Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

Hùng triều thứ 7: Hùng Thuấn

Lễ dâng hương Đền Hùng vào năm 1904.
Đền Hùng là chốn linh thiêng bậc nhất của người Việt, tương truyền ngôi mộ ở đấy là mộ thật của Hùng Vương thứ sáu; qua thiên khảo luận này có thể xác định đấy là mộ của Hùng Lạc Vương.
Vua khai sáng: Lâm lang.
Danh hiệu khác trong Việt sử: Hùng Quốc Vương, Hùng Lạc vương, Nam triều thánh tổ ngọc hoàng thượng đế, Nam bang triệu tổ.
Danh hiệu khác trong Hoa sử: Thuấn đế, Ngu Thuấn.
Quốc hiệu là: Nam bang, Lạc quốc, Bách Việt đại liên bang.
Niên đại: hơn 2200 TCN.
Phương Nam (Nam của Dịch Lý là phương ngược với Nam của thời nay), các mã tin Dịch Lý của phương Nam là: màu đen, hành Thủy, phương 1/6 của Hà Thư.
Nguyễn Hồng Sinh đã viết trong “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm”: danh hiệu Hùng Thuấn Vương còn trong "Hùng Vương Thập Bát Chi Thế Truyền" và các tư liệu khác thì ghi là Hùng Quốc Vương.
Trong Việt ngữ chữ Nước có hai nghĩa:
- Nước là loại chất lỏng nền tảng cấu tạo nên mọi sinh vật.,dịch lý dùng chỉ phương nam đối nghịch với phương lửa ở hướng xích đạo.
- Nước là Quốc gia.
Theo Hà thư: phương nước cũng là phương nam như ngôn ngữ ta dùng ngày nay, Nam bang cũng là Nước bang hay Lạc quốc; lạc là biến âm của: nước-nác-lạc (nước vật chất).
Hùng quốc vương là chữ dịch lầm của từ Hùng Lạc tức Hùng nước; người dịch đã lẫn lộn nghĩa này sang nghĩa kia.
Như vậy từ “Nước” xưa là tên riêng của nước ta khi trung tâm quốc gia chuyển về phương nam, quốc gia Nước cũng là Nam bang hay Lạc quốc. Ban đầu là một danh từ riêng về sau người Việt đã biến nước thành danh từ chung đồng nghĩa với quốc gia, như vậy “Hùng quốc vương" hay “Hùng Lạc Vương” nghĩa là vương của quốc gia Nước dòng họ Hùng, ở Việt nam chỉ thấy có ông Nguyễn Trãi nói đến nước Hùng Lạc này.
Ta tìm hiểu chữ "thuần" để xác định danh hiệu của vị vua này. Theo Hà thư thì phương Nam (hướng Bắc hiện nay) được biểu tượng bằng cặp số 1/6, số 1 này cho ta từ "thuần khiết" hay "duy nhất", như thế vua Nam bang phải là Hùng Thuần không phải là Thuấn như sách sử đã chép. Hùng Thuần Vương còn được gọi là Lâm Lang; lâm là biến âm của nam, phương Nam; nam → lam → lâm; Lâm Lang nghĩa là chúa đất phương Nam.
"Hoa vàng mấy độ" - Hoa hậu Đặng Thu Thảo
Chính sử Trung Hoa chép: “Kế vị Đế Nghiêu là Đế Thuấn, Đế Thuấn còn được Đế Nghiêu gả hai công chúa là Nga Hoàng và Nữ Anh làm vợ. Tư liệu của Nguyễn Hồng Sinh nêu tên vợ của Hy Thúc hay Hy Hòa là Nữ Hoàng Anh, kết hợp hai tư liệu này cho ta kết luận Đế Thuấn hay Thuần (Hùng Thuần Vương) chính là Hy Thúc người đã vâng mệnh vua Nghiêu “trạch Nam Giao” tức mở mang bờ cõi quốc gia về phương Nam (Dịch lý). Nhưng tại sao lại là Ngu - Thuấn? chỉ có dịch học mới mở được chữ Ngu này: trong dịch học có cặp đối: con - thằng, cong - thẳng, cong vòng - ngay thẳng, từ kép ngay thẳng biến âm ra:
- Thẳng→thàng→đàng→đường.
- Ngay→ngây→ngô→ngu.
Ta có hai hình tròn và vuông là biểu tượng của dịch lý, tròn tượng trưng cho trời, vuông tượng trưng cho đất, tròn là nét cong vuông là nét thẳng, luôn luôn tròn hoặc ở trên hoặc ở phương xích đạo tức phương bắc, vuông ở dưới hoặc phương nam (xưa -  theo dịch lý); từ Ngu trong hiệu của Lâm lang là biến âm của Ngay trong ngay thẳng chỉ phương Nam.
Đất Giao nam hay đất Đường hợp với đất mới khai phá là Nam Giao (chỉ) thành đất LẠC hay LỤC = số 6 phương nam của Hà thư.
Đất Nam Giao về sau sử Trung Hoa gọi là đất Lâm (Nam→lam→lâm) có vị trí rất đặc biệt nằm giữa 4 vùng đất chính nên trong lịch sử đã nhiều lần bị tách ghép:
- Ghép với đất Đường hay Việt Thường thành “Đường Lâm” quê của Ngô Quyền.
- Ghép với đất Tượng ở phía Tây thành “Tượng Lâm”.
- Ghép với Quý Châu thành ra “Quế Lâm” (Quý→Quế).
- Ghép với Quảng Đông thành “Nam Hải” (Nam=Lâm)
Trong ý nghĩa đất Nam Giao (chỉ) ban đầu chỉ là phần đất tây nam Quảng Tây về sau mở rộng thành cả vùng lĩnh nam.
Thủ đô của Nam bang thời Hùng Lạc hay Thuấn đế là Bồ Bản; từ Bản ở đây là danh từ chung chính là chữ bản trong bản làng, Bồ Bản đồng nghĩa với làng Cả hay Đô ấp tất cả đều có nghĩa là thủ đô hay kinh đô.
Quá tr̀inh mở nước hàng ngàn năm được tóm gọn trong bài thơ 4 câu chưa rõ tác giả:
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu.
Xin lược dịch:
Quốc gia văn hiến ngàn năm
Sách sử chở đầy xe,
địa đồ vuông vạn dặm
Sau thời Hồng bàng lập ngôi đế.
Rộng mở nam cương là triều Đường Nghiêu - Ngu Thuấn.
Trong bài thơ này đặc biệt câu: Nam phục nhất Đường Ngu... nhiều bậc khoa bảng ̣đành chịu không hiểu nổi... không lẽ các vua Đường Nhiêu, Ngu Thuấn lại đi mở nước về hướng Nam cho người Việt...? Riêng chúng ta trong sử thuyết họ Hùng này thì hiểu rất rõ ý nghía câu thơ đó.
"Đội chống lưng" - tranh của họa sĩ Trần Tiếu Bình
Đền Hùng là chốn linh thiêng bậc nhất của người Việt, tương truyền ngôi mộ ở đấy là mộ thật của Hùng Vương thứ sáu; qua thiên khảo luận này có thể xác định đấy là mộ của HÙNG LẠC VƯƠNG, người đời đã lầm từ Lục là số 6 với từ LẠC là nác hay nước nên cho là mộ của Hùng Vương thứ sáu, chính câu “Nam bang triệu tổ” đã giúp ta khẳng ̣định; triệu là biến âm của âm gốc là “Chậu” tiếng Thái - Lào nghĩa là ông hoàng hay vương, đồng nghĩa với Chủ - Chúa trong Việt ngữ. "Triệu tổ Nam bang" nghĩa là vua tổ của nước Nam cùng một ý nghĩa với đạo hiệu: NAM TRIỀU THÁNH TỔ NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ của Hùng Thuần vương trong Hùng phả.
Thời Hùng Lạc có bộ lạc thuộc tộc Mun bất phục bị Thuấn đế đuổi ra khỏi cõi Nam Giao đày đến miền Tam Nguy, từ đó gọi là Tam Miêu, đất Tam Nguy nay là Đông Quý Châu và tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc).
Hán thư có một đoạn nói về Lạc Quốc như sau: “...con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là My Nương, quan văn gọi là Lạc Hầu, quan võ gọi là Lạc Tướng, trăm quan gọi là Bồ Chính, dân khẩn ruộng lạc theo nước triều lên xuống…”. Do Hán văn không có dấu chấm, phẩy nên nhiều người vẫn hiểu không đúng đoạn văn này, nay ta thử nhìn theo hướng khác: không có ai là Quan Lang cả, giữa Quan và Lang phải có dấu phẩy, chính xác phải hiểu là: con trai vua gọi là Quân, Lang; Quân và Lang là hai từ thuộc hai ngữ hệ nhưng cùng một nghĩa; tương tự con gái vua gọi là Mẹ, Nương chứ không phải là Mỵ Nương. Lạc Hầu là quan văn của quốc gia “Nước”. Còn câu “dân khẩn ruộng lạc…” nghĩa là ruộng nước, nhưng đây là nước vật chất, hai từ đồng âm nhưng dị nghĩa.
Dấu vết vật chất lưu tồn trong lòng đất đã khai quật được từ núi rừng Bắc Việt Nam tới tận bờ Châu Giang và gọi là văn minh của người Tày cổ chính là chứng tích thời Hùng Thuần hay Hùng Lạc này.
Theo Dòng Hùng Việt
(Một số ảnh không liên quan đến nội dung bài viết)
"Én" - Hot mgirl Trung Quốc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét