Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng, nên giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”. Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào, dù khác chính kiến, đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử đã chứng minh dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất khuất, cuộc đấu tranh sẽ thành công.
A- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC CHÍNH QUYỀN TỈNH QUẢNG ĐÔNG (TRUNG HOA) KHẢO SÁT TRÁI PHÉP QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀO NĂM 1909 VÀ TIẾP TỤC XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM Ở HOÀNG SA CHO ĐẾN NĂM 1930
Việt Nam bị Pháp xâm lược năm 1858, mất hết chủ quyền tự chủ ngoại giao theo Hiệp ước cuối cùng ký với Pháp năm 1884, nên đã không bảo vệ được chủ quyền của mình tại Hoàng Sa khi bị các nước khác xâm phạm.
Trong thời Pháp thuộc, vào tháng 6/1909, chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa) do Tổng Đốc Trương Nhân Tuấn đứng đầu, vào tháng 6 năm 1909 như báo chí Quảng Châu hồi bấy giờ đưa tin, lần đầu tiên đă cử một hạm đội nhỏ của nhà Thanh đã đi khảo sát trái phép quần đảo Paracels, vốn của Việt Nam từ lâu, tên chữ là Hoàng Sa hay tên nôm gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng.
Tên Tây Sa là tên do chính quyền Quảng Đông đặt ra sau sự kiện tháng 10/1907, khi chính quyền Nhà Thanh đuổi được nhóm thương gia người Nhật Nishizawa Yoshiksugu chiếm giữ đảo Pratas trong 3 tháng (từ 2-7-1907). Cũng bắt đầu từ đó, chính quyền Quảng Đông đặt tên Pratas là Đông Sa, vốn là tên một đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, đã được ghi rất rõ trên bản đồ “Duyên hải toàn đồ” trong sách Hải quốc văn kiến lục của Trần Luân Quýnh (1730).
Không phải chính quyền thực dân Pháp không biết sự kiện khảo sát trái phép này. Chính bức thư của Lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp ngày 4-5-1909 đã nêu rõ ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam khi viết: “Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86 ngày 1-5-1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến Chính phủ Trung Hoa chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên triều và tới một mức độ nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels“. [Monique, Chemillier - Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys, Paris, L’Harmattan, 1996, p.206].
Cũng cần lưu ý, bức thư trên được viết khi chính quyền Quảng Châu đang chuẩn bị thực hiện chuyến khảo sát. Cuộc khảo sát diễn ra sau đó, có mặt cả người Đức. Đoàn khảo sát rời Hồng Kông vào ngày 21-5-1909 và về Quảng Châu vào ngày 9-6-1909.
Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi cho Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp có một số nội dung đáng lưu ý sau đây:
- Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam.
- Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên là của Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò). [Monique, Chemillier - Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996, p.207]
- Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn tệ, vợ con bị bắt đến Hải Nam. [Monique, Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996, p. 210]
Như thế Chính phủ Pháp ngay tại chính quốc đã rõ ý đồ của chính quyền Trung Hoa (dù chỉ là chính quyền địa phương) xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại Paracels (Hoàng Sa). Sở dĩ chính quyền Pháp không ngăn chặn hành động khảo sát trên vì nhiều lý do:
Một là khi ấy, Pháp chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ sở hữu quần đảo của nước “An Nam” mà Pháp bảo hộ theo Hiệp ước Patenôtre 1884. Vấn đề ngăn chặn ý đồ của Trung Hoa ngay từ năm 1909 mà Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu là Beauvais đã báo cáo, bị chính quyền Pháp ở mẫu quốc bỏ qua.
Điều này cũng dễ hiểu, nếu như các đảo ấy vốn thuộc sở hữu của nước Pháp hoặc thuộc đất Nam Kỳ, nhượng địa hay thuộc địa chứ không phải đất bảo hộ, thì chắc chắn Chính phủ Pháp sẽ có hành động ngăn chặn ngay và sẽ không thể xảy ra tranh chấp lâu dài về sau. Nếu không, Chính phủ Pháp sẽ bị kết tội hay sẽ bị lên án do chính người Pháp hoặc giới chính trị hoặc những công dân yêu nước của Pháp.
Hai là chính quyền thực dân Pháp ngại sự ngăn chặn có thể làm phát sinh trong ḷòng dân chúng Trung Hoa một phong trào “sô vanh” có hại cho quyền lợi Pháp ở Trung Quốc.
Điều này cũng đã được Ông Beauvais nêu ra trong chính văn thư báo cáo ngày 4-5-1909 gửi Ông Bộ trưởng Ngoại giao Pháp và đã được Chính phủ Pháp cân nhắc làm theo :
“Như vậy, thưa Ông Bộ trưởng, nếu ta còn lợi ích trong việc ngăn không cho Chính phủ Trung Hoa nắm lấy nhóm các đá ngầm này, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng nghiên cứu, tìm ra các lập luận chứng minh rõ ràng quyền của chúng ta và những bằng chứng không thể bác bỏ về quyền đó. Nhưng nếu việc đó không đáng làm, sau khi đã suy nghĩ chín chắn, có lẽ nên nhắm mắt làm ngơ. Một cuộc can thiệp của chúng ta sẽ có khả năng làm xuất hiện một phong trào sô vanh mới làm cho chúng ta bị thiệt hại nhiều hơn lợi ích mà việc sở hữu được thừa nhận đối với quần đảo Hoàng Sa đem lại ” (Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.211-212).
Trong văn thư đề ngày 14 Janvier 1921 của Ông Chủ tịch Hội đồng Pháp quốc (tức Thủ tướng) kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Pháp gửi Bộ trưởng Bộ Hải quân Pháp cũng đã khẳng định Bộ Ngoại giao Pháp đã nghe theo ý kiến của Beauvais (Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 205).
Ba là các quan chức thực dân Pháp từ Phủ Toàn quyền đến Bộ Thuộc địa hay Bộ Ngoại giao Pháp không biết rõ hoặc rất mơ hồ về sở hữu từ lâu thuộc về Việt Nam.
Có rất nhiều bằng chứng như chính Ông Beauvais trong bản báo cáo trên cũng không chắc chắn mà chỉ nói : “có lẽ sẽ dễ dàng nghiên cứu…”.
Cho đến ngày 6 tháng 5 năm 1921, có nghĩa sau hơn 1 tháng ngày 30-3-1921, lệnh mang số 831 của Ban Đốc chính chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa sau phiên họp ngày 11-3-1921 đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính các đảo Hoàng Sa vào huyện Yai Hien (Châu Nhai, đảo Hải Nam), Vụ Các vấn đề chính trị và Bản xứ thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương đã có văn bản ghi chú (Note) ghi rất nhiều điều liên quan đến quần đảo Hoàng Sa lấy từ Hồ sơ hiện có ở Phủ Toàn quyền Đông Dương, cho biết đã tìm trong kho tư liệu của hải quân Sài Gòn, lưu trữ của Thống đốc Nam kỳ, của Phủ Toàn quyền không thấy có tư liệu nào có tính chất làm rõ quốc tịch của các đảo Hoàng Sa. Chính lúc Toàn quyền Đông Dương ra chỉ thị điều tra về vấn đề quốc tịch của Hoàng Sa cũng là lúc nhận được bức thư của Tổng Lãnh sự Beauvais ở Quảng Châu báo tin có sự kiện chính quyền quân sự Nam Trung Hoa quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Đông.
Rõ ràng sự kiện Chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa ra tuyên bố sáp nhập Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông ngày 30 tháng 1 năm 1921 cũng đã xảy ra vào thời Pháp thuộc, khi Việt Nam đã hoàn toàn mất chủ quyền.
Khi còn mơ hồ về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Ḥoàng Sa, trong khi ấy thực chất quyền lực nhà nước là do chính quyền thực dân Pháp nắm, nên chính quyền thực dân Pháp không tích cực ngăn chặn sự vi phạm chủ quyền của chính quyền Quảng Đông tại quần đảo Hoàng Sa là chuyện đương nhiên. Chắc chắn khi Việt Nam vẫn còn chủ quyền, được độc lập tự chủ hay Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Pháp thì chính quyền nào cũng phải lấy nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước mình. Vì thế chung quy không có sự ngăn chặn kịp thời sự xâm phạm chủ quyền của chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa vào năm 1921 cũng như của chính quyền Quảng Đông năm 1909 chính là do Việt Nam bị Pháp đô hộ, không c̣òn chủ quyền để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Vậy về phía Việt Nam nguyên nhân sâu xa hay khách quan dẫn đến sự tranh chấp không đáng có chính là Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất hết chủ quyền để có thể bảo vệ lãnh thổ của mình khi bị xâm phạm.
Về phía Trung Hoa, nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam để tránh xảy ra sự kiện bất cứ nước nào nhất là các cường quốc hồi bấy giờ phỗng tay trên, chiếm cứ những đảo ở Nam Hải mà Trung Hoa coi là vô chủ.
Về phía chính quyền thực dân Pháp, nguyên nhân chủ quan chính là do quyền lợi riêng của chính quyền thực dân Pháp đã khiến Pháp không phản ứng kịp thời để Trung Hoa cho là đất vô chủ và đi sâu vào hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và sự thiếu hiểu biết do hạn chế của người đi đô hộ, không hiểu quan điểm của Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Song sau đó, Chính quyền thực dân Pháp đã bắt đầu quan tâm đến hành động trái phép của chính quyền Quảng Đông với quần đảo Hoàng Sa. Nguyên nhân nào khiến Chính quyền thực dân Pháp bắt đầu quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa trong thời gian từ năm 1921 đến 1930?
Đó chính là do tầm quan trọng của vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa đối với an toàn quyền lực của chính quyền thực dân Pháp và do sự hiểu biết lập trường của Việt Nam (theo Thượng thư Bộ Binh Thân Trọng Huề giải thích).
Trước hết chính vì vị trí chiến lược quan trọng của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Biển Đông đối với lãnh thổ Pháp đang cai trị, nên thực dân Pháp ở Đông Dương phải cân nhắc lợi hại, đã quyết định đối mặt với những ý đồ tranh chấp chủ quyền của các nước khác trong đó có Trung Quốc.
Lúc ban đầu, trong bản báo cáo ngày 04 tháng 5 năm 1909, Tổng Lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu đã đề cập tới tầm quan trọng vị trí của quần đảo Hoàng Sa, song lại chưa sát sườn với lợi ích của chính quyền thực dân, dù có hệ trong đến hàng hải hay sự đe dọa đối với ngư dân Việt nam như sau:
“Về vấn đề này, nhân viên của chúng tôi nhận xét rằng các đảo Hoàng Sa đối với chúng ta có một tầm quan trọng nhất định: vì nằm giữa tuyến đường đi từ Sài Gòn đến Hồng Kông, các đảo đó là một mối nguy hiểm lớn đối với hàng hải và việc chiếu sáng ở đó có thể là cần thiết. Ngoài ra, các đảo đó thường có ngư dân An Nam và Trung Quốc qua lại: họ đến đó trong quá trình đánh cá để sơ chế sản phẩm. Đã xảy ra những cuộc đổ máu giữa ngư dân hai nước trong dịp đó”. [Cf. Monique Chemillier - Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.197].
Trong văn thư của Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol gửi Toàn Quyền Đông Dương vào ngày 22-1-1929 đã nhấn mạnh về vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa:
“Trong tình hình hiện nay, không ai có quyền phủ nhận tầm quan trọng chiến lược rất lớn của các đảo Hoàng Sa. Trong trường hợp có xung đột, việc nước ngoài chiếm đóng chúng sẽ là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất có thể có đối với việc phòng thủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên bang [Đông Dương]“.
“Thực vậy, các đảo nói trên là sự kéo dài tự nhiên của Hải Nam. Đối phương có thể lập ở đó một căn cứ hải quân hùng mạnh nhờ những vụng và nhiều nơi đậu tàu tuyệt vời. Một đội tàu ngầm dựa vào căn cứ đó sẽ có thể, không những phong tỏa cảng Đà Nẵng là cảng quan trọng nhất của Trung Kỳ, mà còn cô lập Bắc Kỳ bằng cách ngăn cản việc đi đến Bắc Kỳ bằng đường biển. Lúc đó để liên lạc giữa giữa Nam Kỳ với Bắc Kỳ ta phải dùng đường sắt hiện có, một con đường rất dễ bị đánh vì chạy dọc theo bờ biển, pháo hải quân đặt trên các chiến hạm có thể mặc sức phá hủy“.
“Đồng thời, mọi con đường thông thương giữa Đông Dương – Viễn Đông – Thái Bình Dương sẽ bị cắt đứt: hải lộ Sài G̣òn – Hồng Kông đi gần quần đảo Paracels, do đó nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của căn cứ trên các đảo”. [Cf. Monique Chemillier - Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.174].
Mặc dù có những báo cáo rất rõ về tầm quan trọng của Hoàng Sa đối với việc bảo vệ lãnh thổ thuộc địa Đông Dương của Pháp, song phải có sức ép của dư luận báo chí của người Pháp ở Đông Dương thì chính quyền thực dân Pháp mới có những hành động cụ thể để bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa của nước được Pháp bảo hộ.
Đầu tiên, với loạt bài trong các số 606, 622, 623, 627 (tháng 1, 5, 6 năm 1929), nhà báo Henri Cucherousset đã lược qua về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa với những dẫn chứng hết sức cụ thể như:
1/ Jean Baptiste Chaigneau viết năm 1820 dưới nhan đề: Notice sur la Cochinchine cho biết năm 1816 vua Gia Long đã thực sự chiếm đảo Hoàng Sa.
2/ Giám mục Jean Louis Taberd viết trong Journal of the Asiatic Society of Bengal, Tập VI, năm 1837, tr.737 và những trang kế tiếp; Tập VII, năm 1838, tr.317 và những trang kế tiếp đề cập đến quần đảo Hoàng Sa trong mục “Géographie de la Cochinchine”.
3/ Dubois de Jaucigny viết trong L’Univers – Histoire et Description de tous les peuples de leurs religions. Moeurs, coutumes; Japon, Indochine, Ceylan xuất bản năm 1850 tại Paris, F. Didot xuất bản, có đoạn viết: “… từ 34 năm về trước quần đảo Hoàng Sa (mà người An nam gọi là Cát Vàng đã được chiếm cứ bởi các người xứ Nam Kỳ”. Cucherousset còn viết những chi tiết về quần đảo Hoàng Sa trong Nam Việt địa dư [Hoàng Việt địa dư?], Minh Mạng năm thứ 14; Đại Nam nhất thống chí, in thời Duy Tân, Tập 6, tờ 18b, 19a cùng việc tàu De Lanessan thám sát Hoàng Sa năm 1925.
Theo tác giả, quần đảo Hoàng Sa quan trọng do 5 đặc tính sau đây:
1/ Là trạm cho thủy phi cơ tuyến Sài Gòn – Hồng Kông, Tourane – Philippines.
2/ Là điểm tựa chiến lược cho tàu ngầm khi có chiến tranh.
3/ Là trạm thông báo khí tượng.
4/ Là nơi tranh gió bão cho tàu đánh cá.
5/ Giàu quặng phốt phát.
Lý do tác giả viết loạt bài đó là vì một Đại úy người Anh muốn nhân danh Anh Hoàng đặt chủ quyền Anh lên đảo Sein, đồng thời tác giả cực lực phản đối việc hải quân Trung tá Rémy ở Sài G̣òn trả lời cho một công ty hàng hải Nhật rằng không biết quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của ai, và việc ông Monguillot đã viết cho ông Gravereaud nói rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa.
Theo tác giả, Chính quyền bảo hộ Pháp phải xác định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa bằng các hành động:
a/ Vẽ bản đồ tổng quát Hoàng Sa tỉ lệ 1/200.000, vẽ bản đồ chi tiết 1/25.000, vẽ bản đồ hải quân và bản đồ địa chất.
b/ Đặt đài hải đăng.
c/ Đặt trạm quan sát và thông báo khí tượng.
4/ Lập đội trú phòng trú đóng tại Hoàng Sa.
Tác giả còn trách cứ Chính quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa.
Sau đó, chính bức thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18-10-1930 đã làm chấm dứt thái độ do dự của Chính quyền Pháp đối với hành động xâm phạm trái phép của Chính quyền Trung Hoa đối với chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Trong bức thư trên, Toàn quyền Pasquier đã gửi tập tư liệu về quần đảo Hoàng Sa bao gồm:
1. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam nhất thống chí, Quyển 6 hay Biên niên sử của chính phủ An Nam.
2. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Nam Việt địa dư, Tập 2 hay Địa dư thời Minh Mạng [Chú thêm của tác giả: tứcHoàng Việt địa dư chí].
3. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam nhất thống chí hay Địa dư thời Duy Tân.
Kèm theo là bốn thư phụ lục và bốn bản đồ. Toàn Quyền Pasquier viết: “Chắc hẳn Ngài cũng đánh giá như tôi rằng chúng ta đã đủ để xác định không thể tranh cãi rằng An Nam đã thực sự nắm sở hữu quần đảo và làm như vậy trước năm 1909 nhiều.” (Cf. Monique Chemillier - Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, L’Harmattan, 1996, p.233).
"Tóc mây" - Hot girl Việt Nam |
B- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA VÀ PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945, THỜI GIAN PHÁP CÒN ĐÔ HỘ VIỆT NAM
Từ 1931 đến 1933, Cucherousset lại tiếp tục viết 7 bài viết cũng trên báo L’Éveil Économique de L’Indochine (E.E.I) trong các số 685 (10-5-1931), 688 (31-5-1931), 743 (26-6-1932), 744 (03-7-1932), 746 (17-7-1932), 777 (26-02-1933), 790 (28-5-1933). Trong loạt bài báo kể trên, không thấy nhắc đến lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam nữa mà chỉ tập trung vào thái độ của Toàn quyền Pasquier về việc xử lý việc bảo vệ chủ quyền ấy.
Tác giả chỉ trích một lá thư của Toàn quyền Pasquier khi ông này viết: “Chủ quyền của xứ An nam trên quần đảo Hoàng Sa là điều không thể chối cãi được nhưng lúc này chưa phải cơ hội để xác nhận chủ quyền ấy“.
Tác giả gay gắt chất vấn ông Toàn Quyền: “Tại sao nay không phải là cơ hội? Trở lực nào đã ngăn cản xứ “An nam” nhìn nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa mà họ đã chấp hữu từ trăm năm trước? Có phải chăng đợi đến lúc người Nhật khai thác đến tấn phốt phát cuối cùng? Có phải người Nhật đã trả thù lao một phần cho ai chăng?”
Vì những bài báo lập luận vững chắc và chỉ trích nặng lời Toàn quyền Pasquier, Tòa soạn báo E.E.I bị ông Dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm, và buộc nhà báo phải nộp hồ sơ liên quan đến vụ Hoàng Sa.
Trong số báo 743, Cucherousset cực lực phản đối và nhất quyết không giao nộp hồ sơ, nếu muốn nghiên cứu thì chỉ cho đọc tại chỗ. Trong số báo 746, Cucherousset viết, nếu không có loạt bài của E.E.I thì có lẽ Chính quyền Pháp đã làm ngơ vụ Trung Hoa chiếm hữu Hoàng Sa.
Trong số báo 777, Cucherousset đã trình bày nguyên nhân tại sao ông phản đối Toàn quyền Pasquier nhún nhường trước hành động của Tổng đốc Quảng Đông:
a/ Chính quyền tỉnh Quảng Đông chưa bao giờ được nước Pháp thừa nhận là một chính quyền tự trị.
b/ Chính phủ Trung Hoa ở Bắc Kinh lúc trước, ở Nam Kinh bây giờ, chưa hề lên tiếng tranh giành quần đảo này và không thừa nhận chủ quyền Quảng Đông.
c/ Ngược lại từ hơn 100 năm nay rồi, nước Nam đã có chủ quyền trên Hoàng Sa và sự việc này có ghi rõ trong văn khố của triều đình Huế. Hơn nữa Chính quyền Quảng Châu không thể dựa vào lý do ngư phủ Trung Hoa thường xuyên ghé đảo bắt rùa, phơi lưới để bảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa, bởi ngư phủ Pháp cũng thường làm như vậy tại bờ biển Terre Neuve nhưng Terre Neuve vẫn thuộc nước Anh. Trong khi ấy, trong một phiên họp của Hội đồng Tư vấn Đông Dương, để trả lời vị đại diện của xứ An nam là ông Piguax, Toàn quyền Pasquier cho biết vụ Hoàng Sa đã có tiếng vang tại Pháp và vị Tổng trưởng Bộ Thuộc địa đã quyết định đưa nội vụ ra Tòa án quốc tế La Haye.
Ngoài tờ báo E.E.I, c̣òn nhiều báo của người Pháp ở Đông Dương và cả ở Pháp cũng đăng những bài về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa nhưRevue Indochinoise Illustrée, số 38, 1929 (Sài g̣òn), tr.605-616, P.A. La Picque đã dẫn nhiều tài liệu về chủ quyền của Việt Nam; việc Chính quyền Quảng Đông trả lời không chịu trách nhiệm về việc dân Hải Nam cướp trên các tàu bị đắm Le Bellona năm 1895 và Imezi Maru 1896 vì Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc; dịch lại bài báo đăng trên Quảng Châu Báo ngày 10-7-1909 kể chuyện chuyến đi khảo sát Hoàng Sa của hải quân tỉnh Quảng Đông. Mémoire No 3 du Service Océanographique de L’Indochine (Sài gòn), 1930, tr.24 do J. de Lacour & Jabouillé kể chuyến đi khảo sát Hoàng Sa 21-7-1926 theo lời mời của M.A.Krempf. Avenir du Tonkin, số 10495 (17-04-1931), tr.2 khẳng định năm 1816, vua Gia Long long trọng cho dựng cờ trên đảo. Vì thế, cho nên dù năm 1909 Trung Hoa có muốn giành chủ quyền, Chính phủ Pháp phải lên tiếng xác nhận quyền bảo vệ các đảo ấy. Trong hoàn cảnh hiện nay, không ai có thể phủ nhận sự quan trọng có tính cách chiến lược của Hoàng Sa.
Nature (Paris), số 2916, 01-11-1933, tr.385-387, Sauvaire-Jourdan cho biết trên tờ Công báo ngày 19-7-1933 đăng một thông tư về việc hải quân Pháp chiếm cứ một vài đảo ở phía Nam Biển Đông, và điểm qua lịch sử từ khi vua Gia Long cho hải đội đổ bộ và dựng cờ trên đảo năm 1816, đến sự kiện năm 1909 được bài báo ở Quảng Châu đăng ngày 20-6-1909, và đưa ra các đề nghị không nên bỏ rơi quyền sở hữu các đảo ấy.
La Géographie , bộ LX (tháng 11-12/1933), tr.232-243, A. Olivier Saix đưa ra những luận cứ theo đó Chánh quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam phải bảo vệ và duy trì chủ quyền cho Việt Nam vì:
a/ Hoàng Sa có vị trí rất cần thiết để lập hải đăng.
b/ Là vị trí thiết lập đài quan sát khí tượng và trạm vô tuyến kịp thời báo thời tiết bão cho tàu bè.
c/ Hoàng Sa có nhiều nguồn lợi kinh tế: quặng phốt phát, cá, rùa…
d/ Vị trí quân sự quan trọng của Hoàng Sa: phong tỏa Vịnh Bắc Việt, cảng Đà Nẵng, hải lộ quốc tế.
e/ Lịch sử xác lập chủ quyền: Vua Gia Long đã cho hải đội Hoàng Sa đổ bộ lên đảo dựng cờ, lập cứ điểm từ năm 1816. Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề ngày 3-3-1925 nói rằng: “Các đảo đó bao giờ cũng là sở hữu của nước An nam, không có gì tranh cãi trong vấn đề này“.
Rõ ràng với sức ép dư luận trên, chính quyền thực dân Pháp đã phải hành động.
Trước hết, khoảng năm 1930 đến 1933, Pháp đã thiết lập chủ quyền tượng trưng tại Trường Sa cũng như Hoàng Sa.
Với Hoàng Sa thuộc về Trung Kỳ, đất bảo hộ của Pháp, nên không cần phải hành động xác lập chủ quyền mà chỉ cần những hành động thực thi chủ quyền. Tiếp theo những hành động khảo sát Hoàng Sa đầu tiên năm 1925 của Viện Hải dương học Nha Trang, là những hoạt động theo đề nghị của dư luận báo chí thời ấy. Ngày 15–6–1932, chính quyền Pháp ra Nghị định số 156-SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chánh gọi là quận Hoàng Sa tại quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1937, Kỹ sư trưởng công chánh Gauthier nghiên cứu khả năng xây dựng một hải đăng trên đảo Pattle (Hoàng Sa); năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và xây dựng môt hải đăng, một trạm khí tượng (OMM đăng ký số 48860) đặt ở đảo Pattle (Hoàng Sa) và số 48859 ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée), một trạm vô tuyến TSF trên đảo Pattle.
Tháng 3-1938, Hoàng đế Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi như các triều trước. Tháng 6 năm 1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới trấn đóng Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Pattle với dòng chữ: “République Francaise- Royaume d’Annam- Archipels des Paracels 1816-Ile de Pattle 1938″.
Còn với quần đảo Trường Sa phía Nam thuộc địa giới Nam Kỳ, là đất thuộc địa của Pháp, nên Pháp có hành động xác lập chủ quyền cho nước Pháp. Song để ngăn chặn nước thứ ba cũng như đối phó với pháp lý quốc tế, Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại giao Pháp đã viết trong Bản Ghi chú cho Vụ Châu Á Đại dương rằng: “Việc chiếm hữu quần đảo Spratleys do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng đế An nam”. Ngày 13-4-1933, một hạm đội nhỏ do Trung tá Hải quân De Lattre chỉ huy từ Sài gòn đến đảo Trường Sa (Spratley) gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyền Alerte, các tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan. Sự xác định chủ quyền được tiến hành theo nghi thức cổ truyền của Phương Tây: Một văn bản được thảo ra và các Thuyền trưởng ký thành 11 bản. Mỗi đảo nhận 1 bản, được đóng kín trong 1 chai rồi được gắn trong 1 trụ xi măng xây trên mỗi đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta kéo cờ Tam tài và thổi kèn trên từng ḥòn đảo.
Ngày 26-7-1933, Bộ Ngoại giao Pháp đã có một thông tin đăng trên Công báo Pháp, ghi rõ 6 nhóm hải đảo và tiểu đảo từ nay đã thuộc chủ quyền Pháp quốc, trong đó gồm nhóm Spratley (8o39’ B – 111o55’ Đ) và các tiểu đảo nhỏ xung quanh được chiếm hữu sớm nhất từ ngày 13-4-1930, đảo Thị Tứ được chiếm cuối cùng vào ngày 12-4-1933. Ngày 21-12-1933, Thống đốc Nam Kỳ M.J. Krautheimer ký nghị định số 4762 sát nhập các nhóm hải đảo thuộc quần đảo Pratleys (Trường Sa) vào tỉnh Bà Rịa.
Năm 1938 Pháp lập một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến tại đảo Itu – Aba (Ba Bình).
Tất cả những hành động thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh “An nam” trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra một cách suôn sẻ, dù muộn màng, không gặp bất cứ ngăn cản nào, bởi chỉ duy có Chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông có ý đồ, có dự án khai thác Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, và muốn chiếm hữu Hoàng Sa vì cho là đất vô chủ. Song, các dự án của chính quyền địa phương đó mới chỉ trên giấy tờ, chính quyền trung ương Trung Quốc chưa mặn mà. Tuy vậy Nhật Bản lại giấu mặt về ý đồ chiếm giữ Hoàng Sa và Trường Sa, đã lên tiếng phản đối sự chiếm giữ của Pháp trong thông báo cho Chính phủ Pháp vào ngày 24-7-1933. Ngày 31-3-1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố gửi tới Đại sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu khám phá Trường Sa vào năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa. Nhật đã nhanh chóng chiếm đảo Phú Lâm (Ile Boisée) của Hoàng Sa và đảo Itu-Aba (Ba Bình) của Trường Sa vào năm 1938, song mãi đến ngày 9-3-1945, Nhật mới bắt làm tù binh những lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng Sa cũng như đất liền của Việt Nam.
Luật pháp quốc tế thời đó sau Định ước Berlin năm 1885 được hiểu là:
- Việc xác định chủ quyền lãnh thổ là hành động của quốc gia. Chính quyền địa phương (tỉnh Quảng Đông) không đủ danh nghĩa đại diện cho quốc gia.
- Cũng theo Định ước này, hành động của phía Trung Quốc (năm 1909) không đủ mang lại danh nghĩa chủ quyền cho Trung Quốc vì chưa thỏa mãn các tiêu chí về xác định chủ quyền lãnh thổ thời đó. Do vậy, sự im lặng của Chính quyền Pháp ở Đông Dương không có nghĩa là sự thừa nhận chủ quyền của phía Trung Quốc.
Nhật bản bại trận và đầu hàng vô điều kiện Đồng minh 16-8-1945, và đã rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa.
Ven sông - ảnh Việt Nam xưa |
Ngày 19-8-1945 Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (VNDCCH) ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ở Quảng trường Ba Đình, chấm dứt chế độ đô hộ của Pháp.
Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại đô hộ Việt Nam, quân Tưởng Giới Thạch tiếp quản những nơi quân đội Nhật chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16. Cả hai nước Pháp và Trung Hoa đều tiếp tục tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Việt Nam bận lo kháng chiến chống Pháp trong khi quân Pháp làm chủ Biển Đông.
Quân Nhật rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946, Pháp trở lại Việt Nam và làm chủ Biển Đông, lập tức cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế quân đội Nhật từ tháng 5/1946, nhưng đơn vị này chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời gian từ 20 đến 27/5/1946, đô đốc D’Argenlieu, Cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ VNDCCH do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra, thì ngày 26-10-1946, lợi dụng thời cơ, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa dân quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc Trung đội độc lập về cảnh vệ của hải quân (tiền thân của quân thủy đánh bộ) xuất phát từ cảng Ngô Tùng ngày 9-10-1946. Ngày 29-11-1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc này Trung Quốc còn gọi là Đoàn Sa, chưa phải mang tên Nam Sa – tác giả nhấn mạnh).
Trong phiên họp ngày 11-10-1946, Ủy ban liên bộ về Đông Dương thuộc Chính phủ lâm thời Pháp quyết định cần khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và thể hiện việc tái chiếm bằng việc xây dựng một đài khí tượng. Đại tướng Juin cho rằng “lợi ích cao nhất” của nước Pháp là phòng ngừa mọi ý đồ của một cường quốc nào muốn chiếm lại các đảo có khả năng kiểm soát việc ra vào căn cứ tương lai Cam Ranh, con đường hàng hải Cam Ranh – Quảng Châu – Thượng Hải [Thư số 199/DN/S. col ngày 7-10-1946 của Đại tướng Juin, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp tại Paris].
Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa dân quốc và ngày 17-10-1947 Thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp gửi một Phân đội lính trong đó có cả quân lính “Quốc gia Việt Nam” đến đóng một đồn ở đảo Pattle (Hoàng Sa). Chính phủ Trung Hoa dân quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25-2 đến ngày 4-7-1947 tại Paris. Tại đây, Chính phủ Trung Hoa dân quốc đã từ chối không chấp nhận đề xuất của Pháp nhờ trọng tài quốc tế giải quyết. Ngày 1-12-1947, Bộ Nội vụ Chính quyền Tưởng Giới Thạch công bố tên Trung Hoa cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Hoa.
Vào cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc lập, không còn ràng buộc vào Hiệp định Patenôtre 1884 với Pháp. Song Pháp vẫn cho rằng theo Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, VNDCCH vẫn còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền Pháp bổ sung quân sự bằng cách đóng quân và thực hiện quản lý trên hai quần đảo. Điều này chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đã được củng cố vững chắc từ thời Pháp thuộc.
Do Chính phủ VNDCCH kháng chiến chống Pháp và hải quân Pháp làm chủ Biển Đông, nên với Hiệp định ngày 8-3-1949, Pháp gây dựng được chính quyền thân Pháp còn gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với chính quyền Cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trên thực tế, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đang làm chủ Biển Đông trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay mặt nhà nước Việt Nam.
Tháng 4 năm 1949, Đổng lý văn phòng của Quốc trưởng Bảo Đại là Hoàng thân Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sài gòn đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa.
Vào ngày 1-10-1949, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập ở lục địa Trung Quốc, Trung Hoa dân quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu rút ra Đài Loan. Tháng 4/1950, đồn lính Trung Hoa dân quốc chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa rút lui. Còn đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (Pattle) vẫn còn duy trì. Đến năm 1954, Pháp đã chính thức trao lại quyền quản lý cho Chính phủ Việt Nam.
Ngày 14-10-1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.
Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5-9 đến ngày 8-9-1951 ký kết hòa ước với Nhật. Ngày 5-9-1951, họp khoáng đại, Ngoại trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên quan đến việc Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Như vậy, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc tế bác bỏ trong khuôn khổ một Hội nghị quốc tế.
Ngày 7-9-1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam: “Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet Nam”.
Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.
Kết thúc hội nghị là ký kết hòa ước với Nhật ngày 8-9-1951. Trong hòa ước này có điều 2, đoạn 7 ghi rõ: “Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracels và Spratly“.
Song đến đây, tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu biến chuyển, chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu và khối Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã bắt đầu tác động đến Việt Nam. Do đó chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng bị tranh chấp, sự bảo vệ chủ quyền trở nên hết sức khó khăn do có nhiều thế lực quốc tế can thiệp.
Ngày 24-8-1951, lần đầu tiên Tân Hoa xã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp và những tham vọng của Philippines, và kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.
Khi ra thông báo về bản dự thảo Hiệp ước với Nhật ở San Francisco, ngày 15-8-1951, Bộ trưởng Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai ra bản tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là «tính lâu đời» của các quyền của Trung Quốc đối với quần đảo, trong khi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa dân quốc không hề tham dự hội nghị này.
Cũng lợi dụng cục diện chiến tranh lạnh đang xảy ra, để giành giật thế lực ở Biển Đông, phái đoàn Liên Xô đề xuất giao cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đề nghị này đã không được Hội nghị chuẩn nhận, song vẫn là cái cớ để Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lên tiếng. Dù sao, sau năm 1950, ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài nào chiếm đóng, mà chỉ có lực lượng trú phòng Việt Nam của chính quyền Bảo Đại.
Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và quân đội do thỏa hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chánh trong khu tập kết đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chánh của phía chính quyền quản lý miền Nam vĩ tuyến 17.
Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chánh của chính quyền ở phía Nam vĩ tuyến 17, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp. Chính quyền ở Phía Nam vĩ tuyến 17 phải chịu trách nhiệm quản lý hai quần đảo trên ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam dưới vĩ tuyến 17.
Tháng 4/1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Miền Nam Việt Nam, Philippines nêu vấn đề chủ quyền.
Hàn Nguyên Nguyễn Nhã
(Một số ảnh không liên quan đến nội dung bài viết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét