Thứ Tư, 12 tháng 9, 2012

Nói về bài "Hai Bà Trưng" một lần nữa, rồi thôi!

Ba không!!!
Nói "túm lại" là thế này: Nếu chúng ta đánh giặc Minh thì chúng ta nói chúng ta đánh giặc Minh, nếu chúng ta đánh quân Nguyên Mông thì chúng ta nói chúng ta đánh quân Nguyên Mông... mà Hai Bà Trưng đã đánh giặc Hán thì chúng ta phải nói Hai Bà Trưng đánh giặc Hán, không nên lấp liếm. Khổng Tử từng nói rằng: "Làm người quân tử có việc báo thù thì cứ nghiêm trang mà báo thù" là vậy... (ảnh không liên quan đến bài viết)
Mình đã định thôi, không viết về đề tài này nữa. Thời gian qua, đã có nhiều bài tranh luận, trao đổi về bài “Hai Bà Trưng” trong sách Tiếng Việt 3, mình tưởng rằng các vấn đề xoay quanh câu chuyện như thế cũng tương đối rõ ràng rồi, viết nữa sẽ nhàm, nhảm và nham (nhở), làm mất thời gian quí báu của bà con. Rồi mình tưởng rằng sau các bài Sách Tiếng Việt 3: Kẻ thù của Hai Bà Trưng là kẻ thù nào (blog Tâm Sự Y Giáo), Không chuẩn thì phải chỉnh (Tác giả: Nguyễn Quang Lập, Blog Quê Choa - Báo Phụ nữ TPHCM), Bài học nửa vời (Tác giả: Trần Cao Duyên, báo Thanh niên), Hai Bà Trưng đánh giặc nào? (VietnamNet, đăng lại từ TN), Tác giả sách giải thích Hai Bà Trưng đánh giặc nào (Tác giả: Nguyễn Minh Thuyết, VietnamNet), SGK sai: Không nên đánh tráo khái niệm (Tác giả: Hà Văn Thịnh, VietnamNet)… thì bà con có thể yên tâm hy vọng rằng tập thể biên soạn sách Tiếng Việt 3 sẽ ghi nhận và chỉnh sửa câu mở đầu của bài “Hai Bà Trưng” cho phù hợp.
Nhưng hóa ra không phải như vậy.
Mới đây, mình được đọc bài trả lời báo Giáo dục Việt Nam ngày 8-9-2012 của GS. Nguyễn Minh Thuyết “Tôi chẳng việc gì phải sợ Trung Quốc”, thấy rằng nếu im lặng không nói gì thì té ra mình có lỗi với bản thân mình quá (hu hu, khổ thế đấy, toàn tự rước lấy cái khổ vào thân!). Đành phải viết thôi, mong bà con bỏ quá cho nhé.
Trước hết, cần nói ngay rằng trong bài báo này, lập luận của GS. Thuyết không thuyết phục mình được một chút nào. Mình sẽ từ từ giải thích:
1- Bài trả lời của GS dường như để thanh minh cho cá nhân nhiều hơn là tranh luận một vấn đề khoa học. Đại từ “tôi” được dùng “hơi bị” nhiều, mặc dù biên soạn SGK là công việc của cả một tập thể, (tất nhiên trong đó có vai trò quan trọng của chủ biên) .
2- GS. Thuyết thường dùng những phép so sánh ví von không phù hợp, chỉ có phản tác dụng là làm cho người đọc phân tâm không còn chú ý tới vấn đề chính, chẳng hạn “dạy học cũng như đá bóng”, “viết sách cũng như làm dâu trăm họ”, hoặc hàm ý so sánh việc bỏ đoạn cuối của bài “Lượm" với việc bỏ cụm từ “giặc Hán”… Nếu dạy học cũng như đá bóng thì người dạy học sẽ đấu với ai, ai là trọng tài và ai là khán giả, kết thúc trận đấu sẽ như thế nào? Nếu ca thán: viết sách như là làm dâu trăm họ, dễ bị săm soi, nhiều khi như nàng dâu gặp mẹ chồng khó tính, thì hóa ra những yêu cầu về tính chuẩn mực của SGK đã được GS. Thuyết ví von với bà mẹ chồng khó tính sao? Một ngày kia lỡ mẹ chồng nàng dâu không còn nhìn mặt nhau nữa thì mẹ chồng lại phải đi tìm kiếm một nàng dâu mới? Trong việc bỏ mấy câu cuối của bài Lượm, GS nhấn mạnh: “nếu cứ đưa lấy được, không lưu tâm đến tâm lý, khả năng tiếp nhận của học sinh thì khó đạt yêu cầu”. Phải chăng GS. Thuyết muốn nói việc định danh kẻ thù “giặc Hán” rồi đưa vào bài "Hai Bà Trưng" là “đưa lấy được”?… Có thể nói cách so sánh ví von như trên không ăn nhập với chủ đề chính và chẳng minh chứng được điều gì.
3- GS. Thuyết nhấn mạnh: đây không phải là bài học lịch sử mà là bài tập đọc, nhằm rèn kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh, tức là GS cho rằng bài tập đọc được quyền bỏ qua tên gọi các đối tượng là giặc ngoại xâm mà cha ông chúng ta đã bao đời hy sinh để chiến đấu chống lại bọn chúng, giành lại độc lập cho dân tộc? (Mời bà con đọc một số đoạn "tập đọc giả định" trong phần Phụ lục để thấy sự vô lý đến kỳ cục của lập luận này). Nhưng rồi GS lại lý luận: “Những câu chuyện về lòng yêu nước chúng tôi dạy trong môn Tiếng Việt lớp 3 chỉ là những hạt gieo lượt đầu”. Hình ảnh bóng bẩy của “hạt gieo lượt đầu” không thể xóa được cái sự tự mâu thuẫn của GS, vì kỹ năng là kỹ năng, yêu nước là yêu nước chứ sao lúc thế này lúc lại thế khác. Chưa kể tới nguyên tắc sơ đẳng của việc gieo hạt là phải chọn những hạt giống tốt nhất, hạt phải được gieo trên những đám đất đầy đủ dinh dưỡng để hiệu suất hạt nảy mầm và lớn thành cây mạnh khỏe là cao nhất. Vụ nào dứt điểm vụ nấy, không có chuyện gieo hạt lần này rồi lại gieo lần sau, rồi lần sau nữa bổ sung. Bổ sung đợt này đợt khác như thế chỉ có trong việc bón phân mà thôi, tỉ như bón lót, bón thúc. Ngay như việc bón phân mà sai qui cách, cũng có thể phải gặt hái những cây, những quả còi cọc, bệnh tật. Nhưng chẳng lẽ lại đi so sánh việc dạy lòng yêu nước với việc bón phân?
GS. Thuyết còn tự mâu thuẫn khi bảo rằng “tôi chưa thấy ai viết, ai nói “giặc Hán” bao giờ. Thế thì vì sao cũng ngay trong sách Tiếng Việt 3 do GS chủ biên lại thẳng thừng đề cập đến “giặc Nguyên”, “giặc Minh” chỉ sau đó có vài trang? Nói “giặc Nguyên”, “giặc Minh” thì được, còn dứt khoát không được đụng đến “giặc Hán”?
4- Điều quan trọng nhất mà TSYG muốn nhấn mạnh ở đây là hoàn cảnh ra đời của cuốn sách: “Năm 2001. tôi bắt đầu tham gia bộ sách Tiếng Việt dành cho học sinh tiểu học cùng với đồng nghiệp. Sau đó, sách được dạy thử nghiệm 3 năm, cho tới năm 2004 sách lớp 3 mới được triển khai dạy trên toàn quốc.
Xét về yếu tố lịch sử, vào thời điểm chúng tôi hoàn thành cuốn sách, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không có gì căng thẳng tới mức phải e dè”.
Câu nói “quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không có gì căng thẳng tới mức phải e dè” là một câu nói sai, tiếc rằng đây lại là lập luận chính trong việc chứng minh “tôi (hoặc chúng tôi) không có gì phải sợ Trung Quốc”. Các phát biểu khác nói về chuyện "không sợ Trung Quốc" chẳng khác gì hô khẩu hiệu, lại không có thông tin gì.
Sai, là vì trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc mấy chục năm gần đây, những năm 1978-1988 là khoảng thời gian căng thẳng nhất, đã từng xảy ra chiến tranh ở hai đầu của Tổ Quốc Việt Nam, thì người Việt Nam chúng ta đã nói về Trung Quốc một cách không e dè nhất. Từ các bài xã luận, bản tin trên báo chí cho đến những bài văn, thơ hay bài hát, đâu đâu cũng hừng hực khí thế chống Trung Quốc xâm lược. Những ngôn từ mô tả Trung Quốc lúc ấy đều được huy động với tần suất tối đa: xâm lược, bành trướng, bá quyền, sô-vanh nước lớn, đại bá, đại Hán, phản cách mạng, phản bội Việt nam, phản động Bắc Kinh…
Hiến pháp 1980 của nước CHXHCN Việt nam ghi rõ ràng trong Lời nói đầu: “Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Cam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chốngbọn phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình”.
Tháng 10 năm 1979, Nhà xuất bản Sự thật còn cho xuất bản cuốn sách SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM & TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA, gồm 5 phần, trong đó vạch rõ âm mưu hết sức xảo quyệt và thâm độc của Trung Quốc đối với Việt Nam từ 1949 đến 1979 (mời bà con xem các mục chính trong phần Phụ lục cuối bài).
Như thế, trong thời kỳ hết sức căng thẳng này, người Việt Nam chúng ta được tha hồ thoải mái kể hết các tội mà nhà cầm quyền Bắc Kinh gây ra cho Việt Nam. Càng căng thẳng thì chúng ta lại càng không e dè. Kiểu lập luận “quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không có gì căng thẳng tới mức phải e dè” rõ ràng là hoàn toàn không khoa học, không logic và cực kỳ trái với thực tế!
Đến nay chúng ta chưa hiểu chuyện gì xảy ra, mà đầu năm 1999, TBT Trung quốc là Giang Trạch Dân đưa ra “phương châm 16 chữ vàng” cho quan hệ Việt - Trung: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Sau đó, cảm thấy chưa “đủ đô”, năm 2002 ông Giang Trạch Dân còn tung ra thêm đề xuất hai nước Trung Quốc và Việt Nam mãi mãi tuân theo “tinh thần 4 tốt” là “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Từ đó người Việt Nam không còn nói về Trung Quốc “thoải mái” như trước được nữa.
Điều kỳ quặc là gần đây, liên tục xảy ra những sự cố mà dư luận Việt Nam không thể chấp nhận, cuối cùng đều được giải thích là “do cậu đánh máy quên ghi chữ ngang ngược”, “do sai sót kỹ thuật”, … Chẳng hạn vụ báo điện tử ĐCSVN đăng lại bài của TQ, vụ VTV treo hình cờ TQ có 6 sao, vụ trẻ em Việt Nam dùng cờ 6 sao để vẫy chào trong buổi đón Tập Cận Bình…
Trở lại câu chuyện, xin thưa rằng theo mốc thời gian mà GS Thuyết cho biết, cuốn sách tiếng Việt 3 thử nghiệm ra đời năm 2001, nghĩa là sau cái phương châm 16 chữ vàng 2 năm, còn sách chính thức thì sau cái phương châm đó đến 5 năm. Phải chăng cái “phương châm 16 chữ vàng” và cái “tinh thần 4 tốt” chính là hàng rào ngăn không cho “giặc Hán” được đưa vào bài “Hai Bà Trưng”?
TSYG vẫn tin rằng đến lúc nào đó, bài “Hai Bà Trưng” trong sách Tiếng Việt 3 sẽ được mở đầu bằng một câu dung dị, dễ hiểu và đúng với sự thật: “Thuở xưa, nước ta bị giặc Hán đô hộ”… GS. Thuyết chưa làm điều đó được thì sẽ có người sau nữa sẽ làm.
Và mình xin chấm dứt câu chuyện ở đây, không viết thêm bài nào về “Hai Bà Trưng đánh giặc nào” nữa, bà con nhá.
Tâm sự y giáo
"Mềm mại" - người đẹp Việt Nam
Phụ lục 1: SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM & TRUNG QUỐC TRONG 30 NĂM QUA
Phần Thứ Nhất: Việt Nam trong chiến lược của Trung Quốc
I- Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc
II- Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc
Phần Thứ Hai: Trung Quốc với việc kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương năm 1954
I- Sau Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam có khả năng hoàn toàn giải phóng đất nước.
II- Lập trường của Trung Quốc ở Giơnevơ khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng phù hợp với lập trường của Pháp.
III- Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 về Đông Dương và Sự phản bội của những người lãnh đạo Trung Quốc.
Phần Thứ Ba: Trung Quốc với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam để giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà (1954-1975).
I- Thời kỳ 1954-1964: Những người cầm quyền Trung Quốc ngăn cản nhân dân Việt Nam đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà.
II- Thời kỳ 1965-1969: Làm yếu và kéo dài cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam
III- Thời kỳ 1969-1973: Đàm phám với Kỹ trên lưng nhân dân Việt Nam
IV- Thời kỳ 1973-1975: Cản trở nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam
Phần Thứ Tư: Trung Quốc với nước Việt Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất (từ tháng 5 năm 1975 đến nay)
I- Trung Quốc sau thất bại của Mỹ ở Việt Nam
II- Điên cuồng chống Việ Nam nhưng còn cố giấu mặt
III- Điên cuồng chống Việt Nam một cách công khai
Phần Thứ Năm: Chính sách bành trướng của Bắc Kinh – Mối đe dọa đối với độc lập dân tộc, hòa bình và ổn định ở Đông Nam Châu Á.
I- Hòa bình ổn định ở Đông nam châu Á và trên thế giới
II- Tóm lại trong 30 năm qua…
III- Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam
(hết)
Phụ lục 2: Một số đoạn “Tập đọc giả định”, qua đó bà con có thể thấy kiểu vào đề tù mù như hũ nút, không giống ai:
1) Ngày xưa, nước ta bị giặc từ nước ngoài sang xâm chiếm… Chúng đã bị vua Quang Trung đánh cho tan tành không còn mảnh giáp. Tướng giặc là Tôn Sĩ Nghị đã phải chui vào ống đồng trốn về nước…
2) Thuở ấy, nước ta bị giặc sang xâm chiếm. Chúng gây ra biết bao tội ác với dân ta… Lê Lợi đã dấy binh khởi nghĩa… chém chết tướng giặc Liễu Thăng, các tướng giặc khác là Vương Thông, Hoàng Phúc phải xin hàng nghĩa quân…
3) Ngày ấy, quân viễn chinh của giặc sang xâm lược nước ta… Quân đội ta, dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kiên trì bao vây, tấn công quân giặc, phá tan căn cứ điểm Điện Biên Phủ. Tướng giặc Đờ Cat-tơ-ri đã phải phất cờ trằng, giơ tay xin hàng… 
4) Thế lả đủ rồi, bà con há...
PS: Bà con nào tinh ý thử xem bài Bài học nửa vời của Trần Cao Duyên - Báo TN ngày 4-9-2012 và bài Sách Tiếng Việt 3: Kẻ thù của Hai Bà Trưng là kẻ thù nào, của TSYG ngày 19-8-2012 có "bà con" gì không?
Theo nhận xét của một số anh em bạn hữu, trong đó có bác Nguyễn Tường Thụy, đây là hai bài giống nhau về kịch bản của câu chuyện và bố cục của bài viết. Mở đầu giống nhau, lên cao trào giống nhau, kết luận cũng giống luôn. Giống nhau như thế thì quá hiếm, có lẽ do "tư tưởng lớn gặp nhau"?? Hì hì!
Nhưng vẫn có sự khác nhau: bài của bác Duyên trên TN ra đời sau bài của TSYG đến nửa tháng và bác Duyên có nhuận bút, còn TSYG thì không được gì, lại còn bị vợ giận dỗi vì sao nhãng thiếu quan tâm, hu hu hu!!
Đùa chút chơi vậy thôi, chứ TSYG cảm thấy rất vui vì chủ đề này được bà con hưởng ứng nồng nhiệt, có lẽ cũng góp phần nâng cao "tinh thần cảnh giác cách mạng"?
Cửa sông Bạch Đằng, nơi đây Ngô Quyền lãnh đạo quân dân ta đánh tan lũ giặc Nam Hán.
Sau đây là bài phỏng vấn GS. Nguyễn Minh Thuyết:
“Tôi chẳng việc gì phải sợ Trung Quốc”
LTS: Sau khi thông tin về sách Tiếng Việt 3 (tập 2) có bài tập đọc kể chuyện Hai Bà Trưng đánh giặc, nhưng không nói rõ giặc nào, nhiều độc giả gửi thư về Báo Giáo dục Việt Nam chia sẻ quan điểm, trong đó có những ý kiến cho rằng “tác giả sợ thế lực Trung Quốc”. Để làm sáng tỏ vấn đề này, Báo Giáo dục Việt Nam đã có cuộc trò chuyện với GS Nguyễn Minh Thuyết - Chủ biên của cuốn sách.
- Thưa GS Nguyễn Minh Thuyết, nội dung câu chuyện về Hai Bà Trưng đánh giặc trong sách Tiếng Việt lớp 3 đã được giữ như vậy nhiều năm qua, nhưng cho tới giờ lại có ý kiến cho rằng “không nói rõ đánh giặc nào là một thiếu sót”, mà phải chăng vì tác giả e sợ điều gì đó?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Năm 2001, tôi bắt đầu tham gia bộ sách Tiếng Việt dành cho học sinh tiểu học cùng với các đồng nghiệp. Sau đó, sách được dạy thử nghiệm 3 năm, cho tới năm 2004 sách lớp 3 mới được triển khai dạy trên toàn quốc.
Xét về yếu tố lịch sử, vào thời điểm chúng tôi hoàn thành cuốn sách, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không có gì căng thẳng tới mức phải e dè. Hơn nữa, chuyện Hai Bà Trưng đánh giặc là giá trị lịch sử từ hàng nghìn đời trước. Tôi là con dân đất Việt, tự hào về khí phách của Hai Bà và đã chọn truyện Hai Bà Trưng để mở đầu chủ điểm “Bảo vệ Tổ quốc”. Tôi chẳng việc gì phải e sợ ai, chẳng e sợ thể lực nào.
Khi chúng tôi viết sách, không có ai yêu cầu tôi phải tránh né Trung Quốc, mà nếu có yêu cầu như vậy thì tôi cũng chẳng nghe. Tôi chẳng việc gì phải sợ Trung Quốc. Trên thực tế, ngay sau bài tập đọc Hai Bà Trưng có hàng loạt bài chính tả, bài tập nói chuyện đánh giặc Nguyên, giặc Minh.
- Vậy GS giải thích thế nào về chi tiết không nhắc tên giặc Hán trong bài tập đọc ấy?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Từ một truyện dài tới 33 trang của tác giả Văn Lang, tôi phải co lại chỉ còn khoảng 250 chữ để dạy trong 1,5 tiết, vì yêu cầu đặt ra với sách tiếng Việt lớp 3 là vậy. Trong không gian ngôn ngữ ngắn ngủi như vậy, lại phải giữ được giọng văn của tác giả, đó chính là cái khó. Điều này thì các thầy cô giáo từng tham gia biên soạn sách giáo khoa sẽ thấu hiểu.
Học sinh lớp 3 chưa học lịch sử. Cho tới lớp 4, học sinh được học lịch sử và sách viết rất rõ: “Đầu thế kỷ thứ I, nước ta bị nhà Hán đô hộ…”.
Nếu đây là bài học trong sách Lịch sử dạy về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng mà không nêu rõ hoàn cảnh bị nhà Hán đô hộ thì rõ ràng là một thiếu sót quá lớn, nhưng đây chỉ là bài tập đọc trong sách Tiếng Việt, nhằm rèn kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho trẻ. Vì thế, tôi đã cân nhắc và để câu đầu là: “Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ”. Cũng không nói rõ thời điểm xảy ra sự kiện này vào năm nào, thế kỷ thứ mấy, và cũng không có chữ “công nguyên”… vì học sinh lớp 3 chưa hiểu được những điều ấy. Kể cả có thực hiện yêu cầu tích hợp thì cũng chỉ có thể thực hiện được ở một mức độ nhất định thôi, nhằm tránh quá tải cho trẻ.
Thêm một điểm nữa cần lưu ý là bài tập đọc (khác với các bài tập chính tả, từ ngữ, ngữ pháp) phải giải thích những từ ngữ khó và kiến thức mới. Không thể dồn ép quá nhiều kiến thức vào một bài được. Dung lượng bài và các câu hỏi rất vừa phải, nhẹ nhàng. Thí dụ, với bài dạy 1 tiết ở sách Tiếng Việt lớp 3 thì chúng tôi chỉ cấu tạo bài tập đọc trên dưới 150 chữ, và bài ấy không được phép vượt quá 3 câu hỏi; còn với bài 2 tiết thì không được quá 250 chữ, và không được vượt quá 4 câu hỏi (mỗi câu hỏi chỉ trên dưới 10 chữ). 
- Có nghĩa là GS vẫn bảo lưu quan điểm không đưa cụm từ “đánh giặc Hán” vào bài này?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Quan điểm của tôi là giữ nguyên nội dung như hiện nay. Tôi xin nhắc lại, đây không phải bài học lịch sử. Dạy học cũng như đá bóng, có phối hợp và phân công, có các lớp bọc lót cho nhau. Chỉ 6 tháng sau bài tập đọc này học sinh đã học về khởi nghĩa Hai Bà Trưng trong sách Lịch sử lớp 4. Những câu chuyện về lòng yêu nước chúng tôi dạy trong môn Tiếng Việt ở lớp 3 chỉ là những hạt gieo lượt đầu. Còn về từ ngữ, thú thật là tôi chưa thấy ai viết, ai nói “giặc Hán” bao giờ, mặc dù nói như thế là đúng sự thật lịch sử và đúng tiếng Việt. Nhà văn, nhà báo có thể sáng tạo ra những cách nói mới, nhưng viết sách giáo khoa thì phải dùng những từ ngữ phổ biến, chứ không thể thích là sáng tạo ra một từ mới được. 
- Nội dung của các cuốn sách dựa trên quy chuẩn nào, thưa GS?
GS Nguyễn Minh Thuyết: Chuẩn của sách giáo khoa Tiếng Việt là là chương trình Tiếng Việt. Căn cứ vào quy định về mục tiêu, nội dung chương trình và chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình (ví dụ, học sinh lớp 3 phải đọc với tốc độ bao nhiêu chữ/1 phút, biết ngừng nghỉ như thế nào, biết đặt và trả lời câu hỏi như thế nào v.v…), tập thể tác giả phải cụ thể hoá thành những quy định, quy ước thích hợp với từng lớp. Những quy định, quy ước này còn phải dựa trển kiến thức tâm lý, sư phạm và sự trải nghiệm của các tác giả. Nếu bạn đọc để ý sẽ thấy các tác giả rất cân nhắc trong việc lựa chọn tác phẩm để giữ gìn sự trong sáng của tâm hồn con trẻ.
Nếu viết sách mà cứ đưa lấy được, không lưu tâm đến tâm lý, khả năng tiếp nhận của các em học sinh thì khó đạt yêu cầu. Ví dụ ở sách Tiếng Việt lớp 2 , tập 2, trang 130 có dạy bài thơ “Lượm” của Tố Hữu, bắt đầu từ “Chú bé loắt choắt/Cái xắc xinh xinh”… rồi kết thúc ở câu “Đương quê vắng vẻ/Lúa trổ đòng đòng/Ca lô chú bé/Nhấp nhô trên đồng”.
Vì sao lại dừng ở đó? Giáo dục tinh thần yêu nước, chống xâm lược để bảo vệ quê hương là yêu cầu rất quan trọng. Nhưng cũng phải làm sao để tránh cho trẻ bị tổn thương tinh thần khi còn quá bé, do đó tôi đã bỏ đoạn nói về cái chết của chú bé liên lạc: “Bỗng lòe chớp đỏ/Thôi rồi Lượm ơi!/Chú đồng chí nhỏ/Một dòng máu tươi! …”. Vả lại, đối với lớp 2, bài thơ đến đấy cũng đã dài.
Viết sách giáo khoa là làm dâu trăm họ, rất dễ bị săm soi, nhiều khi gặp phải những tình huống giống như con dâu phải chịu đựng một bà mẹ chồng khó tính. Nhưng xin nhắc lại một lần nữa, tôi chẳng e sợ thế lực nào, Trung Quốc thì càng không có gì phải sợ.
- Vậy GS có bình luận gì về những động thái của Trung Quốc tại khu vực biển Đông thời gian qua, đặc biệt là những gây hấn trên khu vực quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam?
GS. Nguyễn Minh Thuyết: Tôi đã nhiều lần lên tiếng trên báo chí về việc này. Nay chỉ xin nhắc lại vắn tắt: Từ hơn một năm nay, Trung Quốc có những hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam một cách thô bạo. Họ tuỳ tiện mời thầu các ô dầu khí, trong đó có cả khu vực thuộc lãnh hải và vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam; lập thành phố Tam Sa, lập quân đồn trú; xua hàng ngàn tàu cá kèm theo tàu quân sự đánh bắt cá ở vùng biển chung, thậm chí là ở cả vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.v.v…
Đó là chuỗi hành động tiếp tục những hành động xâm lược từ trước đến nay. Đầu năm 1974, họ trắng trợn đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tới năm 1988, lại lợi dụng tình hình khó khăn của ta để chiếm một số đảo và bãi đá ngầm ở Trường Sa. Họ nã súng vào các chiến sĩ của ta, khi mà trên tay, trên thân mình chiến sĩ ta chỉ có lá cờ Tổ quốc. Đó là những hành động dã man, nhưng cũng hết sức đê hèn, không thể nào tha thứ được.
Tôi cho rằng, lúc này chúng ta cần tỉnh táo, khôn ngoan, nhưng tuyệt đối không được để mất chủ quyền, mất lãnh thổ, nói như các cụ thời xưa thì “một tấc đất cũng không được để mất”. Để đối phó với Trung Quốc, ta phải kết hợp nhiều biện pháp: một mặt tiếp tục đàm phán hòa bình, một mặt phải mài sắc cảnh giác, tăng cường tiềm lực quốc phòng, cố kết lòng dân, liên kết với các nước có chủ quyền liên quan, tranh thủ sự ủng hộ từ công luận quốc tế và cả từ những người yêu công lý, hoà bình ở Trung Quốc. 
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
GS Nguyễn Minh Thuyết là Giảng viên cao cấp thuộc Khoa Ngôn ngữ học ĐH Khoa học Xã hội và Nhân Văn (ĐHQG Hà Nội) từ 1990-2003.
Ông là Đại biểu Quốc hội khóa XI, XII; nguyên Phó Chủ nhiệm UB Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội.
Ông từng nói "Làm Đại biểu Quốc hội là một công việc dễ va chạm", và là người có nhiều chất vấn thẳng thắn làm "nóng" Quốc hội, đề cập thẳng vào nhiều vấn đề nóng bỏng của đất nước, nổi tiếng với nhiều câu hỏi gai góc và quyết "truy" tới cùng vấn đề.
Ông là người đã nhiều lần lên tiếng phản đối các hành động ngang ngược của Trung Quốc tại khu vực biển Đông, đặc biệt là những xâm phạm thô bạo vào Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Theo GDVN
"Mát rượi" - siêu mẫu nội y châu Âu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét