại Liverpool (nước Anh). Năm Michael đước 11 tuổi tự nhiên cậu bé có phong thái của một người lớn chững chạc và cậu cảm nhận được rằng mình chính là ông ngoại của đã qua đời trước trước khi Michael chào đời. Chính mọi người trong gia đình của Michael cũng thấy rõ điều đó. Cậu bé thuộc nằm lòng các đường phố lớn, nhỏ, mòn, đường tắt vùng hoang giã. 
Yorkshire nơi quê nhà của cậu, nhưng cậu chưa bao giờ đặt chân tới. Vậy mà cậu đã dẫn người nhà đến đó và chỉ những ngã tắt, cửa sau, đường băng như một người đã sống ở đó lâu đời. Chỉ có ông ngoại của cậu mới có khả năng ấy thôi. 
Một điều lạ lùng đã xảy ra là có một đêm, Michael trằn trọc không ngủ được nơi căn trại khi chiết đồng hồ quả lắc to lớn cứ tích tắc như nhắc nhở cậu điều gì. Rồi khi đồng hồ điểm 2 giờ khuya, cậu cảm thấy như có cái gì đó thôi thúc khiến phải vùng dậy chạy nhanh xuống dưới cầu thang và lần tay sau chiếc đồng hồ, cậu gặp một cái nút kéo ra. Trong một cái hốc, tay cậu chạm vào những tờ giấy bạc để trong chiếc hộp kim loại. Về sau hiện tượng lạ lùng này đã được biết rõ nguyên nhân hơn về sự khám phá món tiền mà ngày xưa ông ngoại cậu đã cất dấu. Nguyên nhân khêu gợi quá khứ chính là tiếng đồng hồ kêu và khi đồng hồ vang lên 2 tiếng thì dó là giờ mà xưa kia ông ngoại cậu đã chết. 
- Trường hợp Edith Oliver (người Anh) 
Bà Edith Oliver là nữ ký giả Anh đã có lần viếng ngôi làng Avenbury. Khi đến địa điểm này bà bỗng nhiên nhớ lại rằng nơi đây có chợ búa với những khối đá to lớn. Tuy nhiên rằng dân làng bảo rằng ở Avenbury không có như vậy nhưng cuối cùng các tài liệu địa phương chí lại cho thấy vào những năm 1800 đến 1850 quả thật ở đây có những điều mà bà Edith Oliver đã mô tả. Như vậy chỉ có một kết luận là kiếp trước bà Edith Oliver sống tại đó? 
- Trường hợp cô bé Gnanatilaka 
Gnanatilaka sinh năm 1956 tại Kotamale (Tích Lan) khi gần năm tuổi cô bé này đòi cha mẹ dẫn đi tìm cha mẹ ruột chính thức của mình. Lời yêu cầu ấy cứ mãi lập đi lập lại nhiều lần nhưng cha mẹ cô bé vẫn cho là con mình nói cho vui miệng hoặc nghĩ rằng người trong xóm làng bày vẽ nó nói mà thôi. Tuy nhiên càng lớn đứa bé càng van nài khẩn thiết được gặp mặt cha mẹ nó. Chuyện lạ lùng này đến tai một số nhà khoa học, tâm lý và tôn giáo trong vùng. Cuối cùng, lời yêu cầu của bé Gnanatilaka được thực hiện. Phái đoàn đi chung với cô bé đến vùng Talawakele. Cô bé dẫn đường rất rành rẽ. Họ bước vào một căn nhà mà cô bé gọi là nhà cha mẹ mình. Bé giới thiệu hai vợ chồng ngôi nhà này là cha mẹ kiếp trước của mình. Lúc ấy có một giáo viên nhà trong vùng nghe chuyện đến xem thì cô bé bảo là thầy cô. Cô bé cho biết kiếp trước cô là con trai tên la Tilakaratna. Cô còn chỉ nghĩa trang và mộ chí của mình tức là của bé trai Tilakaratna cho mọi người thấy. Khi kiểm tra lại mọi chi tiết của bé Gnanatillaka ra đời, vùng TalaWakele có cậu bé tên là Tilakaratna và cậu bé chính là con của hai ông bà mà cô bé nhận là cha mẹ tiền kiếp. Cậu bé Tilakaratna chết yểu vào ngày 9 tháng 11 năm 1945 chôn tại nghĩa trng mà bé Gnanatillka đã dẫn mọi người đến chỉ đúng mộ chí và bảo đó là mộ chí của mình ngày xưa (ý nói đến tiền kiếp). 
Điều kỳ lạ là hai gia đình không liên lạc quen biết nhau và ở rất xa nhau vậy mà tất cả những gì cô bé đã mô tả về gia đình mà cô bé đòi đến hoàn toàn đúng. 
Chính bác sĩ Stevenson cũng đã đích thân đến Tích Lan để theo dõi và tìm hiểu vấn đề này và bác sĩ đã bảo rằng, đây là một trường hợp đặc biệt trong các trường hợp lạ lùng về hiện tượng tái sinh. 
Nhà nghiên cứu về sự chết và những hiện tượng tiếp diễn sau khi chết là Jeffrey Iverson đã thu thập nhiều tài liệu liên quan đến vấn đề, trong đó có vấn đề Luân Hồi và Tái Sinh. Trong cuốn In Search of the Death xuất bản năm 1992, Jeffrey Iverson đã đưa ra một số trường hợp tái sinh xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Đó là những chuyện có thật được xem như những bằng chứng rõ ràng nhất về hiện tượng luân hồi. 
Sau đây là vài chuyện điển hình: 
Quảng cáo bia châu Âu.
- Trường hợp cô bé Shanti Devi ở Ấn Độ 
Câu chuyện có thật sau đây về cô bé Shanti Devi đã một thời làm xôn xao dư luận Ân đến độ báo chí, đài phát thanh, các phái đoàn khoa học và ngay cả Ghandi, người cha của dân tộc Ấn cũng phải đích thân tới gặp mặt Shanti để hỏi chuyện. Chính bác sĩ Ian Stevenson, nhà khoa học chuyên nghiên cứu về những hiện tượng liên quan đến luân hồi tái sinh ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới cũng đã phát biểu như sau: 
- Trường hợp của bé Shanti Devi có thể nói là một trường hợp cổ điển nhất về hiện tượng đầu thai. 
Nhà nghiên cứu và biên soạn các sách chuyên về các vấn đề huyền bí siêu linh là Jeffrey Iverson cũng đã tìm hiểu kỹ câu chuyện theo từng chi tiết một vào năm 1988. Các nhà nghiên cứu đã đến New Đê li (Delhi) để gặp Shanti và hy vọng khám phá thêm nhiều điều lý thú lạ lùng khác nhưng không may cho họ là Shanti Devi đã qua đời trước đó 2 tháng hưởng thọ 61 tuổi. Mặc dầu vậy, tại Delhi, hầu như ai cũng biết chuyện bé Shanti tái sanh. Họ biết được câu chuyện rất rõ ràng từ năm 1935 là năm khởi phát ra sự kiện lạ lùng. Về sau trong gia đình Shanti, ông Viresh Narair là người anh ruột đã thường đón tiếp các nhà báo, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu khắp nơi trên thế giới đến tìm hiểu và ông đã kể lại mọi chi tiết về trường hợp Shanti Devi, em gái ông. Nhưng năm sau đó vấn đề chưa lắng dịu. Nhiều nhà nghiên cứu sự kiện nêu nhiều ý kiến như Bal Chand Nahata thuộc Hiệp hội Phân tích tâm lý ở Ấn Độ cho rằng cần phải có sự tiếp tay hỗ trợ của những nhà tâm lý học, những nhà khoa học trong ủy ban điều tra thì mới hy vọng đem lại những khám phá trung thực. Qua những cuộc tìm hiểu, phỏng vấn, đối chiếu các sự kiện từ năm 1935-1938 các nhà nghiên cứu vẫn chưa hài lòng vì có nhiều điểm chưa được rõ ràng. Phải đến 3 năm sau, một nhân vật có tiếng khác là ông Sushil Bose đã bỏ khá nhiều thời gian để tìm hiểu về trường hợp của Shanti Devi và kết quả là ông đã tìm ra được bằng chứng xác thực chứng minh rằng hiện tượng lạ lùng về Shanti Devi là có thật. 
Shanti đã kể về tất cả những diễn tiến của tiền kiếp mình, lúc đó Shanti là người đàn bà tên Ludgi. Theo Sushi Bose nhà nghiên cứu hiện tượng Shanti thì trước tiên, ông tìm gặp người cha của Shanti tên là Rang Bahadur Mathur ở Cheerakhana và được biết rằng bé Shanti Devi biết nói chậm hơn các trẻ khác cùng lứu tuổi. Phải đến năm 3 tuổi Shanti mới nói được. Bé luân luôn trầm tư mặc tưởng, đăm chiêu tư lư lạ thường. Đôi khi những trẻ con khác chọc ghẹo hay làm điều sai quấy, ồn ào gây bất hòa xích mích thì Shanti thường tỏ ra nhẫn nhục, chịu đựng, nghiêm trang, trông giống như một người lớn và dàn xếp mọi chuyện một cách êm đẹp thần tình. Một chuyện lạ đã xảy ra sau đó khi Shanti ngồi chung với gia đình trong bữa cơm chiều. Shanti đã hỏi người mẹ một câu như sau: 
- Mẹ ơi! Con thấy mẹ nấu những món ăn khác với những gì con đã ăn lúc ở thị trấn Mathura quá nhiều. Những món này con ăn không quen. Còn quần áo cũng vậy cũng có khác với nơi con đã sống trước đây. Mẹ biết không, gia đình con hồi đó có một tiệm bán áo quần và căn nhà con đã ở thì sơn màu vàng. 
Mọi người trong lúc đầu còn ngạc nhiên về câu nói kỳ lạ đó, nhưng sau đó trở thành thói quen và không ai còn quan tâm đến một đứa bé con đôi khi hay phát ngôn những câu "bậy bạ"... Tuy nhiên, càng về sau Shanti càng tỏ vẻ nôn nóng và năn nỉ cha mẹ dẫn mình đến thăm căn nhà cũ ở Mathura và nhất là để thăm người chồng ngày xưa hiện còn sống ở đó. 
Một nhà giáo ở Đề Li (Delhi) nghe chuyện lạ về Shanti nên đã tìm gặp tìm hiểu. Lúc đó Shanti đúng 8 tuổi. Nhà giáo này cố gắng tìm cách để Shanti nhớ lại rằng nếu kiếp trước quả thật bé đã sống ở thị trấn Mathura có chồng ở đó thì hãy thử nhớ lại tên chồng xem sao. Khi nghe lời yêu cầu này, Shanti liền trả lời như sau: "Nếu tôi thấy được anh ấy tôi sẽ nhận ra ngay". Theo báo cáo ghi lại thì sở dĩ Shanti không nhắc đến tên chồng là do phong tục ngày xưa của người Ấn khi theo đạo Hindu thì người vợ không bao giờ nói tên chồng mình cho người khác biết. Nhà giáo này đã tìm cách mua chuộc Shanti (vì Shanti chỉ là một cô bé nhỏ dại) bằng một vài quà tặng và còn hứa rằng nếu bé nói rõ tên chồng lúc đó thì ông ta sẽ giúp bé đến thị trấn Mathura. Shanti suy nghĩ một hồi rồi xích lại gần nhà giáo và nói nhỏ vào tai ông ta: "Ông nhớ giữ in nhé! tên chồng tôi lúc đó là Pandit Kedernath Chowbey". 
Trong khi đó người cha của bé Shanti lại cho biết như sau: "Chẳng có ai trong gia đình biết về những gì bé Shanti đã nói cả. Chẳng có ai hay biết thăm dò, điều tra gì về căn nhà ở Mathura hay người được gọi là chồng của Shanti nói ra đều có thật! Chúng tôi toàn thể gia đình đều mong soa cho Shanti quên đi những gì mà cháu thường nhắc nhở đến má thôi". 
Về sau, nhà giáo này lại đến lần nữa và lần này đi cùng một người có vai vế ở trường, đó là ông Lalá Kishan Chand, hai người này yêu cầu Shanti mô tả thất rõ ràng căn nhà ở Mathura, cả số nhà, con đường nữa. Họ ghi lại cẩn thận và hỏi về người đàn ông mà Shanti đã bảo là chồng tiền kiếp của mình. Rồi chẳng chờ đợi lâu, ông Chand viết một lá thư trình bày sự việc gởi ngay đến cho Pandit Kedenmath Chowbey là người chồng kiếp trước của Shanti theo địa chỉ ấy ở thị trấn Mathura. Họ gọi đây là "một bức thư may rủi" vì họ không chắc có người và địa chỉ như Shanti đã nói. 
Một thời gian không lâu, họ nhận được một lá thư từ thị trấn Mathura gởi đến. Tất cả mọi người trong gia đình Shanti ở Delhi khi nhận được bức thư đều vô cùng kinh ngạc vì trên phong bì có ghi rõ họ người gởi là tên của người Shanti đã từng bảo là chồng mình. Khi đọc lá thư, ông Chand hoàn toàn sửng sốt, vì những gì viết trong thư đều phù hợp với những gì mà Shanti đã mô tả. Người viết thư này chính là Chowbey. (đúng tên người mà Shanti thường bảo là chồng mình ở tiền kiếp) Chowbey có cho ông Chand biết là anh ta có một người vợ tên là Lugdi đã chết. Chính anh ta cũng rất ngạc nhiên về những điều mà ông Chand đã viết trong thư về chuyện Shanti. Chowbey viết thêm là anh ta sẽ nhờ một người em họ đang ở Đề Li (Delhi) đến gặp mặt Shanti để tỏ rõ thật hư. Khoảng 2 tuần sau, người em họ của Chowbey tên là Pandit Kanjimall đã tìm đến nhà Shanti đã nhận ra ngay là người em họ của chồng mình và Shanti đã hỏi thăm đủ chuyện nào là chuyện con cái, chuyện ngôi nhà ở Mathura, hỏi luôn cả cửa tiệm bán quần áo, cửa tiệm này ở trước ngôi đền Dwarikadesh. Thấy Shanti còn nhỏ nhưng lại nói chuyện như người lớn. Vả lại người nhà Shanti còn cho biết là Shanti cũng như mọi người trong gia đình chưa ai từng đặt chân tới thị trấn Mathura thì Kanjimall lại càng kinh ngạc hơn nữa vì tất cả những gì mà Shanti mô tả đều hoàn toàn đúng sự thật. 
Vào ngày 12-11-1935, người đàn ông tên là Chowbey ở Mathura sau khi nhận được thư do người em họ kể lại chuyện lạ lùng về Shanti và còn cho biết là Shanti có thể là hiện thân của Lugdi Devi, vợ của Chowbey nên anh ta vừa bán tín bán nghi, vừa nôn nao hồi hộp, vội vã đáp tàu hỏa đến Đề Li để gặp Shanti, người tự nhận là vợ anh. 
Chowbey khi đi còn dẫn theo một cháu bé trai chính là con của Lugdi Devi, tên là Nabanita Lall (hiện tại thì đứa con trai này lớn tuổi hơn Shanti). Ngoài ra, đi theo Chowbey còn có người em họ là Kanjimall và người vợ mới sau này mà Chowbey đã cưới sau khi Lugdi Devi qua đời. Khi cả bốn người này vào nhà thì Shanti còn đi học chưa về. 
Trong khi chờ đợi, người nhà trong gia đình Shanti sau khi nghe Chowbey thuật lại mọi việc có liên quan đến Shanti thì vội vã mời khách ngồi chơi và cũng kể hết những gì đã xảy ra về trường hợp lạ lùng khó hiểu của con gái họ là bé Shanti. Khoảng một giờ sau Shanti đi học về. Bước vào nhà, cô bé ngạc nhiên vì thấy có nhiều người nơi phòng khách, Shanti vừa chào khách vừa nhìn lén từng người. Khi Shanti nhìn Chowbey thì bỗng nhiên cô bé tỏ vẻ kinh ngạc rồi bước ngay tới ngồi gần một bên Chowbey với thái độ bẻn lẻn e thẹn. Tất cả mọi người có mặt đều im lặng theo dõi. Người nhà Shanti liền chỉ Chowbey và nói: 
- Đây là người anh cả của chồng cháu ngày xưa, vậy cháu có nhận ra không? 
Shanti vừa mân mê vạt áo vừa trả lời: 
- Không phải đâu, đây là chồng của con. Con đã nói chuyện này nhiều lần cho cả nhà nghe nhưng không ai tin con cả. 
Mọi người nghe Shanti nói đều hết sức lạ lùng. Người này nhìn người kia, còn Chowbey thì nhìn Shanti chăm chăm. Trong khi đó, người vợ kế của Chowbey ngơ ngác như đang trải qua một giấc mơ. Shanti chợt thấy đứa con trai đứng bên Chowbey thì nắm tay nó tỏ vẻ âu yếm vừa hôn vừa khóc sụt sùi một hồi rất lâu. Shanti bảo mẹ đi tìm đồ chơi cho nó và có lẽ sợ mẹ đi tìm chậm nên Shanti đã hăm hở chạy đi lục lọi đủ mọi thứ quà đem lại cho "con". 
Về sau người cha của Shanti đã kể lại hình ảnh lạ lùng này mà ông đã chứng kiến rõ ràng. Mặc dầu Shanti còn nhỏ nhưng phong thái, cử chỉ lời nói, nét mặt và ánh mắt biểu lộ rõ nét những đức tính của một người mẹ thương con. Đó là cả một sự lạ lùng khó hiểu. 
Theo lời người cha của Shanti kể lại thì không ai còn cho Shanti là một đứa bé con nữa cả. Còn Shanti thì nước mắt trào ra vì sung sướng mà khóc. Mọi người khi đó thấy cảnh tượng ấy cũng tự nhiên mủi lòng rơi lệ... 
Mặc dầu câu chuyện được dấu kỷ không để lộ ra ngoài nhưng ở Ấn Độ cũng như ở những nước Đông Nam Á khác không có chuyện nhà nào dù kín đáo bí mật đến đâu mà hàng xóm láng giềng lại không biết. 
Vì thế mà câu chuyện về bé Shanti chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp vùng. Nhiều người tụ tập lại nhà Shanti để xem chuyện "lạ nhất thế gian nhưng có thật". 
Chiều hôm đó, Shanti vui vẻ thúc mẹ làm cơm mời gia đình Chowbey và chỉ mẹ những món ăn mà Chowbey thường thích. Khi thấy người vợ mới của Chowbey ngồi gần bên người em họ có đeo nhiều nữ trang ấy trước đây là của mình (lúc ấy Shanti là Lugdi Devi), sau khi Lugdi mất, Chowbey đã lấy nữ trang ấy cho người vợ kế đeo. 
Sau bữa cơm, Shanti quay lại hỏi Chowbey: 
- Anh Chowbey, tại sao anh lại cưới chị ấy? Có phải chúng ta đã đồng ý với nhau trước khi tôi nhắm mắt là anh sẽ không cưới vợ lần nữa? 
Cả nhà lại một phen kinh ngạc vì câu nói hoàn toàn là của người lớn đầy vẻ trách móc, than oán, giận hờn, lý lẽ luật lệ mà ngoài người lớn ra, tuyệt đối không thể một đứa trẻ nào có thể phát ngôn một cách tự nhiên như vậy được. 
Trong khi mọi người còn đang ngơ ngác thì Chowbey đưa hai tay ôm lấy đầu cúi gục xuống không nói gì cả. Có lẽ Chowbey đang tưởng nhớ lại người vợ cũ của mình cùng những gì mà hai người đã ước hẹn thề nguyền với nhau hồi trước đó. 
Hồi lâu, Chowbey ngẩng mặt lên nhìn Shanti và hỏi: 
- Shanti đã tả lại ngôi nhà trước đây ở thị trấn Mathura như vậy, Shanti có thể biết được những gì trong vườn nhà ấy chứ? 
Shanti gật đầu nói: 
- Phải, tôi còn nhớ rất rõ ngôi nhà và cả khu vườn. Nơi khu vườn, ở phía góc có một cái giếng. Tôi thường ngồi bên giếng để giặt quần áo, rửa đồ đạc và tắm nữa... 
Chowbey lại hỏi: 
- Làm thế nào mà Shanti lại nhận được Nabanita là con mình vào giờ phút Shanti sắp qua đời lúc đó vì thằng Nabanita chỉ mới được có 9 ngày thôi? 
Shanti suy nghĩ một lúc rồi trả lời Chowbey: 
- Bởi vì Nabanita chính là cuộc sống của tôi, là cuộc đời tôi... 
Ngày 24 tháng 11 năm 1935, một nhóm người trong ủy ban điều tra những sự kiện về Shanti đến nhà Shanti để cùng đáp tàu hỏa đến thị trấn Mathura để nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề. Lúc bấy giờ chuyện Shanti lan truyền khắp nước. Báo chí Ấn đăng tải nhiều chuyện rất lạ lùng mà học điều tra được về Shanti nhất là nhà báo Indian Press, The Tej... thường dành nhiều trang lớn để kể về chuyện lạ Shanti. 
Cùng đi với phái đoàn có Shanti và cha mẹ ruột của cô bé. Trên chuyến tàu, những người trong ủy ban điều tra đã ghi nhận một sự kiện là khi gần đến nơi, Shanti đã thốt lên một câu như sau: 
- Đã 11 giờ rồi, cổng đền Dwarikadesk sắp đóng đấy. 
Trong câu nói ấy, người ta thấy có một điều lạ là Shanti đã dùng một từ ngữ đặc biệt có tính cách hoàn toàn địa phương và nhất là từ ngữ mà người Hindi hay dùng. 
Dân chúng ở thị trấn Mathura trong những ngày hôm ấy nôn nóng loan truyền với nhau về chuyện cô bé tái sinh Shanti sẽ đến thăm lại nơi tiền kiếp cô bé đã sống. Báo chí Ấn Độ loan tin ngày hôm đó có đến hơn 10.000 người tề tựu ở Sân ga của thị trấn Mathura để xem mặt cô bé tái sinh. 
Trong khi đó, Shanti ngồi gọn trong lòng ông Deshbandu, một thành viên trong nghị viện Ấn. Bỗng Shanti thấy một người đàn ông bước tới phía mình, liền chạy đến sờ chân người đàn ông ấy với vẻ kính trọng xong đứng sang một bên nói cho Deshbandu nghe rằng: "đây là người anh chồng lớn tuổi nhất lúc xưa của tôi". Mọi người nghe Shanti nói thì hết sức kinh ngạc vì quả thật người đàn ông này chính là anh ruột của Chowbey. Anh này ở Delhi và đáp tàu đến Mathura thăm gia đình Chowbey vì đã nghe chuyện lạ lùng do Kanjimall kể lại và bất ngờ gặp nhóm người này. 
Khi bước xuống sân ga, ông Deshbandu bế Shanti lên chiếc xe ngựa chờ sẵn và nói người đáng xe là cứ theo sự chỉ dẫn đường đi tới nhà của bé Shanti thử xem sao. Trên đường đi, Shanti cho biết là ngày xưa (khi Shanti còn là Lugdi, vợ của Chobey) con đường dẫn tới nhà mình không được rải đá tráng nhựa gì cả. 
Đến nơi, Shanti bảo người đáng xe ngựa ngừng lại rồi leo xuống đất rẻ vào một con đường để vào ngôi nhà nhiều cây cối. Shanti gặp một người Bà La Môn (Brahmin) già liền dừng lại kính cẩn chào, xong quay lại nói với những người đi theo sau: 
- Đây là ông bố chồng của tôi! 
Trong khi đó, hai bên đường làng, dân chúng nghe tin đồn từ trước về chuyện "Shanti về nhà cũ của tiền kiếp" đã tụ tập rất đông để xem cho được cô bé tái sinh. 
Còn Shanti sau khi chào bố chồng thì đi ngay vào ngôi nhà một cách rất tự nhiên. Đây đúng là ngôi nhà của người bố chồng, nơi mà trong tiền kiếp, lúc đó Shanti là Lugdi đã cùng Chowbey đến ở một thời gian. 
Shanti đã chỉ nơi mà trước đây mình đã ngủ, nơi mình đã treo, móc, cất quần áo. Shanti còn tỏ ra quen thuộc tự nhiên với những người ở trong ngôi nhà này. Điều kỳ lạ nhất là trong đám đông đứng gần nhà, Shanti đã phân biệt rõ ràng được một thanh niên khoảng 25 tuổi là anh ruột của mình ở tiền kiếp (lúc Shanti và Lugdi) và một người đàn ông lớn tuổi mà Shanti gọi là anh của bố chồng. 
Đến trưa, những người ở trong ủy ban bảo Shanti chỉ đường cho họ đến thăm ngôi nhà của vợ chồng shanti lúc Shanti là Lugdi đã chỉ đường rõ ràng và đến ngay ngôi nhà đó. Tại đây, Shanti nhớ lại rằng mình đã có nói rằng ở khu vườn nhà có cái giếng và thường ngôi tắm ở đó. Nhưng bây giờ không ai thấy cái giếng đâu cả. Shanti tỏ ra bối rối và suy nghĩ. Sau đó, Shanti đến góc sân dùng chân dậm dậm xuống đất và nói: 
- Nơi này này! tôi nhớ rõ chính nơi này ngày trước có cái giếng mà... 
Những người có mặt tại chỗ đến ngay nơi Shanti đã dẫm chân lên. Họ quan sát thật kỷ và khám phá ra rằng đã có một phiến đá lớn đặt lên đó và từ lâu ngày cỏ, đất phủ lên nên không còn thấy miệng giếng nữa. Hai ba người đàn ông liền cố sức đẩy phiến đá đi và miệng giếng lộ ra rõ ràng. 
Bỗng Shanti như chợt nhớ ra điều gì nên vội vã quay vào trong nhà. Shanti gọi những người trong ủy ban theo mình. Lúc này có thêm sự hiện diện của Chowbey (chồng của Shanti kiếp trước). Bước vào một căn phòng, Shanti chỉ xuống đất và nói: 
- Đây là phòng ngủ của hai vợ chồng tôi lúc đó, tôi có đào xuống nền nhà của phòng này để chôn dấu một số tiền. Hãy đào chỗ này lên sẽ thấy cái hộp, trong đó tôi có để tiền... 
Khi nền nhà được đào bới lên, mọi người có mặt thấy một cái hộp đặt dưới một phiến đá nhưng khi mở hộp ra thì không thấy có gì trong hộp cả. 
Shanti nhíu mày tỏ vẻ suy nghĩ và kinh ngạc nhưng cương quyết nói: 
Tôi đã để tiền vào trong cái hộp này mà! vậy ai đã lấy tiền đó vậy? Khi đó Chobey có mặt tại chỗ liền nói ngay: 
Vợ tôi là Lugdi có chôn hộp tiền xuống nền nhà của phòng này. Khi Lugdi chết, tôi đã phải đào lấy tiền trong hộp để trang trải mọi thứ. 
Shanti nghe Chowbey nói liền cúi đầu im lặng. Shanti còn chỉ căn nhà của cha mẹ mình ở tiền kiếp cho những ngưới trong ủy ban điều tra xem. Shanti bước những bước chân rất tự nhiên và vững vàng quen thuộc lên các bậc cấp của ngôi nhà tựa hồ như đã ở đây hàng chục năm rồi. ngay tại nhà này, đã có hàng mấy chục người vừa đàn ông vừa đàn bà vừa con trẻ ngồi đứng chờ Shanti có thể nhận ra cha mẹ ruột tiền kiếp của mình không. 
Tưởng cũng nên nhớ rằng khi chuyện Shanti loan thuyền khắp nơi. Gia đình Lugdi vẫn còn nhiều ngờ vực. Sau đó ngươi nhà Lugdi (tiền kiếp của Shanti) đứng lẫn trong đám đông để khi Shanti tới xem cô bé có nhận ra được cha mình ở kiếp trước không? Thế rồi khi Shanti đến, cô bé đi thăm toàn thể ngôi nhà và phải đi ngang qua đám đông sắp thành hàng ngang đứng quanh vườn nhà. Bỗng Shanti rẽ đám đông, tiến lại nắm tay một người đàn bà kêu lên: 
- Mẹ! Mẹ... 
Sau đó, Shanti lại nhận được người cha tiền kiếp của mình đứng trong đám đông. Hai người Shanti nhận là cha ruột của mình ở kiếp trước chính là cha ruột Lugdi, vợ của Chowbey. Mọi người có mặt lúc bấy giờ đã la hét vang rền và vỗ tay nồng nhiệt vì đã chứng kiến tận mắt một chuyện lạ lùng nhất thế gian về hiện tượng tái sinh kỳ diệu. Shanti còn đưa ủy ban đi thăm những nơi mà trước đây mà Shanti đã sinh sống qua thân xác của Lugdi. Dân chúng quanh vùng càng ngày càng đổ xô đến xem chuyện lạ. Thị trấn Mathura tự nhiên ồn ào náo nhiệt lạ thường. Bốn ngày sau đó Shanti cùng phái đoàn trở lại Đê-Li. Thị trấn Mathura xa dần trong tầm mắt và càng lúc Shanti càng tỏ vẽ u buồn rồi vì quá mệt mỏi, Shanti đã ngủ thiếp rất lâu trên đường về. 
Có một điều đáng lưu ý khi gặp Chowbey, ông Sushil Bose đã có dịp hỏi Chowbey, chồng của Lugdi về tình trạng sức khỏe và bệnh tình của Lugdi ra sao đến nỗi phải chết. Chowbey cho biết rằng vợ anh lúc đó là Lugdi bị nhiễm trùng do đạp phải một mảnh xương. Sau đó khi trở về Đê-Li, ông Bose hỏi Shanti một câu như sau: 
Shanti bảo rằng trước đây Shanti là Lugdi, vợ của Chowbey. Vậy Shanti có nhớ lúc mình là Lugdi, thì đã bị thương tích, đau ốm nguy hiểm gì trước khi qua đời không? Shanti suy nghĩ một hồi rồi trả lời: 
Lúc ấy tôi ( tức là Lugdi rất sùng đạo( đạo Hindu) tôi thường hành hương nhiều nơi và hành lễ đúng thủ tục, đôi khi còn vượt xa các thủ tục đã đề ra. Một hôm, tôi đã đi bộ bằng chân không( chân đất không mang giày dép gì cả) để đi bộ quanh ngôi đền hiển linh rộng lớn ở Harchapiri cả trăm lần không mỏi mệt. Nhưng không may là tôi đã dẫm phải một mảnh xương sắc lẽm và bị nhiễm độc rất nặng. Chất độc lan vào máu và bác sĩ đành phải bó tay. Khi nghe Shanti kể song sự việc, ông Bose đã ghi vào cuốn sổ tay của mình một câu như sau: 
Không còn nghi ngờ gì nữa về hiện tượng tái sinh luân hồi của Shati Devi và Shanti là một trường hợp điển hình. Tất cả những gì chính cô bé mô tả đều phù hợp hoàn toàn. Đó là điều khẳng định sự thật hiển nhiên rằng Shanti là hậu thân của Lugdi và Lugdi chính là tiền kiếp của bé Shanti. 
Người Ấn từ ngàn xưa đã tin vào thuyết luân hồi nên khi chứng kiến rõ ràng sự kiện cô bé Shanti thì họ lại càng tin tưởng nhiều hơn nữa về hiện tượng tái sinh. 
Riêng câu chuyện có thật về Shanti thì từ năm 1935 đến nay các sách vở và các tài liệu viết về Shanti được lưu trữ tại các văn khố và thư viện quốc gia khắp thế giới rất nhiều. Tài liệu "Shanti" được coi như là tài liệu mẫu mực nhất cho các nhà nghiên cứu về tiền kiếp và hậu kiếp tham khảo và tiếp tục nghiên cứu thêm. 
Mới đây người ta còn bổ sung thêm vào tài liệu Shanti một số sự kiện mới thí dụ những ghi chép trong gia đình về giòng họ Shanti có ghi rằng trước khi Shanti lìa đời 3 hôm, Shanti đã nói với anh mình rằng: "Em nghĩ em luôn luôn là kẻ trung thành, trước sau như một với chồng em, cho dù anh ta (Chowbey) là chồng kiếp trước của em đi nữa. Hơn nữa anh ta vẫn còn đó, vì thế em không muốn tái sinh lại lần nữa." 
Được biết là suốt đời Shanti vẫn độc thân không chịu lấy chồng cho đến ngày nhắm mắt (hưởng thọ 61 tuổi). 
Theo Tuvien.com
Không ảnh Bến Nghé - Canal (năm 1931) - Khi đó cầu Khánh Hội còn là cầu quay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét