Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2012

Lều chõng (phần 4)

"Lưới nhỏ" - Hot girl Việt Nam
Ông nghè Trịnh phì cười mà gạt đi rằng: "Mày học dốt quá, hạch còn không đỗ nữa là đi thi? Tao xin cho mày thì được, nhưng chỉ sợ mày viết bất túc quyển, hoặc là phạm húy, phạm lỗi, thì tội cả đến tao nữa".
Chương10
Con gà của nhà hàng xóm bắt đầu gáy tiếng thứ nhất, ông chủ nhà trọ đã lên nhà trên đánh thức những ông khách trọ.
Anh em Vân Hạc và Đốc Cung, Khắc Mẫn hoảng hốt tung chăn ngồi dậy. Trước ánh lửa đùng đùng của ngọn đóm nỏ trong tay ông chủ, mọi người áy ó dụi mắt trông ra ngoài sân. Trời vẫn còn tối mù mù. Mấy tàu lá chuối sau nhà đương phì phạch đánh nhau với ngọn gió bấc. Hơi rét thấu đến tận xương.
Lần lượt châm lửa vào mấy đọi đèn trên những chiếc quang treo lủng lẳng ở dưới sà nhà, ông chủ vui vẻ đi xuống nhà dưới.
Thằng nhỏ nhanh nhầu đệ lên dãy phản của các ông khách hai cái hỏa lò than đỏ rừng rực. Rồi một thằng khác đem tiếp vào đó tất cả một bộ khay chén và một ấm siêu nước sôi.
Vân Hạc dịch ra giữa phản vừa pha nước, vừa khoác cái chăn sù sù.
Ngoài sân vẫn gió to, thỉnh thoảng lại có giọt mưa lách tách rỏ xuống tàu chuối.
Gà gáy giục, cuộc trà vừa tan. Một nai rượu và một mâm đồ ăn lù lù tiến lên thay chỗ cho bộ ấm chén.
Ông chủ vui cười nói với bọn khách:
- Thưa các ngài, hôm nay là ngày vào kỳ đệ nhị các ngài tuy không dặn làm, nhưng tôi thành tâm sửa thêm nai rượu, xin mời các ngài xơi tạm để giúp thêm cho khiếu văn.
Tiêm Hồng lễ phép cám ơn và bảo ông ấy vào ngồi uống rượu. Nhưng mà ông ta từ chối không dám, rồi xuống nhà chơi.
Vân Hạc, Đốc Cung quay vào rót rượu, so đũa.
Tuy rằng ai nấy vẫn chưa hết cơn dở ngủ, uể oải không muốn ăn uống, nhưng cuộc rượu vẫn cử hành trong một cảnh tượng vui vẻ. Riêng có Khắc Mẫn chỉ nhắp vài hớp, rồi gọi thằng nhỏ lấy cơm. Thày kéo một mạch hết bốn, năm bát, rồi đứng phắt dậy, rửa miệng, uống nước và đi sắp sửa đồ đạc của mình.
Gió vẫn thổi dữ. Mưa càng nặng hột hơn trước.
Trời càng tối đen như mực. Khắc Mẫn rối rít giục bọn Vân Hạc uống rượu phiên phiến để đi ra trường. Nhưng bọn này vẫn cứ kề cà chén thù, chén tạc. Nóng ruột. Khắc Mẫn liền bảo thằng nhỏ châm đuốc cho mình. Rồi thày giở một chiếc áo tơi khoác vào lưng và lấy lều, chiếu, yên lọ, đeo hết lên cổ. Với dáng bộ lật đật, thày nhìn vào bọn Vân Hạc.
- Các anh ra sau nhé! Tôi phải đi trước, vì tôi phải vào trước các anh.
Đốc Cung mỉm cười:
- Sao mày tự làm khổ cái thân mày như vậy? Bây giờ quan trường còn ngủ, chứ dễ người ta đã ra cửa trường để đón mày vào đó chắc? Ra từ bây giờ để đứng cửa trường mà run đấy à!
Khắc Mẫn không trả lời. Tất cả bước luôn xuống thềm. Cả bọn trong này đều cười sằng sặc. Giây lát thấy thày bước lên, mỗi người hỏi mỗi câu:
- Không đi nữa à?
- Quên cái gì đấy?
Khắc Mẫn không để ý đến những câu hỏi ấy, thầy lừ lừ nhìn mặt Tiêm Hồng:
- Tôi sẽ đóng ở gần nhà Thập đạo. Lát nữa bác vào thế nào cũng đến đấy nhé.
Tiêm Hồng gật đầu, Khắc Mẫn lại lật đật xuống thềm, rồi đi, Đốc Cung vừa cười vừa nói:
- Cái ngu nó làm cho người ta phải khổ như thế.
Vân Hạc đón lời:
- Vì nó nhiệt tâm về công danh, ngồi đây sốt ruột không chịu được, cho nên phải đi. Chứ nó cũng không quá ngu đến nỗi không biết bây giờ quan trường chưa ra, ra đó cũng đến đứng đó.
Gió lạnh.
Mưa đã nhẹ hột.
Ngoài sân trời sáng mờ mờ.
Nai rượu cũng đã gần cạn. Mọi người bắt đầu ăn cơm.
Cuộc rượu tan, ngoài phố có tiếng người đi rầm rập. Tiêm Hồng gọi thằng nhỏ đem hết lều, chiếu, yên, tráp lên đó, để ai nấy kiểm điểm một lượt xem có quên thiếu thức gì hay không.
Đoàn Bằng ngó ra ngoài sân rồi nói:
- Mưa to thế này, chắc là trong trường lội lắm. Bây giờ giữ sao cho hai cái chân khỏi lấm?
Đốc Cung phụ họa:
- Ừ, nếu chân lấm mà ngồi lên chõng, có khi nó sẽ giây ra quyển văn...
Vân Hạc nói:
- Thôi thì mỗi người đành phí một đôi bít tất. Bây giờ cứ đi bít tất mà lội bùn. Vào trường, đóng lều xong, sẽ tháo vứt đi.
Tiêm Hồng khen:
- Cái đó thông đấy. Cũng chỉ còn có cách ấy có thể làm cho chân sạch.
Rồi cả bốn người cùng đội nón, khoác áo tơi, hai chân xỏ bít tất, sàm sạp bước xuống sân đất, với những đồ đạc đeo xúc xích ở vai và cổ.
Vân Hạc ra bộ cáu kỉnh:
- Cái nước nhà mình nghĩ cũng buồn cười. Bao nhiêu ông to, ông lớn, làm giường, làm cột cho nước nhà đều ở thi mà ra, thế mà làm sao người ta lại không chịu làm vài chục gian nhà, để cho chúng mình ngồi thi?
Đoàn Bằng cắt nghĩa:
- Không phải các cụ ngày xưa đều không nghĩ đến điều đó. Nhưng trong trường thi hương, không thể cất nhà cho học trò ngồi thi. Là vì học trò đông quá, cất đến mấy chục gian nhà cũng không đủ chứa. Vả lại, thi ở giữa trời, các quan ngự sử còn có thể đứng trên chòi mà nhìn xuống dưới để rình những kẻ gian lậu, chứ nếu thi ở trong nhà, thì các ông ấy ngồi đâu mà canh?
Đốc Cung ngắt lời:
- Thì quan ngự sử cứ vào trong vi mà coi chẳng được hay sao? Sao lại cứ phải đứng ở trên chòi mới được?
Tiêm Hồng đáp:
- Không được! Các ông ngự sử cũng đều là người biết chữ. Nếu vào trong vi, lỡ các ông ấy gà cho học trò thì sao? Bởi vì cần phải phòng bị chỗ đó, cho nên, người ta mới cắt các ông đề điệu phải đem đầu bài xuống dán ở trong các vi. Ông đề điệu là người dốt đặc một chữ không biết, không thể gà cho ai được.
Đốc Cung đương toan nói thầm đằng sau bỗng có tiếng kêu "trời", làm cho ai nấy đều phải giật mình quay lại.
Một ông cụ già đầu bạc râu bạc đương nằm chỏng gọng trên đường, cuộn áo lều gác chéo giữa cổ, chiếc chõng tre và cái tráp sơn đè xấp đè ngửa trên bụng.
Thì ra, vì đường trơn quá, ông cụ tuổi già sức yếu bị toại, không thể gượng nổi, phải ngã bổ kềnh ra đó.
Cả bọn vội vàng chạy lại, kẻ nhắc lều chõng, người nâng ông cụ trở dậy. Ông cụ chỉ run cầm cập, mặt mũi xám ngắt, không thể nói được một câu nào.
Vân Hạc vừa dắt ông cụ vừa lẩm bẩm:
- Khốn nạn! Bấy nhiêu tuổi đầu, còn thi với cử làm gì cho khổ thế này?
Đốc Cung có ý ái ngại ông cụ, chàng nói:
- Trời đang mưa rét, ông cụ già nua như vậy, nếu vào trường chưa chắc đã viết được văn. Hay là chúng mình hãy đưa ông cụ vào một nhà nào gần đây, để cho ông cụ nằm nghỉ.
Ông cụ khi ấy đã hơi hoàn hồn, nghe nói, vội vàng xua tay và cất cái giọng run run:
- Các thày... hãy cứ làm ơn dắt lão đến cửa trường... Lão thi đã sáu khoa rồi, khoa này mới được vào kỳ đệ nhị, sống chết lão cũng vào trường cái đã.
Vân Hạc cố gàn:
- Nhưng mà chúng tôi sợ cụ không thể chống nổi với sức mưa rét . . .
Ông cụ vẫn vừa run vừa nói:
- Nhất là chết ở trong trường lão cũng cam lòng.
Tiêm Hồng lại hỏi:
- Cụ vào vi nào?
Ông cụ đáp bằng tiếng tai:
- Lão vào vi tả.
Vân Hạc nhanh nhảu tiếp lời:
- Vậy thì cụ đi với tôi! Tôi cũng vào vi tả đây!
Bốn người bèn cùng chia nhau mỗi người mỗi việc: kẻ xách yên, người đeo lều chõng, kẻ cầm cánh tay phải, người nắm cánh tay trái, cùng dìu ông cụ đi đến cửa trường.
Trong trường vừa nổi một hồi trống cái báo tin quan trường sắp ra.
Trên khu đất trước cứa vi giáp, học trò đã đến tấp nập.
Kỳ này bị hỏng rất nhiều, số người chỉ độ bằng một phần ba kỳ trước. Mọi người trao trả ông cụ các thứ đồ đạc, rồi cùng chia ngả đi tới các vi. Vân Hạc dắt được ông cụ đến cửa vi tả, người lính cầm loa ở cạnh ghế chéo đã bắt đầu gọi tên học trò.
Chiều trời tự nhiên lại thấy tối sầm. Gió bấc lại nổi ào ào. Mây đen tự nẻo chân trời đùn đùn tiến lên giữa trời, và lan ra khắp bầu trời. Đánh nhoáng một cái, mọi người đều phải lóa cả hai mắt. Vòm trời đen kịt như bị nứt ra nhiều vết, những luồng chớp nhoáng chói lọi đồng thời bật ra và thi nhau vằn vèo chạy đi chạy lại như đàn rắn vàng. Tiếng sét doành đoành nổi lên như phá góc trời tây bắc; nó dồn nhau, nó đuổi nhau, nó ù ù đưa nhau sang mãi góc trời đông nam, làm cho tầng không chuyển động như sắp sụp đổ.
Hột mưa lớn bằng quả ổi lác đác sa xuống mặt đất xuống nón học trò, và lộp bộp rơi xuống đôi lọng xanh của ông phân khảo đương chễm chện ngồi trên ghế tréo với áo thụng xanh. mũ cánh chuồn và cây hốt ngà voi.
Công việc lúc này có vẻ cấp bách.
Người lính cầm loa luôn luôn thét không dứt miệng. Môi tên một người học trò chỉ được gọi đến hai lần. Nếu ở dưới không có tiếng thưa, tức thì người ta gọi luôn tên khác. Bọn lính thể sát làm việc cũng rất lạo thảo. Với các đồ đạc của học trò, họ chỉ nhòm ghé qua loa, thấy không có vẻ khả nghi thì thôi.
Trời cũng dọa chứ chưa làm thật. Sau khi học trò, quan trường, lính tráng vào hết trong trường, gió vẫn ào ào, sấm vẫn ù ù, chớp vẫn nhấp nhoáng, nhưng cơn mưa vẫn không lớn thêm. Người ta đoán rằng trời mưa để làm hoa rét, chứ cái tiết mùa đông, tháng giá, ít khi thấy có mưa to. Mà thật vậy, chỉ có cái rét là đáng ghê sợ Được có mưa gió giúp sức, cái khí hậu tai ác đó môi lúc mỗi tai ác thêm, nó làm cho nhiều người học trò chân tay run lẩy bẩy, mặt mũi không còn sắc máu, hai môi xám nhợt như kẻ ngã ao: Nhất là mấy ông hàn sĩ áo đơn quần mỏng lại càng bị nó hành hạ cực khổ, lắm người cóng đờ cả mười ngón tay, không thể cắm được bộ giọng lều. Vân Hạc cũng không khỏe mạnh hơn ai, chàng cũng lập cập hai hàm răng làm một, tuy trong mình đã quấn mấy lần áo bông áo kép. Lóng ngóng bằng đến nấu chín nồi cơm, chàng vẫn chưa lợp được kín cái lều.
Bởi vì ngọn gió quái ác thúc vào đùng đùng, cái áo lều buộc được bên nọ, thì bên kia lại bật ra rồi, có khi nó còn nhổ cả giọng lều lên nữa. May quá, hôm nay chàng vẫn đem theo bốn chiếc cọc nhỏ và một chiếc dùi đục, chàng dùng dùi đục đóng chặt bốn cái cọc ấy cho đầu nó xuống sát mặt đất rồi mới buộc chằng vào bốn góc lều.
Nhờ vậy, cái lều mới khỏi lung lay.
Hai bên đầu lều đã được che kín bằng hai chiếc áo tơi chàng đem cái chõng đặt vào trong lều, rồi toan tháo bít tất bỏ đi. Nhưng lát nữa còn phải đi lấy đầu bài, nếu bỏ bít tất thì chân lại lấm, lấy gì mà lau. Nghĩ thế, chàng lại cứ để cả đôi bít tất ngồi thõng hai chân xuống đất và giở đá lửa đánh lửa hút thuốc. Đôi tất lúc ấy đất nhả bết vào đã thành một đôi ủng đất, nó làm cho chàng hai chân nặng trĩu, hơi rét tê dại da thịt.
Cài chòi gần nhà Thập đạo thong thả điểm một hồi trống cái. Quan trường phân phát những mảnh giấy viết đầu bài cho hai ông chánh phó đề điệu và các lại phòng đem dán ở bảng các vi. Theo như thí pháp mới định, kỳ đệ nhị có một bài thơ và một bài phú.
Thơ là: "Bang gia chi quang" thể thất ngôn, vần thập tứ diêm.
Phú là: "Sĩ nguyện lập sư triền thể luật phú, vần "nhân chính khả duyệt thiên hạ chi sĩ", tất cả tám chữ, theo lối thuận áp.
Vân Hạc coi qua đầu bài rồi trở về lều. Chàng tháo bít tất quăng xuống xó lều và giờ ống quyển lấy quyển nắn nót viết năm chữ lớn "Bang gia chi quang thi" và tám chữ con "dụng thất ngôn luật, thập tứ diêm vận" chàng lại bỏ quyển vào ống, bó gối ngồi nghĩ thế cục của tám câu thơ.
Gió lại thổi dữ. Sấm sét lại nổi ầm ầm. Nước mưa ở đâu đổ xuống sún sụt. Cái lều của chàng tuy đã có cọc buộc ghì xuống đất, nó vẫn vẹo vọ rung rinh mỗi khi gặp một cơn gió giật. Chốc chốc chàng lại cứ phải nắm lấy gọng lều và ấn xuống đất cho lều khỏi bung.
Càng về gần trưa, mưa càng dữ dội. Các rãnh trong vi đều thành luồng nước trắng xóa. Bong bóng nổi trên mặt nước lềnh bềnh. Một lát sau, nước dềnh lên khỏi mặt rãnh, nó tràn vào lều và lênh láng chảy qua gầm chõng.
Vân Hạc đương ngồi trên chõng, gục đầu vào chiếc yên gỗ, hí hoáy viết mấy câu thơ, chợt thấy cái chõng tự nhiên thấp xuống dần dần, rồi nó lún xuống đến sát mặt đất, bùn nước theo khe nan chõng phòi cả lên trên mặt chõng.
Cái gì mà lạ thế nhỉ?
Thì ra khu đất trường thi, mấy tháng trước đây, chỉ là những ruộng lúa mùa. Kỳ thi sắp tới, lúa cũng vừa chín. Sau khi lúa cắt hết rồi, người ta đem trâu cày lên và đập qua loa cho vỡ những tảng đất lớn. Rồi họ đánh thành từng luống như luống khoai sọ để cho học trò cắm lều lên trên. Kỳ trước được trời nắng ráo, xéo vào luống đất lổn nhổn, tuy có đau chân, nhưng còn sạch sẽ một chút. Bây giờ gặp hôm mưa to, luống đất bị nước ngấm vào, nó đã thành ra luống bùn, không đủ sức để đỡ cái chõng và một người ngồi. Vì vậy cái chõng mới phải thụt xuống, thụt cho đến khi bốn chân ngập hết như bốn cái cọc mới thôi.
Vân Hạc cũng như hết thảy mọi người, tuy ngồi trên chõng vẫn không khác gì ngồi dưới đáy ao, đít áo, đũng quần, nước bùn thấm vào bê bết. Gió bấc như có thù riêng, luôn luôn quạt cho giọt mưa hắt vào các khe lều. Vì sợ nước bắn vào, quyển thi sẽ bị tỳ ố, chàng phải quay lưng ra phía ngọn gió, để lấy lưng làm cái bình phong chắn cho hạt nước tàn ác khỏi bay vào đến quyển văn. Nhưng cái lưng chàng không phải là vật kỵ gió, ky mưa, nước mưa theo gió hắt vào, nó đã thấm qua mấy lần áo bông, áo kép lọt tới da thịt. Cái nước lúc ấy mới độc làm sao, nó vào đến đâu, chàng thấy ở đấy cứ buốt thon thớt như bị tên bị độc bắn phải; miệng thít tha, tay run lẩy bẩy, chàng không thể nào cầm bút mà viết, tuy chàng đã nghĩ được xong bài thơ, một vần "lung" một vần "nhập đề" và một vần "thực" của bài phú. Cái làm cho chàng phải lo hơn nữa là việc lấy dấu "nhật trung". Quyển của chàng đã viết được ba dòng rưỡi ở trang đầu, nghĩa là đến chỗ đóng dấu nhật trung rồi đấy, nhưng mà dấu ấy chưa có, thì còn cứ phải để đó không được viết tiếp xuống dưới. Lúc tạnh ráo, công việc ấy cũng còn phải chờ, phải đợi, phải chầu chực mất nhiều thì giờ, huống chi bây giờ, mưa gió ầm ầm, đi bằng cách nào cho đến được nhà Thập đạo mà không bị ướt?
- Thà bỏ mẹ nó mà ra cho rảnh. Thi với cử thế này thật là nhục hơn con chó. Dù có đỗ đến ông gì, làm đến ông gì, cũng không bõ công.
Chàng vớ luôn lấy quyển văn, đã toan xé toạc làm đôi: Thình lình lại nhớ ra rằng: dù không thi nữa, cũng phải đem nộp quyển trắng thì mới ra được. Nếu không có quyển, bọn lính canh cửa tưởng mình vào làm gà, chúng sẽ bắt bớ lôi thôi. Rồi chàng lại nghĩ: nếu nộp cái quyển có vài dòng chữ tất nhiên sẽ bị liệt vào hạng "duệ bạch", rồi nó đem tên tuổi mình yết ra bảng con thì mình sẽ bị mang tiếng viết không nổi quyển. . . .
Liều tình với trời, chàng lại cắn răng ngồi mà nghĩ nốt mấy vần phú nữa.
Gió đã yếu dần, mưa cũng nhỏ dần. Thẳng trên đỉnh đầu, mặt trời đã nhỏn nhoẻn ngó xuống nhân gian bằng bộ mặt tẻ bẽ như bị xấu hổ.
Vân Hạc vội vàng cầm chiếc ống quyển đi thẳng đến nhà Thập Đạo.
Trong vi bắt đầu nhốn nháo. Kẻ ở phía tả chạy sang, người ở phía hữu chạy lại, quang cảnh không khác một đám trốn loạn. Hết thảy mấy trăm con người, ai cũng như ai, mặt tái mét, môi thâm xì, quần áo lấm bê lấm bết, như người đào dưới đất lên.
Trên các luống bùn úng ình, và các rãnh nước lênh đênh, gọng lều, áo lều, áo tơi, chiếu cói, giấy bút, lổng chổng ngổn ngang, không khác khu chợ sau một cơn giông bão.
Té ra trong lúc mưa gió dữ dội, đã nhiều cái lều không thể đứng vững, bị gió cuốn đi, và cũng lắm ông học trò rét quá, không thể ngồi mà viết văn, đành nộp quyển trắng để tháo lấy thân.
Trong nhà Thập đạo, người đông như một buồng trò. Ngoài bọn quan trường, lại phòng và lính canh gác lại thêm những ông cụ già vì lều trốc, lều giội, xin vào làm văn tại đó. Vân Hạc mới chìa ống quyển qua bức rào nứa, một người lính tức thì chạy ra đón lấy và đưa vào nhà Thập đạo cho người lại phòng. Mưa rét cũng có cái lợi, nó lợi cho cái ống quyển không phải nằm chờ phút nào, người lại phòng nhanh nhảu mở ống lấy quyển đóng dấu, rồi lại chuyển cho người lính đưa ra trả chàng.
Thế là xong cái nạn lấy dấu nhật trung.
Bây giờ trong trường, có rất nhiều nước, nước ở các vũng, các rãnh dềnh lên, lênh láng khắp chung quanh lều. Bì bõm trao chân vào cải vũng nước cạnh lều, chàng sẽ kiễng chân bước vào mặt chõng. Cái chõng tuy bị dìm dưới bùn, nhưng quần áo chàng lau mãi từ sáng đến giờ, nó cũng không lấm lắm nữa.
Chĩnh chện ngồi xếp bằng tròn trên chõng, chàng mở tráp lấy cuộn giấy bản để chùi mặt tráp cho khỏi ẩm ướt. Trong bụng đã thấy hơi đói, chàng bèn giở các quà bánh, ăn chập ăn chuội vài miếng, rồi mới cắm đầu vào viết. Lúc đầu tay hãy còn cóng, nét chữ hãy còn hơi run nhưng chàng viết độ vài dòng, thì tay lại thuần, chữ lại hoạt bát như trước.
Mải miết viết luôn một mạch, chừng nửa buổi chiều thì đến vần "chi". Trời lại tự nhiên sầm tối, rồi lại mưa gió sấm sét ầm ầm. Bây giờ lại càng rét hơn sáng ngày. Quần áo tuy đã khô ráo, mà chàng luôn luôn thấy như nước đổ vào lưng, da thịt cứ buốt thon thót.
Bấm gan viết nốt vần "sĩ" chàng đọc lại quyển từ đầu đến cuối để đếm những chữ xóa, sót, móc, chữa và biên vào dưới chữ "cộng quyển nội". Thoát nạn.
Thôi, còn tiếc gì của nữa, chàng bỏ tất cả lều chõng đồ đạc, chỉ cởi lấy đôi áo tơi, để khoác vào mình cho khỏi mưa ướt, rồi chàng đội nón và cầm ống quyển đi ra.
Tuy chưa có trống thu quyển, nhưng cái cửa sang nhà Thập đạo đã ngỏ, chàng đến trước nhà Thập đạo và đưa quyển văn ra nộp, vừa gặp lúc ông chủ khảo vơ vẩn ở đó. Ngài tự đón lấy quyển văn của chàng và mở ra coi mấy câu ở đầu trang. Rồi ngài lẩm nhẩm gật đầu và khen:
- Giỏi lắm! Mưa rét như vậy mà còn viết được những câu như thế này, đáng sợ thật! Có lẽ thủ khoa sẽ về người này. . . .
Thì ra trong trường lúc ấy, trừ ra những người rét không viết được, phải trả quyển trắng di ra, chàng tức là người nộp quyển thứ nhất. Vì vậy mới được quan trường ngó đến. Trước sự khen ngợi của ông chủ khảo, chàng cứ im lặng qua cửa chính trước nhà Thập đạo rồi ra.
Ngoài trường lại càng rét dữ. Đường đi vừa lội vừa trơn như mỡ, chàng dò mãi không được một bước.
Hạt mưa tua tủa như những mũi tên, luôn luôn theo gió bắn vào mặt chàng. Chàng đương đập hai hàm răng để chống lại với mưa và gió, thình lình thấy có tiếng hỏi:
- Thưa ông đã ra.
Nhưng chàng không thưa vì không biết người ta hỏi ai. Tiếng hỏi lại cố tranh với tiếng gió:
- Ông Hạc? Lều chõng của ông đâu cả?
Chàng vội nuốt những giọt nước tràn chua trên mặt để mở mắt nhìn xem người nào. Nhưng cái mặt người ấy đương bị tùm hụp dưới chiếc nón sơn khiến chàng nhìn mãi mới biết đó là thằng bếp nhà trọ.
Chàng hỏi:
- Anh đến đây làm gì?
Thằng bếp chạy đến nắm cánh tay chàng dắt đi và đáp:
- Ông chủ sai con ra đón lều chõng cho các ông. Sao ông lại không đem đồ đạc gì về thế này?
- Ai có phải tội mà đèo bòng những của tội ấy? Tao bỏ hết trong trường rồi.
Thế thì ông để con dắt ông vậy.
Vân Hạc nói không ra hơi:
- Thôi anh ở đây đợi các ông kia. Nếu các ông ấy đem lều chõng ra, thì anh đeo giúp cho họ, tôi đi về một mình cũng được, không phải dắt.
- Bây giờ vẫn chưa có trống thu quyển, những ông kia có lẽ còn lâu mới ra. Vậy để con đưa ông về, rồi lại ra đây đón các ông ấy cũng vừa.
Lúc này cơn rét như đã ngấm vào trong tim phổi, chàng chỉ lẩy bẩy chực ngã, tưởng như nếu đi một mình, không khéo thì không về được đến nhà. Vì vậy chàng không từ chối cái hảo tâm của anh bếp.
Bì bõm lội trên con đường lênh láng bùn ba, chàng đã mấy lần trượt chân chực lăn xuống đất, tuy đã dược có thằng bếp khỏe mạnh làm cột cho mình nương tựa.
Tới nhà trọ, trời đã gần tôi. ông chú trọ sốt sắng đợi ở trước cửa. Thấy chàng, ông ta đon đả chào hỏi:
- Ối chà. Rét quá, ông nhỉ! Tôi không thấy khoa nào đương thi lại bị mưa gió dữ dội thế này. Xin mời ông vào trong nhà sưởi ấm cái đã, rồi sẽ thay đổi quần áo.
Vân Hạc chỉ nói được một tiếng vâng. Rồi chàng run rẩy bước lên trên thềm.
Giữa gian nhà giữa, đống củi đương nỏ đùng đùng, mấy chiếc ghế nhỏ la liệt bày khắp chung quanh.
Chàng không kịp rứa hai chân lấm, chỉ lật được chiếc nón sơn và đôi áo tơi quăng ra giữa nhà, rồi sà luôn vào chiếc ghế gần nhất ở cửa.
Độ một giờ sau, Đốc Cung, Tiêm Hồng, Đoàn Bằng lần lượt tiến về. Ai cũng như nấy, quần áo lấm như trâu vùi, mặt mũi không còn sắc máu. Trời đã tối mịt, mới thấy Nguyễn Khắc Mẫn với tất cả đồ đạc lỉnh kỉnh của thày.
Những con côn trùng trong bộ ảnh 3D được phóng đại sắc nét đến mức đến không thể nét hơn với đầy đủ: lông lá, răng, càng... y như những con quái vật.
Chương 11
Đã hai ngày nay, cô Ngọc chỉ những lật đật chạy ra chạy vào, không hề bước chân lên chiếc khung cửi.
Rổ suốt cô đánh từ chiều hôm kia bây giờ đã ôi, lượt sợi ở ngoài đã biến ra màu vàng vàng và khô cứng như một lần vỏ, ruồi muỗi đậu vào đen kịt.
Súc sợi ngâm trong vại nước cũng chín đều rồi, đáng lẽ thì phải đạp cơm từ sáng hôm qua, nhưng cô vẫn không lúc nào giở đến nó được.
Mà nào có bận gì đâu? Thì giờ của cô chỉ dùng vào việc pha nước, têm trầu, phục dịch khách khứa hết cả.
Là vì từ hôm được tin Vân Hạc đã thi xong kỳ đệ nhị trở về thăm nhà, bà con nội ngoại lục tục đến chơi hỏi han, bọn này ra thì bọn kia vào, rình rịch suốt ngày không lúc nào dứt.
Ai cũng giật mình kinh sợ, khỉ nghe Vân Hạc thuật lại những cảnh mưa rét lầm lội trong trường.
Nhất là lúc thấy chàng nói rằng có ông cụ già chết rét trong lều, thì không người nào mà không ái ngại thương xót.
Nhưng cái thương một ông người dưng ở đẩu đầu đâu, vẫn không lấn được cái mừng cho một người rể họ mình.
Tuy rằng trong đám chú, bác, cô, dì, cũng không mấy người biết chữ, không rõ giá trị văn chương ra sao, nhưng nghe cụ đồ Vân Trình dè dặt khen ngợi sau khi đã xem bản giáp bài thơ bài phú của chàng đem về, thì ai cũng tin là chàng sẽ đỗ. Người ta thi nhau đem những điều mộng tốt lành kể ra. ông này khoe mình mơ thấy nhà cháy, ông kia bảo tôi mơ thấy đi vật trâu, bà khác bảo mình mơ thấy đi xem rước, đám rước có cả võng lọng. Rồi thì những người bông phèng lại bắt đầu gọi cô Ngọc là cô cử.
Trước sự cầu chúc của họ mạc hàng xóm, cô vẫn tỏ bộ ngượng ngùng và vẫn hết lời từ chối:
- Các ông, các bà có lòng mong cho như thế, tôi xin cảm ơn. Nhưng đến bao giờ được thế, bấy giờ sẽ hay, bây giờ tôi xin các ông, các bà đừng nói trước vội.
Mỗi khi nghe tiếng bà cử của người ta gán gẩm cho mình, cô vẫn nhũn nhặn trả lời như vậy. Tuy vậy, ở trong trái tim cô vẫn không khỏi luôn luôn hồi hộp.
- Ừ thì mình làm bà cử, cũng đáng chứ sao?
Người ta muốn làm bà cử thì khó, chứ mình muốn làm bà cử, tưởng cũng không khó lắm. Có điều muốn được hơn kia, chứ được cái tiếng bà cử, thì vẫn còn thua chị ấy.
Cả đêm vừa rồi, trong lúc nằm cạnh chồng, óc cô quanh quẩn đi lại có mấy câu đó.
Sáng nay, vì gần đến ngày ra bảng kỳ đệ tam, Vân Hạc sắp phải trẩy trường, nên cô cũng phải dậy sớm để sắm sửa đồ đạc cho chàng.
Ấm nước đun sôi, Vân Hạc cũng vừa tan giấc.
Ông đồ, bà đồ còn ở nhà trên chưa xuống. CÔ Bích và mấy đứa người nhà đều ở dưới bếp nấu cơm. Trong nhà ngang, ngoài vợ chồng cô, không có ai nữa. Trao cho chàng chén nước súc miệng, cô mỉm cười và hỏi bằng giọng âu yếm:
- Thế nào? Đi bây giờ hay là đến chiều?
Chàng đón chén nước với dáng bộ lơi lả:
- Bây giờ cũng được, đến chiều cũng được, mình bảo nên đi lúc nào thì tôi xin đi lúc ấy.
Cái ấm chuyên chổng mông trên miệng chén tống vừa nhả hết những nước sôi ở trong, cô Ngọc sẻ ra hai chén và nhắc một chén đưa chồng.
- Thế thì ngoan lắm! Tôi khen cho mình biết điều! Vậy tôi bảo mình ở nhà đến mai sẽ đi có được không?
Chàng đưa chén nước lên dưới cặp môi tươi cười:
- Cứ kể thì thôi không đi nữa cũng được. Tôi đi chằng qua là đi hộ mình. Vì mình háo hức muốn làm bà cử, cho nên tôi phải chiều lòng. Chứ tôi nghĩ đến cái trận mưa rét hôm nọ, thì tôi chẳng thiết gì thi cử cả.
Cô Ngọc nuốt vội hớp nước trong miệng, để cầm chén tống rói tiếp vào chén Vân Hạc.
- Thế mà mình không bị bắt. Cũng may đấy nhỉ?
Vân Hạc ngơ ngác không hiểu:
- Bị bắt về việc gì?
Cô Ngọc rói nốt nước trong chén tống vào chén của mình và cười ngặt nghẽo:
- Thi gian chứ gì? Mình đi thi hộ tôi mà lại. . . ! Có phải là thi gian không?
Vân Hạc cũng cười sằng sặc:
- Thật đấy. Tôi không nói đùa? Sở dĩ tôi thi khoa này. chỉ cốt để cho mình làm bà cử...
Cô Ngọc không đợi chồng nói hết:
- Bà cử mà thôi à?
Vân Hạc vội vàng nói tiếp:
- À quên bà thám, bà thám hoa. Nhưng muốn bà gì thì bà, cần phải có tiền đây đã. Hôm nay mình sắp cho tôi được bao nhiều quan?
- Mình định bán non hai tiếng "bà cử" đây chứ gì? Ừ thì tôi cũng mua non cho mình. Nhưng phải tính hạ một chút.
- Hạ nhất cũng phải đủ năm chục quan. Bây giờ hãy đưa hai chục, còn ba chục nữa thì để đến ngày phúc hạch.
Cô Ngọc chế nước sôi vào ấm chuyên và cười mủm mím:
- Nói thách vừa vừa chứ nào! Nói thế thì còn ai dám mặc cả. Thế thì mình muốn bao nhiều?
- Năm tiền!
- Chết chửa! Cái giá bà cử rẻ thế kia ư? Nếu thế thì để tôi bán cho người khác vậy.
- Ừ mình muốn bán cho ai thì bán. Bán cho các cô ở phố hàng Lờ. Hôm nọ, còn có cái tội bằng cái đình đấy.
Nhà trên có tiếng ho khạc khúng khắng. Ông đồ, bà đồ đã dậy. Cô Ngọc cáo từ chồng bằng một cái nguýt thân yêu, rồi xuống nhà dưới sấp sửa cơm nước với cô Bích.
Trên ngàn cây bưởi trước sân, ánh mặt trời lấp loáng nhuộm trên lớp lá úa vàng. Mấy con chích chòe đua nhau đón chào sự ấm áp bằng những tiếng hót réo rắt. Ông đồ đủng đỉnh đi xuống nhà khách với tất cả cảm tình vui vẻ:
- Rét quá thế này hay để gần trưa hãy đi, anh ạ?
Rồi ông khoan thai ngồi vào phản ngựa Vân Hạc đương ngồi và tiếp:
- Ngày mai mới ra bảng kia mà? Tội gì đi từ bây giờ cho vất vả.
Vân Hạc vội vàng đứng dậy, chuyên một chén nước đệ đến trước mặt ông nhạc:
- Vâng, bây giờ đi khí rét. Nhưng không đi lại sợ hai anh con mong. Vì con đã hẹn với các anh con sáng nay ra sớm.
Ông đồ nhổ hớp nước trong miệng vào ống phóng:
- Được? Chậm một lúc nữa cũng không sao. Các bác ấy chắc cũng biết rằng trời giá ngăn ngắt thế này ai mà đi sớm cho được?
Bà đồ cũng vừa bước vào trong nhà với một giọng nói đon đả:
- Nhân tiện hôm nay tôi có sửa lễ ra thờ, anh hãy ở nhà lát nữa. Đợi cho đồ lễ làm xong, đem ra đình cúng, anh ra lễ thánh cái đã.
Thì ra từ khi Vân Hạc đi thi, ông nhạc bà nhạc vẫn luôn luôn cầu khấn quỷ thần úng hộ cho chàng. Ngoài cái lễ thứ nhất cử hành trước khi Vân Hạc lên đường, mỗi lần gần ngày vào trường, ông bà đều có sửa xôi và gà ra đình cúng đức "thượng đẳng".
Trước sự ân cần chu chỉ của cha mẹ vợ, cố nhiên chàng phải xin vâng. Thằng nhỏ lại xách lên đó ấm nước sôi khác.
Chàng tự đi súc ấm pha chè, chuyên lượt nước mới. Rồi chàng lễ phép ngồi vào chiếc ghế bên cạnh khi đã để khay nước trước mặt bố vợ.
Ông đồ một tay chống xuống mặt phản, một tay cầm chén lấy nước kéo qua miệng khay đánh sạt một cái để gạt những nước dính ở chôn chén cho khỏi rỏ xuống quần áo. Và nhìn Vân Hạc, ông cất cái giọng:
- Về việc quỷ thần thật là không biết thế nào. Cứ lấy lý ra mà nói, thì ai chẳng bảo thi cử cốt ở học lực, hễ mà học khá, dẫu không cung kính cũng đỗ, nếu mà học không biết gì thì dẫu thành tâm lễ bái đến đâu mặc lòng, quỷ thần cũng không thể làm cho mình đỗ. Thế mà chính tôi đã thấy có người nhờ về quỷ thần mà đỗ có lạ không chứ?
Ngừng lại để uống cho cạn chén trà, ông đồ quay mặt sang phía bà đồ:
- Bà còn nhớ ông cử Mỹ đấy nhỉ?
Bà đồ nhanh nhảu trả lời:
- Có, ông ấy là em ruột ông nghè Trịnh, người bên bắc, đã làm huấn đạo ở huyện gì đó, phải không?
Ông đồ sẽ rung cái chân đương xếp chữ "ngũ" trên phản:
- Phải đấy, chính ông ấy khi đỗ cử nhân, đã được thần làm văn cho đấy.
Rồi ông hỏi lại Vân Hạc:
- Anh có biết chuyện ấy không?
Vân Hạc cầm chén tống nước, rói vào hai cái chén con trong khay và đáp:
- Thưa thày không.
Ông đồ rẽ ràng giở ống thuốc lá để cuộn một điếu và kể:
- Tôi nghe người ta nói rằng cái năm thi đậu cử nhân, ông ta học kém lắm, đã bị hỏng hạch kia mà. Thế mà tình cờ gặp anh thày bói, ông ta xem chơi một quẻ, anh thày bói đó đoán rằng khoa ấy thế nào ông ta cũng đỗ. Ông ta cho hắn chỉ nói láo, chứ đã hỏng hạch không được đi thi, thì đỗ vào đâu được nữa?
Nhưng anh thày bói quả quyết lời hắn không sai, nếu khoa ấy ông ta không đỗ, thì cứ đến mà vọt cái tráp của hắn...
Mồi thuốc cuốn xong, ông đồ gọi thằng nhỏ châm đóm, rồi lại tiếp tục:
- Thấy hắn nói chắc như vậy, ông ta hơi tin, khi về nhà mới bảo với ông nghè Trịnh lên tỉnh xin quan đốc học cho mình đi thi. Ông nghè Trịnh phì cười mà gạt đi rằng: "Mày học dốt quá, hạch còn không đỗ nữa là đi thi? Tao xin cho mày thì được, nhưng chỉ sợ mày viết bất túc quyển, hoặc là phạm húy, phạm lỗi, thì tội cả đến tao nữa".
Ông Mỹ hết sức nằn nỉ và đem lời ông thày bói kể với ông nghè. Nhưng ông này cũng vẫn không nghe. Cuối cùng ông Mỹ phải dọa anh rằng nếu mà không được đi thi khoa ấy nhất định phải nhảy xuống sông tự tử. Ông nghè Trịnh sợ em bực chí đâm ra liều lĩnh, nên cũng đành lòng đi nói với quan đốc học tỉnh nhà cho ông ta vào số thí sinh.
Thằng nhỏ đã cầm đóm lửa trao cho ông đồ, vừa châm mồi thuốc, ông đồ vừa nói một cách chậm rãi:
- Đến khi ông Mỹ trẩy trường thi ông nghè Trịnh ở nhà cứ lo canh cánh. Lo là phải. Em ruột ông nghè mà đi thi bị tội, còn gì là danh giá ông nghè? Lúc vào trường, ông này trông thấy đầu đề đã phát luống cuống không biết làm ra thế nào. Thình lình có một ông già đầu tóc bạc phơ chống gậy chui vào trong lều, và ông ấy bảo đưa giấy để mình giáp bài cho. Thế rồi, ông cụ cứ viết thao thao bất tuyệt, một lúc xong cả mấy bài, mà văn cực hay, ông Mỹ chỉ việc trông vào bản giáp mà chép.
Ông đồ im đi một lát, để hút một hơi thuốc lá. Bà đồ và Vân Hạc yên lặng lắng tai chờ nghe. Thở hết khói thuốc trong miệng, ông đồ cao hứng nói tiếp:
- Kỳ đệ nhị, ông Mỹ được vào, và lại thấy ông già ấy. Rồi kỳ đệ tam cũng vậy. Đến kỳ phúc hạch ông Mỹ mới hỏi tên họ ông già là ai, để khi thi xong thì xin tạ ơn. Bấy giờ ông già mới nói tên tuổi của mình cho ông này biết. Đến khi xướng danh, ông Mỹ được đậu cử nhân khá cao. Những bài thi của ông Mỹ khoa ấy, năm trước có một ông bạn đã đọc với tôi. Hay thật. Nhưng tôi quên cả, chỉ nhớ có hai cân thơ. Bài thơ khoa ấy đề là "Lũ phong niên". Câu trạng của ông già làm cho ông Mỹ thế này:
"Thuỷ ứng Chu hoa tam bạch hậu,
Trường trưng Thương quả thập hoàng sơ".
Ông đồ hút hơi thuốc nữa, rồi gặng Vân Hạc:
- Anh có chịu hai câu thơ ấy là hay hay không. "Chu hoa" đối với "thương quả" "tam . bạch" đối với "thập hoàng" chữ nào chữ ấy chọi nhau chan chát, mà đều là việc ở đời nhà Chu, rất sát ngay vào đầu đề nữa. Tôi tưởng thơ cử nghiệp mà đến như thế thì thật là tuyệt bút. Thấy nói khi chấm đến hai câu thơ ấy, quan trường có phê hai chữ "thần cú".
Bà đồ ra bộ ngơ ngác:
- Thế sau có biết ông cụ già người ở đâu không? .
Điếu thuốc đã tàn, ông đồ dụi cái đầu lửa vào sườn nghiên mực cho tắt than đỏ, rồi dán lên cột:
- Ấy! Sau khi thi dỗ, ông cử Mỹ có theo lời dặn của ông già ấy, tìm đến quê quán ông ta tạ ơn. Té ra vị ân nhân đó chính là cụ tổ tam đại của một vọng tộc trong tỉnh Hà Nội...
Bà đồ vội ngoảnh sang nhìn Vân Hạc:
- Đấy. Anh chả cứ bảo cái việc báo ân báo oán ở trường thi là chuyện hoang đường...!
Vân Hạc chỉ cười mủm mỉm. Ông đồ kết luận:
- Nhưng mà về sau cái ông cử ấy đâm ra sằng bậy vô lại, không còn chút nào nho phong. Có lần ông ta chim vợ một anh đội tuần bên Bắc bị hắn bắt quả tang.
Nói đến đây ông đồ lại hỏi Vân Hạc:
- Anh có biệt hắn làm thế nào không?
Và ông lại tự trả lời:
- Hắn lột trần cả đôi trai gái, trói chung vào một cái chõng, sau lính tuần khiêng đi diễu khắp các phố. Trước chõng thì hắn bắt người lính khác cầm một cái biển bằng mo bôi vôi. Trong biển có đề bảy chữ.
"Dương vô vị hề khuyển vô kiên"
Rồi ông cắt nghĩa:
Đó là hắn muốn triết tự cái tên ông Mỹ. Chữ dương là dê mà không có đuôi và chữ khuyển là chó mà không có cái chấm ở vai hợp lại chẳng thành ra chữ mỹ à? Chuyện đó nếu ở một nhà không có thần thế thì đến mất cả cử nhân mà còn phải tù phải tội nữa chứ. Nhưng may ông Mỹ là em ông nghè, nhờ có anh xin ông tổng đốc sở tại làm ngơ đi cho, cho nên chỉ bị nhục với hàng phố một bữa chứ không việc gì.
Ấm trà đã tàn. Bà đồ đứng dậy xuống bếp để bảo chị em cô Ngọc sắp sửa đồ lễ. Một lát sau, xôi gà đều chấm. Vân Hạc rửa mặt chải đầu, sắm sửa khăn ảo, để theo mâm lễ ra đình.
Bóng nắng ra đến nửa thềm, cả nhà mới xong được bữa cơm sáng, cô Bích vội vàng quẩy gánh đi chợ vì sợ chợ trưa. Bà đồ mở chiếc hòm cáng lấy năm quan tiền đưa cho cô Ngọc và tươi cười:
- Đây là tiền của thầy mẹ giúp cho anh tư. Còn vốn riêng của chị để đâu, phải bỏ mười lăm quan nữa ra đây, cho đủ hai chục. Muốn làm bà nọ, bà kia, cũng phải tốn tiền mới được.
Rồi bà bưng đĩa xôi và mấy miếng thịt gà sang cho lũ trẻ hàng xóm.
Bấy giở các cậu học trò mới lục tục đến, ông đồ phải lên nhà trên nghe cho họ đọc.
Cô Ngọc bưng năm quan tiền đặt vào phản giữa, và ngó chồng một cách ỡm ờ:
- Nào ông định tiêu bao nhiêu nữa đây? Độ năm tiền nữa có đủ không?
Vân Hạc nín không trả lời, vì thấy ở ngoài sân, thằng nhỏ đương đưa một người lạ đi vào nhà ngang.
Tới thềm, người ấy đứng lại để lấy phong thư trong túi, trao cho thằng nhỏ, nhờ nó đưa vào trong nhà. Vân Hạc đón phong thư nhìn qua dòng chữ đề ngoài, chàng cười tủm tỉm:
- À thư của anh Nghè Long? Không biết hắn nói gì đây?
Cô Ngọc vội vàng tiến đến bên cạnh án thư, chờ coi Vân Hạc xé cái phong bì, moi lấy một bức hoa tiên ở trong. Hoa tiên viết toàn chữ nho đại ý như vậy:
"Anh Tư Đào Nguyên, trước án tạm ghé mắt xanh.
Đệ về quê nhà đã gần nửa tháng. Vì quá bận rộn về chuyện thù tiếp khách khứa, cho nên nay mới viết thư báo tin với huynh ông.
"Tính lại những ngày đệ với huynh ông xa cách thấm thoát đã đầy một năm. Trong mấy tháng tập việc ở viện Cát Sĩ, cái xuân sắc của đô thành tuy có rườm rà, tươi thắm, nó vẫn không thể khiến đệ quên được cảnh vui của nơi cửa tuyệt, song huynh, những đêm gió mát trăng trong, đứng trên sông Hương ngó về phương Bắc, ngắm đám mây bạc lơ lửng trên núi Tản Viên, đệ thường tưởng như sắc mặt, tiếng cười cua huynh ông vẫn phảng phất ở đâu bên cạnh. . ."
Vân Hạc ngừng lại để nói với vợ:
- Đứng trên sông Hương mà trông thấy đám mây bạc trên núi Tản Viên, mắt của quan nghè thật là tinh hơn mắt ông Thiên Lý Nhỡn trong truyện Phong thần.
Cô Ngọc sẽ cất cái giọng ngây thơ:
- Ấy thế, nhưng mà người ta cũng đỗ ông nghè.
Vân Hạc không trả lời, chàng lại cúi xuống đọc tiếp: "Giữa lúc nhớ mong khao khát huynh ông, thình lình được tin huynh ông kết duyên cầm sắt với Lê tiểu thư ở làng Vân Trình, đệ thật mừng rỡ khôn xiết.
"Chuyện này, ở địa vị đệ, đáng lẽ không được nhắc đến, nhưng với huynh ông, đệ là một kẻ rất thân, đã được huynh ông coi như ruột thịt, há nên vì sự tỵ hiềm mà không bày tỏ nỗi lòng?
"Cái việc của đệ với Lê tiểu thư, đầu đuôi thê nào, huynh ông chắc đã biết rồi, không cần thuật lại.
"Thú thật với huynh ông, hồi tháng năm vừa rồi, khi đệ mang ơn vinh qui, giữa đường thấy Lê tiểu thư bị cảm, đệ thật bồi hồi khôn xiết.
Vân Hạc ngẩng lên nhìn vợ:
- Đuốc chưa? Sao mà trên đời lại có người đuốc như thế?
Cô Ngọc cười ngượng:
- Thôi đi? Anh đừng ghen bóng, ghen gió! Hãy đọc nốt đi, xem hắn nói ra sao đã nào?
Vân Hạc lại ngó vào bức hoa tiên: "Từ đó, đệ đã thề với trời đất quỷ thần, quyệt làm mối cho tiểu thư một người bạn trăm năm xứng đáng.
Trong con mắt đệ, cái người nên được tiểu thư nâng khăn sửa lược chỉ có huynh ông mà thôi. Vì vậy, đệ phải đem cái tâm sự đó kính thưa với thày chúng ta và nhở thày thu xếp giúp cho."
Vân Hạc lại cười sằng sặc:
- Anh ta muốn kể công với mình đây chắc. Nhưng mình không ơn. Chẳng qua anh ta muốn tìm chồng cho vợ chứ tử tế gì với mình...
Cô Ngọc nguýt chồng một cái thật dài, tưởng như cả mấy gian nhà sắp bị đổ. Vân Hạc vờ không trông lên, chàng cứ thản thiên xem xuống đoạn dưới:
"May sao thày cũng xét tấm chân thành của đệ, nên đã tự nhận lấy quyền làm ông Nguyệt hạ lão nhân.
Chỉ tiếc sau đó vài ngày đệ liền phụng chỉ vào kinh tập sự không được tới nhà lan, dự cuộc vịnh thơ , nghe tiếng êm ái của đàn cầm, đàn sắt. Đó là một việc đệ vẫn lấy làm ân hận.
Nhưng mà, vợ thảo gặp chồng hiền, họ Mạnh đã đẹp duyên nàng chén; trai tài sánh gái sắc, chàng Tiêu đã phỉ chí cưỡi rồng, sự kỳ ngộ ấy thật đáng ghi vào diễm sử, túc nguyện của đệ đối với huynh ông và Lê tiểu thư thế là thỏa kiếp lắm rồi.
"Lẽ ra, ngày nay đệ phải tự mình đền trước lầu Tần, nâng chén quỳnh tương mừng chị bốn chữ "bách niên giai lão" , nhưng mà đệ hiện được lệnh bổ đi tri phủ Thuận Thành, hành kỳ đã gấp, không tiện tự sang bái yết vả chăng, hoa hòe đã nở huynh ông chắc đương để tâm trí vào trận đua văn. Đệ cũng không dám vì chuyện riêng tây, làm bận sức bay nhảy của bằng mây côn biển.
Vậy xin bái chúc huynh ông gió xuân đắc ý, thẳng đường mây bẻ quế cung trăng, để cho cái tài tế thế kinh bang có thể đem ra giúp dân giúp nước. Sau khi việc trường đã đoạn, xin mời huynh ông tạm rời gót ngọc tới tệ ty, cho đệ được hầu tiếp quang trần, thì đệ khôn xiết hân hạnh. Vài hàng sơ lược, cố để giãi tấm lòng son. Dù có chỗ nào sơ xuất, mừng rằng huynh ông lượng thứ.
Đương mùa mai nở, kính chúc văn an.
Năm ...tháng...ngày...
Đệ Trần Đằng Long bái".
Vân Hạc dặt bức hoa tiên xuống án:
- Té ra anh ta đã bổ đi được tri phủ...Thằng cha may thế. . . !
Cô Ngọc ra bộ tần ngần:
- Thế là chị Thúy đã làm bà phủ rồi đấy. Sướng nhỉ.
Rồi cô rẽ ràng di lên nhà trên. Vân Hạc lấy bút và giấy viết luôn bức thư trả lời Đằng Long, rồi chàng cho gọi cái người đưa thư lúc nãy, giao hắn cầm về. ông đồ đã tan buổi học của lũ học trò tí nhau, lững thững ở nhà trên đi xuống và hỏi:
- Chị Tư đâu? Đồ đạc tiền nong của anh ấy chị đã sắp sửa đủ chưa?
Với một tiếng dạ vui vẻ, Cô Ngọc nhanh nhảu bước xuống nhà ngang:
- Thưa thày, con sắp sửa đủ cả rồi ạ!
Vừa nói, cô vừa lễ mê vác mấy quan tiền đặt vào trong phản và sai thằng nhỏ đem số tiền ấy nhập với những quan tiền của bà đồ đưa cho lúc nãy, lấy mo bó làm hai bó. Bà đồ ở sân vừa vào:
- Thế chị đưa tiền anh Tư bao nhiêu?
CÔ Ngọc tươi cười:
- Thưa mẹ năm quan. Và năm quan của mẹ cho nữa là mười.
Bà đồ cũng cười:
- Ít nhất chị cũng phải có mười quan. Với năm quan của tôi là mười lăm quan, chứ chị nảy ra được năm quan thôi thì anh ấy tiêu sao cho đủ?
CÔ Ngọc vẫn cười lơi lả:
- Bao nhiêu, con cũng không tiếc, nhưng con chỉ sợ anh ấy có nhiều tiền lại càng hay đi cô đào.
Rồi cô vào buồng mở hòm lấy hai quan nữa giao cho thằng nhỏ và tủm tỉm cười nụ, cô nhìn chồng:
- Thôi mười hai quan là đủ lắm rồi. Hễ mà dược vào phúc hạch thì lấy mấy trăm cũng có.
Vân Hạc chỉ cười không đáp.
Tiền nong đồ đạc thu xếp xong. ông đồ bà đồ bảo thằng nhỏ đóng gánh đưa chàng lên Hà Nội.
"Khép nép".
Chương 12
Lúc gần sáng, ngoài sân đương im ả, tự .nhiên nổi gió ào ào, rồi mấy hạt mưa lác đác sa xuống. Cả nhà trọ đều lo thom thỏm tưởng rằng lại như kỳ trước, ông trời độc ác lại chờ đến lúc vào trưởng mà trút xuống, làm tội cái thân học trò.
Nhưng mà không. Gặp tiết tiểu hàn, trời phải chiếu lệ làm phép thế thôi. Cả nhà ăn uống vừa xong, thì mưa vừa tạnh, gió vừa im, bầu trời dần dần sáng sủa, mặt trời dần dần nhô lên đầu tường phía đông.
Ông chủ nhà trọ lần này càng thêm chu tất.
Trong mỗi cái yên cũng như trong mỗi cái tráp, ngoài những đồ dùng ăn một ngày, ông ấy đã nhớ cả trầu cau tươi và thuốc lá cuốn sẵn. Hơn nữa ông ta còn mướn đâu được bốn anh con trai khỏe mạnh nhanh nhảu, đưa xuống nhà ngang nhất định xin với các ông khách trọ để chúng mang dỡ lều chõng.
Cố nhiên cái hảo tâm ấy không thể bị ai từ chối.
Một lũ dài tấp nập kéo nhau ra cổng, sau khi đã dặn ông chủ làm sẵn đồ rượu để tối về nhà cùng uống cho vui.
Vân Hạc bước rảo đằng sau Đốc Cung với một giọng băn khoăn:
- Thằng Mẫn cũng được vào nốt có phải vui không? Vắng nó, cũng thấy như thiếu cái gì ấy vậy.
Đốc Cung vẫn răm rắp cất gót, không quay trở lại:
- Ừ cái lúc mà nó hoạn đắc, hoạn thất, thì ai cũng phải bực mình. Nhưng nghĩ bốn thằng được vào, một mình nó hỏng thì cũng tội nghiệp. Trưa hôm qua, khi nó mếu máo chào chúng mình và vác bộ áo lều xuống thềm, tao vừa ái ngại vừa buồn cười, nhưng phải cố nằm không dám cười.
- Lúc ấy đứa nào vô phúc mà cười một tiếng, không khéo thì cà ra đánh nhau. Thấy nó hỏng thi cũng thương hại thật đấy. Nhưng, bây giờ mới hỏng, cũng là may cho nó lắm rồi. Nó thi cả thấy bốn khoa thì ba khoa bị bay kinh nghĩa, khoa này mới được vào phú. Với sức học của nó, như thế cũng là đủ lắm. Nếu nó được vào kỳ này, không khổ mày thì lại khổ tao hay là khổ các anh tao. Nó vào cùng vi với thằng nào thì khổ thằng ấy. . . Kỳ đệ nhất tao đã phải làm cho nó hai vế hậu cổ bài kinh lễ, kỳ đệ nhị, anh hai tao lại phải cúng nó một vần phú đấy...
Vân Hạc vừa nói vừa cố đi tới bên cạnh Đốc Cung, ngẩng lên thấy Tiêm Hồng, Đoàn Bằng, đã cách một quãng khá xa, chàng tiếp:
- Thằng cha kia còn dốt hơn nó nhiều lắm, phải không mày?
Một luồng gió bấc ù ù từ phía mặt thổi đến, hai người đều phải rùng mình, Đốc Cung khoác lấy cánh tay Vân Hạc và đi sát vào bên cạnh chàng cho đỡ rét, rồi hỏi:
- Thằng nào?
- Thằng ấy ? . . .
- À, Trần Đức Chinh phải không? Nếu như được thằng Mẫn thì nó cần gì chúng mình. Sức học của nó, chưa chắc đã được bằng lớp trung tập. Tao không hiểu nó định thi làm gì! Chắc nó chỉ cốt cắp quyển vào trường để gỡ cái tiếng "con nhà gia thế" chứ gì? Con nhà gia thế ba mươi mấy tuổi đầu, không thi không cử, thì cũng nhục cho cha mẹ lắm chứ!
- Nhưng tao lo quá, văn sách là kỳ nặng nhất, một mình viết đến hai quyển thì viết làm sao?
- Không sợ! Tao đã bảo rõ nó rồi! tao bảo kỳ này nếu cậu vào nữa thì rất nguy hiểm. Là vì đến kỳ phúc hạch, lính tráng canh phòng riết lắm, không ai có thể làm gà cho ai. Vả lại, những người được vào phúc hạch, mười phần chắc đỗ chín phần, người ta phải để tâm lực lo vào quyển của người ta, không ai chịu đi làm mướn. Nó cũng nghe ra và cho lời tao là phải. Vậy thì đến khi vào trường, mày chỉ cốt viết cái quyển của mày cho kỹ, còn quyển của nó thì giáp qua loa cho nó chép lại, miễn là khỏi có tội thì thôi chứ không cần hay. Nếu làm hay, lỡ ra mà nó được vào phúc hạch tức là mày giết nó đấy.
- Thế thì được! Đi thi chỉ cốt lấy hỏng, thì có khó gì! Nhưng sao mày không cho nó hỏng từ kỳ phú, có phải sướng cho nó không?
Đốc Cung mỉm cười:
- Nào tao có định làm cho nó vào? Mày tính cái lúc mưa rét như thế, quyển của tao, tao cũng viết bậy, viết bạ, huống chi là quyển làm mướn! Thật quả cái quyển của nó tao chỉ viết quấy viết quá, chẳng ra nghĩa lý gì cả. Khi ở trường ra, tao tưởng nếu cả trường chỉ hỏng một người cũng phải đến nó. Và giá bị hỏng ngay kỳ trước, nó cũng mãn nguyện lắm, vì đã là ông nhất trường rồi. Thế mà ai ngờ nó lại được vào, mới khổ cho người ta chứ! Người ta xem bảng thấy tên thì mừng, chứ nó xem bảng thấy tên thì mặt tái mét trống ngực đánh thòm thòm. . .
Đằng sau có tiếng chân người thình thịch, Đốc Cung vội quay trở lại, thấy có một lũ độ bốn, năm người, chàng liền ngừng lại, chờ cho bọn đó đi vượt lên đằng trước mình, rồi thêm:
- Thật đấy! Tao không nói dối. Lúc nhìn trên bảng thấy có chữ Trần Đức Chinh, nó cuống cả lên, vì không được vào cùng vi với tao, thế rồi nó lật đật chạy đi kiếm tao, nhờ tao thuê người làm bài. Như thế có nhục hay không?
Vân Hạc phì cười:
- Thế kỳ trước mày lấy của nó bao nhiêu?
- Ba chục quan! Còn kỳ đệ nhất nó mượn cái thằng ở bên Bắc Ninh, nghe đâu cũng phải bấy nhiêu.
- Thế sao kỳ này nó lại chịu trả đến bốn chục quan?
- Ồ! Bốn chục quan, chứ tám chục quan nó cũng phải mượn. Viết không nổi quyển, nó không mượn thì làm thế nào? Cáo thổ tả mà ra à? Tao định bóp nó cho mày lấy sáu chục quan, nhưng nghĩ thương hại, cho nên nói có bấy nhiêu.
Vân Hạc chỉ tay ra đằng trước mặt:
- Nhưng mày chưa nói với hai ông kia chứ?
Đốc Cung lắc đầu:
- Mày tưởng tao dại lắm sao! Ai có dại gì mà đem chuyện ấy nói với thằng cha ấy!
- Ừ nếu nói hai ông ấy thì nguy cho tao! Vì các ông ấy không ưa chuyện đó. Giả sừ khoa này tao đỗ, thì còn không sao, vạn nhất khoa này tao hỏng, ấy là các ông ấy sẽ thi nhau mà nhiếc mắng suốt đời. .
Câu chuyện còn đương nói dở, ở phía trước mặt đã nghe có tiếng ồn ào.
Đến cửa trường rồi.
Quan trường vẫn chưa ra. Ngoài trường, các cửa còn đóng im ỉm. Hôm nay vắng teo, số người lại chỉ bằng một phần ba kỳ trước. Nếu so với kỳ đệ nhất, có lẽ không được bằng một phần mười. Những ông đầu bạc và những cậu còn để hồng mao, bây giờ không thấy có mấy, phần đông đều là những người trong ngoài bốn mươi. Trời tuy giá rét, nhưng trên nét mặt mỗi người đều như vẽ ra một cái tâm trạng vui sướng. Phải! Đã vào đến kỳ đệ tam, mười phần chắc đỗ bảy rồi, không cử nhân cũng tú tài. Dù có hỏng nữa cũng là một ông nhị trường, đủ cho thiên hạ phục mình học cứng. Đứng trước cái cảnh trạng ấy, dẫu người chín chắn đến đâu cũng không giấu được vẻ tự hào.
Người ta tự hào bằng những câu sáo rất cũ:
- Kỳ trước tao viết bất thành văn lý, thế mà cũng vào, có chết hay không?
- Tao không học hành gì cả, sách vở quên như hũ nút. Lát nữa, không khéo đến nộp quyển trắng mà ra.
Giữa tiếng ầm ầm của đám đông, trong trường giật giọng điểm một hồi trống cái. Cửa trường ngỏ toang. Hai ông chánh phó chủ khảo dõng dạc từ nhà Thập đạo đi ra với cờ, biển, lọng.
Kỳ này còn ít học trò, hai vi tả, hữu, không phải dùng đến, chỉ thi ở hai vi giáp, ất. Vân Hạc vào vi ất, Tiêm Hồng, Đoàn Bằng, và Đốc Cung đều vào vi giáp.
Vì tên mình mãi cuối bảng, phải vào sau, hai chàng dắt nhau đủng đỉnh đi rong. Thình lình nghe đằng sau có tiếng người hỏi:
- Bùi tiên sinh!
Đốc Cung, Vân Hạc cùng quay lại.
Trần Đức Chinh vừa suýt tới nơi với bộ mặt hớt hơ hớt hải và một người lính áo nẹp đeo lều chõng đi theo.
- Tôi tưởng tiên sinh ở cửa vi giáp quanh quẩn tìm mãi bên ấy.
- Chúng tôi cũng đương tìm cậu!
Sau khi đã nói tên Đức Chinh với Vân Hạc và nói tên Vân Hạc với Đức Chinh, Đốc Cung ra bộ trịnh trọng:
- Hai ông cứ việc nói chuyện tự nhiên. Tôi sang bên kia.
Rồi chàng lật đật quay lại cửa vi ất. Vân Hạc đứng lại bên cạnh Đức Chinh:
- Tên cậu ở trên tên tôi phải không?
Đức Chinh chưa hết trống ngực, chàng vừa thở vừa trả lời bằng giọng lễ phép:
- Thưa vâng. Tên tôi ở trên tên ngài độ bốn chục người.
- Hôm nay chắc rằng người ta canh phòng nghiêm ngặt hơn những hôm trước. Vậy cậu vào trước, thì nhớ đóng lều ở chỗ cách nhà Thập đạo thật xa. Nhưng cũng nên đóng vào nơi đông người, đừng đóng lẻ loi ra gần bở rào. Rồi khi tôi vào, tôi sẽ tìm đến chỗ cậu.
Hồi trống nhập khẩu ở nhà Thập đạo đi ra đã điểm mau nhịp rồi nói rứt mạch bằng ba tiếng dõng dạc cuối cùng.
Lọng vàng, lọng xanh trịnh trọng rước ông phó chủ khảo và chiếc biển phụng chỉ lên mặt ghế tréo.
Chồng quyển cạnh quan phó chủ khảo đã chuyển lên tay người lại phòng. Người lính cầm loa và bọn lính thể sát tới tấp ai làm việc nấy. . .
Bởi vì số người đã thưa, học trò không phải len lỏi chen chọi như các kỳ trước.
Cái loa của người lính áo nẹp đương ậm ọe ở trên ghế tréo, phía sau đám đông bỗng có tiếng trống khẩu đổ hồi.
Những người đứng trong ngơ ngác hỏi nhau và nhất tề quay mặt ra ngoài. Đám người lần lần rẽ sang hai bên như hai đàn vịt. Dưới bốn chiếc lọng xanh chóp bạc, lù lù tiến vào một ông cụ già co ro trong tấm áo gấm tam thể. Với chòm râu điểm bạc phất phơ bay ngoài cái quai lụa bạch của chiếc nón lông, người ta có thể đoán ông ấy vào khoảng hơn sáu mươi tuổi. Và với lũ áo đỏ nẹp xanh lếch thếch xách điếu bưng tráp, cắp mã tấu, tay thước đi theo đằng sau, người ta lại có thể biết ông đó là một vị đại thần.
Đủng đỉnh cất đôi ống quần, nhiễu trắng lượt thượt trên hai chiếc giày kinh, vị đại thần khoan thai đi vào chỗ trước cửa trường.
Chiếc đẳng gô gụ và chiếc ghế bành gô trắc lên nước đã kê sẵn ở phía tay trái. Sau khi cùng quan phó chủ khảo chắp tay cúi đầu một cách cung kính, vị đại thần ấy chễm chệ ngồi vào ghế bành. Những người đi theo nghiêm trang đứng hầu ở phía sau lưng. Khu trời trên ghế khí chật, nó không đủ chỗ cho bốn chiếc lọng cùng giương. Hai chiếc được che vào thẳng đầu viên đại thần. Còn hai chiếc nữa, thì phải che nghiêng hai bên.
(Bị kiểm duyệt bỏ hồi Pháp thuộc.)
Như đã quen lệ, người lính xách điếu, thông điếu, đặt lên mặt đẳng, đặt vào nõ điếu một mồi thuốc lào, giữa khi bạn hắn mở cái lồng ấp, thổi hòn than hồng châm lửa vào một sợi dây ruột gà.
Viên đại thần rung đùi vít chiếc xe trúc dài vút như chiếc cần câu, ngài nhịp nhàng đặt luôn mấy cái cho ngọn lửa ở trên nõ điếu nhô lên thụt xuống, như một ngọn đèn gặp gió, rồi mới hút một hơi dài.
Khói thuốc trong mũi, trong miệng từ từ theo ngọn gió bấc tan vào trong đám không trung giá lạnh, viên đại thần hùng dũng chỉ tay lên chiếc ghế tréo của ông phó chủ khảo và đưa ra một dây những tiếng líu tíu. Tức thì, hai chiếc lọng vàng ở trên cái biển phụng chỉ liền được nâng lên chót vót giữa trời.
Mấy người học trò nhà quê thì thầm hỏi nhau:
- Ông gì mà oai thế nhỉ? Đó là ông tổng đốc của tỉnh Hà Nội.
Tuy không dự vào công việc trong trường, nhưng những công việc ngoài trường, đều do ngài coi sóc, từ một gánh nước ăn của các quan trường trở lên. Hai kỳ trước vì lúc gặp rét, khi bị mưa. ngài không thể tới.
Hôm nay được trời khô ráo, nên ngài đến qua cửa trường để coi học trò vào trường.
Và ngài đã bắt được quả tang cái đôi lọng vàng che cho chiếc biển chỉ phụng chỉ làm việc một cách trái phép. Bởi vì chiếc biển phụng chỉ nguyên là đồ của nhà vua ban cho, nó còn ở trên ông phó chủ khảo, và ông phó chủ khảo chỉ là người vâng theo mệnh lệnh của nó.
Hai chiếc lọng vàng riêng che cho nó, đáng lẽ phải cao hơn đôi lọng xanh che cho ông này mới là hợp phép.
Nhưng hai tên lính ngu si đã để hai chiếc lọng ấy thấp hơn mấy chiếc lọng xanh của ông phó chủ khảo độ hơn một thước. Đấy là một tội có thể bảo là đại bất kính. Vì thế, ngài phải chiếu theo oai quyền cha ông chúa tể một tỉnh mà ra lệnh cho hai người lính kia nâng cao đôi lọng đó lên.
Quan tổng đốc chững chạc đứng dậy từ biệt ông phó chủ khảo để theo bốn chiếc lọng xanh rẽ đám học trò đi ra.
Tiếng loa vẫn ấm óe thét ở bên cạnh ghế tréo.
Hết chừng gần hai trăm người thì đến tên Trần Đức Chính.
Với một tiếng dạ mạnh bạo, chàng và người đeo lều chõng cho chàng xăm xăm tiến đến khu đất của trường.
Cái áo nỉ đỏ nẹp xanh của thằng phòng đó như đã báo cho ông phó chủ khảo biết người chủ hắn là một con nhà quyền quý. Là vì chỉ có những nhà quyền quý mới được có thứ áo ấy, chỉ có con nhà quyền quý khi đi thi mới phải có người đeo lều chõng hầu. Hai sự dị thường đã bắt ông phó chủ khảo đòi lại quyển thi của Trần Đức Chinh ở tay người lại phòng để coi qua mấy dòng cung khai tam đại, cho biết chàng là con cái ông nào. Sau khi bọn lính thể sát đã khám xét qua loa đồ đạc, ông phó chủ khảo liền trả quyển thi của chàng cho người lại phòng để hắn trao lại cho chàng. Rồi ra lệnh bọn lính thể sát bó buộc lều chõng như cũ và đeo giúp chàng vào khỏi cửa trường.
Người lính cầm loa lại tiếp tục gọi các người khác.
Công việc vào trường kỳ này chóng hơn các kỳ trước nhiều lắm. Tên Đào Vân Hạc tuy ở cuối bảng nhưng khi mặt trời lên khỏi ngọn tre thì chàng cũng đã được vào. Đức Chỉnh đóng lều đã xong, anh ta vơ vẩn ở gần cửa trường có ý chờ đón cái người làm thuê cho mình.
Theo chân hắn, Vân Hạc đi vào giữa vi, chàng rất khen hắn khéo tìm được chỗ đóng lều đúng như lời chàng đã dặn lúc nãy, cái chỗ không vắng không đông và lại xa chiếc chòi của quan ngự sử.
(Bị kiểm duyệt bỏ hồi Pháp thuộc. )
Đức Chinh tung tăng cởi bỏ áo lều của Vân Hạc và hăm hở giúp đỡ Vân Hạc tất cả những việc cắm gọng lều, lợp mài lều, kê chõng vào trong lòng lều.
Trống ra đầu bài vừa thúc. Hai người liền cùng sắm sửa giấy bút, hộp mực đi ra nhà bảng.
Chà chà! Coi thấy cái bảng mà sợ? Tử trên đến dưới, từ đầu đến cuối, lỳ tịt những chữ là chữ. Bởi vì kỳ này là văn sách mục, người ta chỉ cốt tìm nhiều câu hỏi ngoắt ngoéo trong các kinh, truyện, tử sử, để coi sức nhớ sách và khiếu làm văn của các học trò mà thôi. Đọc qua một lượt từ chữ "vấn" đến câu "thi vị trần chi, dĩ quan quyết uẩn", Vân Hạc sẽ bảo Đức Chinh:
- Thôi! Cậu cứ cầm hộp mực cho tôi để tôi chép cho!
- Vậy thế tôi không phải chép hay sao?
Vân Hạc ôn tồn:
- Thì một người chép, rồi về lều chúng ta cùng coi, không cần hai người cùng chép cho mất công!
Đức Chinh nghe ra, hắn liền vui lòng đứng làm cái giá nâng chiếc hộp mực để cho Vân Hạc quệt bút lấy mực.
Mắt nhìn lên bảng, tay phải cầm bút, tay trái cầm một tập giấy kê vào sau vai Đức Chinh, Vân Hạc viết lia lịa một hồi, vừa được một tờ toàn là chữ thảo lòi tói. Chàng đưa tờ ấy cho Đức Chinh cầm, để mình lại viết tờ khác Đức Chinh ngó qua liền nói một cách hoảng hốt:
- Chết chửa ông viết tháu quá thế này, tôi không thể nhận ra chữ gì. Tờ sau trở đi, xin ông viết rõ ràng hơn một chút.
Vân Hạc có ý bực mình, nhưng vẫn ngọt ngào:
- Được! Cậu không lo! Chữ gì không biết, lát nữa, tôi sẽ đọc cho!
Rồi chàng lại tiếp tục ngoáy luôn một mạch. Gần đến ba tờ giấy lệnh gấp mười hai dòng mới hết cái đầu đề. Sau khi đã nhẩm lại lượt nữa xem có chỗ nào thiếu sót hay không, Vân Hạc liền cùng Đức Chinh về lều.
Bấy giờ học trò trong vi, phần nhiều mới giáp được một nửa, có người mới chép được một phần ba đầu bài.
Vừa đi, Vân Hạc vừa băn khoăn trong bụng:
- Khổ quá? Cái thằng cha này lại không thuộc mặt chữ thảo. Một quyển văn sách mà cứ phải viết ngang bằng số ngay cho nó tất cả, thì tốn bao nhiêu thì giờ. Thật là mình đã vô cố đeo đá vào lưng.
Tới lều, chàng giở mấy tờ đầu bài coi lại để nhận những cái mẹo vặt bí hiểm của quan trường đã hỏi ở trong các câu. Cái bài văn sách mới nặng làm sao! Tất cả văn cổ, văn kim có tới ba mươi câu hỏi đối nhau, ấy là không kể cái câu đề cương và những câu hỏi lửng ở cuối các đoạn. Nhưng may quá, bấy nhiêu câu hỏi, chàng không bị quên câu nào. Tức thì chàng lấy giấy viết luôn một đoạn mở đầu độ non một trang đưa cho Đức Chinh và dặn:
- Cậu viết hết ba dòng rưỡi, thì chừa lại đó để đi lấy dấu nhật trung.
Đức Chinh ngơ ngác:
- Ông đưa cho tôi cái giấy đầu bài để tôi chép vào quyển chứ!
Vân Hạc mỉm cười:
- Trường qui đã định, riêng kỳ văn sách thì được miễn tả đề mục, nghĩa là đầu quyển cứ việc viết bài, chứ không phải chép đầu bài...
Đức Chinh ra bộ sành sỏi:
- Có chứ? Tôi làm văn sách đã nhiều. Nhưng tưởng chỉ có văn tập thì mới miễn tả đề mục. Té ra văn thi cũng được thế ư?
Rồi hắn hí hoáy giở quyển ra viết. Bấy giờ Vân Hạc mới nghĩ đến bài của mình. Một lát, Đức Chinh trịnh trọng đưa quyển của hắn sang lều Vân Hạc:
- Nhờ ông, coi giùm xem có chữ nào thừa nét, thiếu nét hay không?
Thoạt nhìn ba chữ "đối sĩ văn" ở đầu dòng thứ nhất, Vân Hạc cau mày liệng quyển sang trả Đức Chinh:
- Quên mất? Tôi không dặn cậu, chữ "sĩ" cậu viết đã hỏng mất rồi!
Đức chinh giật mình đánh thót:
- Sao thế hừ ông? Tôi tưởng chữ "sĩ", cái ngang dưới ngắn hơn cái ngang trên là phải.
Vân Hạc bật cười:
- Phải rồi? Nếu cái ngang dưới không ngắn hơn cái ngang trên, thì nó sẽ là chữ "thổ", đâu phải là chữ "sĩ" nữa? Có điều chữ "sĩ" ở đây, chỉ được viết nhỏ bằng nửa chữ khác và phải viết lệch về phía hữu dòng. Bởi vì chữ "sĩ" ở đây, cũng như chữ "thần" trong quyển thi đình, nó là tiếng mình tự xưng mình, có nghĩa là tôi. Sở dĩ trong quyển thi đình, học trò phải xưng bằng "thần" là tại quyển đó viết cho vua xem. Còn quyển thi hương, thì chỉ để các quan trường coi, ít khi phải đệ ngự lãm, cho nên học trò phải xưng là "sĩ". Dù xưng là "sĩ" hay xưng là "thần" cũng vậy, những chữ ấy đều phải viết bé như chữ xong cước. Nếu viết lớn ra, tức là phạm trường quy đó!
Đức Chinh ngơ ngẩn:
- Vậy thì bao nhiều chữ "sĩ" trong quyển này đều phải viết nhỏ cả chứ?
Vân Hạc nghĩ thầm: "Thật là cái tội!....Có lẽ nó là tiền oan nghiệp chướng, hiện vào để báo oán mình đây chăng". Rồi chàng rẽ rành cắt nghĩa:
- Không. Các chữ "sĩ" khác không chỉ vào mình, thì đều viết lớn như thường, chỉ chữ "sĩ" nào mình tự xưng mình mới phải viết nhỏ. Nội quyển văn sách, có ba chữ "sĩ" dùng về nghĩa ấy. Một là chữ "sĩ" trong câu "đối sĩ văn" ở ngay đầu bài. Hai là chữ "sĩ" trong câu "sĩ giả hạnh phùng thịnh thế, tòng sự văn trường, quảng kiến như tư, vị tri thị phủ, nguyên chấp sự kỳ trạch dĩ văn" ở đoạn cuối bài. Ba là chữ "sĩ" trong câu "sĩ cẩn đôi" ở chót bài. Mấy chữ "sĩ" ấy đều có nghĩa là tôi cả. Câu thứ nhất là "Thưa tôi nghe", câu thứ hai là "tôi nay may gặp thời thịnh, theo việc trường văn, thấy đẹp như vậy không biết có phải hay không, xin các quan lựa chọn mà tâu lên cho", câu thứ ba là "tôi cẩn thận thưa". Vì thế, chữ "sĩ" đó mới phải viết bé.
Đức Chinh luống cuống:
- Bây giờ tôi trót viết lớn mất rồi, thì làm thế nào?
- Thì phải đi cánh quyển vậy, chứ còn có cách gì nữa?
Đức Chinh lật đật lấy giấy đóng quyển, đề tên và viết mấy dòng cung khai tam đại, rồi hắn sẽ dặn Vân Hạc:
- Nhờ ông trông lều hộ tôi, để tôi đến nhà Thập đạo!
Vân Hạc có ý hơi cáu:
- Được! Cậu cứ đi. Ai dỡ mất lều mà sợ?
Rồi chàng hì hục quay vào nghĩ bài của mình.
Lần này cẩn thận hơn mấy lần trước, nghĩ đến đâu, chàng giáp ra giấy đến đấy, chứ không viết luôn vào quyển. Khi chàng đã giáp được hơn hai tờ, nghĩa là giải hết một câu đề cương và trả lời xong mấy câu hỏi về Nghiêu, Thuần, Võ, Thang, đã cặm cụi viết xong mấy dòng đầu quyển, Đức Chinh cũng chưa về.
Trống nhật trung vừa nổi ở nhà Thập đạo, mặt trời đã lên khá cao, chàng không kịp đợi Đức Chinh, phải bỏ lều đó mà đi lấy dấu.
Ngoài rào của nhà Thập đạo, học trò loáng thoáng có một vài người. Đức Chinh với bộ mặt tái xanh vẫn rau ráu đứng đợi đó, vì người lại phòng chưa trao trả quyển. Vân Hạc vừa trao quyển qua rào cho một người lính áo nẹp, thì cậu công tử ấy lật đật đến bên cạnh chàng, nhờ chàng giục bọn lính kia lấy quyển cho mình.
Vân Hạc mỉm cười chế giễu:
- Cậu còn không giục được họ, nữa tôi...! Thôi không phải giục. Giục cũng không được. Cậu cứ chịu khó đứng đấy, lát nữa, tự nhiên họ khắc đưa ra.
Bên rào vi giáp chợt có tiếng gọi thật lớn:
- Thằng Hạc đã ra đấy à?
Vân Hạc thoáng nghe tên mình, vội ngẩng đầu lên. Bùi Đốc Cung đương đứng chống tay vào bức rào bên kia với một đáng điệu tươi như con rót và tiếp:
- Mày đi lấy dấu nhật trung hay đi cánh quyển?
Vân Hạc trả lời một cách tự đắc:
- Từ ngày đi thi đến giờ, mày thấy tao phải cánh quyển lần nào?
Đốc Cung lại hỏi:
- Đầu bài kỳ này khá nặng đấy nhỉ? Mày nhớ cả hay có bị quên câu nào?
Vân Hạc chưa kịp trả lời, trên chòi bỗng có một hồi trọ trẹ. Hai chàng biết là quan ngự ra oai, ai nấy đều phải ngậm miệng nín thít.
Người lính áo nẹp ở nhà Thập đạo chạy ra cạnh rào với một quyển thi trong tay:
- Ai là Trần Đức Chinh?
Đức Chinh luống cuống trả lời:
- Thưa tôi.
- Sao ông cánh quyển sớm thế? Từ giở đến tối phỏng chừng phải "cánh" độ mấy quyển nữa hử ông?
Vừa nói, người ấy chìa cái quyển lên đầu bức rào và nhìn Đức Chinh bằng hai con mắt châm chọc. Đức Chinh làm thinh không đáp, chàng đón lấy quyển bỏ ống và vui vẻ với Vân Hạc:
- Ông hãy đứng đợi ở đây, tôi xin về trước.
Vân Hạc lễ phép cúi đầu:
- Vâng! Cậu cứ về trước mà viết, để đi lấy dấu nhật trung. Nhưng cậu nên viết cẩn thận một chút, kẻo lại sai lầm, phải đi cánh quyển lần nữa thời mất thì giờ lắm đấy.
Với một tiếng dạ sẽ sàng và rất cung kính, Đức Chinh cung cúc lủi ra. Học trò kéo đến lấy dấu nhật trung mỗi phút mỗi dông. Vân Hạc chở một lúc nữa mới nhận được quyển của người lại phòng đưa ra.
Chàng về đến lều, Đức Chinh vẫn đương ngong ngóng ngồi đợi. Thấy chàng, cậu ta liền cất cái giọng giật giọng:
- Chữ "thiết" có bao nhiêu nét, ông nhỉ?
Vân Hạc bước vội vào lều và ngồi quay mặt trở ra, nhìn thẳng sang lều Đức Chinh:
- Cậu hỏi chữ "thiết" là gì?
- Thưa ông, chữ "thiết là "trộm". Tôi mới viết đến câu "thiết vị", vì trong bản giáp, ông viết đá thảo, tôi không nhận ra mấy nét, nên còn chờ để hỏi ông. . .
- Hai mươi hai nét tất cả. Nếu viết hai mươi mốt nét thì hỏng.
Đức Chinh ra bộ mừng rỡ:
- May quá, chút nữa thì tôi viết chữ "thiết" đơn.
Vân Hạc xua tay lia lịa:
- Ấy chết! Không được viết đơn, chữ gì cũng vậy. Nếu viết đơn sẽ bị đánh là bạch tự.
Rồi hai người cùng quay trở vào, ai nấy cúi xuống mặt quyển, cắm đầu mà viết. Đức Chinh vừa viết vừa nhẩm bản giáp và đếm từng nét, miệng hắn luôn luôn lầm rầm như bọn thầy bói nhẩm quẻ. Lâu lâu hắn viết được nửa dòng thứ tư, lại sẽ tuôn quyển sang lều Vân Hạc để chàng coi hộ. Lần này, trong mấy dòng không bị sai lầm chỗ nào. Vân Hạc sẽ sàng liệng quyển trả hắn, để hắn đi lấy dấu nhật trung và bảo hắn liệng tờ giấy giáp sang lều mình, để mình giáp thêm cho một đoạn nữa.
Bây giờ học trò đã thưa, cho nên công việc xin dấu nhật trung đã nhẹ, không phải chờ đợi lâu quá như mấy kỳ trước. Vân Hạc giáp cho Đức Chinh vừa được hai trang và viết quyển mình được một trang đầu và nữa trang dưới, đã thấy Đức Chinh trở về với một vẻ mặt sung sướng.
- Gần trưa rồi đấy, cậu phải viết mau tay một chút kẻo bài còn nhiều, đến chiều lại phải vội vàng.
Vừa nói Vân Hạc vừa vò tờ giấy giáp tròn như quả ổi và ném sang lều Đức Chinh.
Nhặt lấy "quả ổi giấy" ấy, Đức Chinh vuốt cho thẳng ra và lẩm bẩm đọc hết từ đầu đến cuối. Rồi hắn làm bộ hay chữ và hỏi Vân Hạc:
- Ồ. Thế hai câu hỏi về Hán Văn Đế và Đường Thái Tôn, ông chê đấy ư?
Vân Hạc biết là hắn hỏi lấy mẽ, kỳ thực chẳng hiểu gì cả, nhưng chàng cũng cắt nghĩa thật thà:
- Phải! Phép làm văn sách, cần phải cãi lại đầu bài, đầu bài hỏi ra giọng chê, thì mình phải khen, đầu bài hỏi ra giọng khen, thì mình phải chê. Ấy là nói về tiểu tiết. Còn về đại thể, thì với cổ nhân bao giờ cũng khen, mà với hậu nhân, bao giờ cũng chê. Vì vậy, các cụ đã có câu rằng:
"Đường, Ngu, Tam đại thì khen, "Hán, Đường trở xuống thì lèn cho đaư . Hán Văn Đế và Đường Thái Tôn đều là hậu nhân, tất nhiên phải lèn cho đau. Nếu không tức là trái mẹo".
Đức Chinh im lặng gục đầu xuống yên, vừa viết vừa dò từng chữ trong bản giấy giáp.
Gần trưa, hắn viết, gần được ba tờ, Vân Hạc lại quăng sang cho một cục giấy nữa. Cũng như lần trước, hắn giở tờ giấy đọc đi đọc lại mấy lần xem có chữ gì nghi ngờ hay không, rồi lại cặm cụi nắn nót từng nét, y như những cậu học trò mới tập viết tô. Một lúc sau, hắn bỗng lên giọng tự phụ:
- Tôi tưởng trong ruột chữ "đăng" phải là chữ "đậư". Làm sao ở trên chữ "khẩu", ông viết, thiếu cái ngang con? Hay là ông lầm?
Vân Hạc đương để tâm trí vào một đoạn văn ngoắt ngoéo thình lình bị câu hỏi ấy đập vào bên tai, làm dây tư tưởng tự nhiên ngừng lại, chàng hơi bực mình :
- Cậu không coi bảng chữ húy người ta yết ở cửa trường từ kỳ đệ nhất hay sao?
Đức Chinh ngay thật trả lời:
- Có? Tôi có coi? Nhưng tôi không thấy nói đến chữ "đăng"?
- Thế thì có họa lúc ấy mắt cậu quáng nắng. Trong dòng kính khuyết nhất bút" ở ngay đầu bảng, chẳng có chữ "đăng" là gì? Nguyên dạng chữ "đăng" vẫn là chữ "đậư ở trong, vì nó thuộc hạng húy nhẹ của nhà vua, nên phải kính khuyết nhất bút. Nghĩa là cung kính mà bỏ sót đi một nét. Nếu viết đủ cả cái ngang, tức là phạm húy. Cậu nghe không?
Đức Chinh ra bộ lo sợ:
- Chết chửa? Thế tôi trót viết cả cái ngang con mất rồi, thì làm thế nào, xóa đi có được hay không?
- Không được. Những chữ húy đều là chữ tên nhà vua. Trọng húy chính là tên vua, khỉnh húy thì là tên những bà vua, mẹ vua, hay là tiên tổ lâu đời của vua. Theo phép, bao nhiều chữ húy đều bị cấm đọc, cấm viết, phải coi như chữ bỏ đi. Bởi thế, dù mình viết rồi lại xóa, cũng là có tội. Vì rằng chính mình đã viết chữ ấy kia mà?
Đức Chinh lại cố hỏi thêm câu nữa:
- Hay là xóa cho mù tịt đi vậy?
Vân Hạc phát gắt:
- Càng không được nữa. Bởi vì trường quy đã bắt những chữ dập xóa, chỉ chấm ba cái vào mặt, để cho người ta có thể nhận rõ nguyên hình của nó. Nếu xóa cho mù tịt đi, tức là "đồ bất thành tự" đấy.
Đức Chinh lại ngồi phắt dậy:
- Thế thì tôi làm thế nào bây giờ? Nếu lại cánh quyển lần nữa, thì viết bao giờ cho xong, không khéo sẽ bị ngoại hàm!
Vân Hạc ra bộ thương hại:
- Vậy thì chữ "đăng" ấy ở tờ thứ mấy?
- Thưa ông ở tờ thứ ba.
- Thế thì sợ gì? Xé mẹ cái tờ giấy ấy mà viết tờ khác.
Đức Chinh hí hửng như mơ mới tỉnh:
- Ừ nhỉ! Cái tờ thứ ba không dính đến dấu giáp phùng, xé đi là rảnh. Thế mà trong lúc bối rối, tôi không nghĩ ra, sao mà ruột gan u mê đến vậy?
Rồi hắn khom lưng làm việc như thường. Lâu lâu hắn ngẩng đầu lên và nói chõ sang lều Vân Hạc:
- Câu này sao ông lại viết chữ "dụng"?
Vân Hạc có ý ngạc nhiên:
- Câu nào hứ cậu?
Đức Chinh ra bộ khiêm tốn:
- Cái câu "Dục Nghiêu Thuẫn kỳ quân dân, Y Quẩn thánh chỉ dụng giã" ấy mà. Tôi nhớ ở sách Mạnh, Từ, thày Mạnh bảo ông Y Doãn là "thánh chi nhậm", không phải là "thánh chi dụng".
Vân Hạc tức quá không nhịn được, chàng cáu:
- Té ra trong lúc đi học cậu không thèm biết chữ húy. Rồi khi tới trường, cậu lại không buồn ngó đến cái bảng chữ húy. Thế mà cậu cũng cắp quyển, đi thi, tôi khen cho cậu là gan.
Ngừng lại một lát, Vân Hạc vừa giở đá lửa đánh lửa hút thuốc vừa tiếp:
- Bởi vì chữ "nhậm" là chữ trọng húy, cho nên kiêng không được dùng, phải lấy chữ "dụng" thay vào. Không phải là tôi quên sách mà viết bậy cho cậu.
Đức Chinh có ý hơi thẹn, liền nói gỡ thẹn:
- Quái lạ? Tôi có coi ở bảng chữ húy, nhưng tôi chỉ thấy chữ miên, chữ hồng, chữ ưng, chữ huê, chữ hao... tất cả chừng bốn, năm chục chữ, không thấy chữ nhậm ở đâu!
Vân Hạc đương tức, nghe câu ấy chàng lại bật cười, suýt nữa bị sặc hơi thuốc, liền nói bằng giọng chế nhạo:
- Phải! Trong bảng, không có chữ "nhậm" thật đấy Chẳng những một mình chữ "nhậm", tất cả những chữ trọng húy như chữ chủng, chữ ánh, chữ đởm, chữ thì, . . . đều không có cả . . .
Đức Chinh không hiểu là câu giễu cợt vội vàng ngắt lời:
- Vậy thì ông biết chữ "nhậm" là chữ trọng húy?
Vân Hạc thở hết khói thuốc và tiếp:
- Thế cậu coi ở trong bảng, có thấy dưới dòng "trọng húy dĩ hạ" có câu "nhất tự tả tòng nhân, hữu tòng nhâm" không?
- Có. Tôi có thấ. Và còn có nhiều chữ "nhất tự" khác như là "nhất tự tả tòng nhật, hữu tòng ương", "nhất tự tả tòng hòa, hữu tòng trọng" nữa.
- Ồ? Thế, bên tá chữ "nhân" bên hữu chữ nhâm" hợp lài chẳng là chữ "nhậm" thì gì? Vừa rồi tôi đã nói rằng: những chữ phạm húy đều bị cấm không được viết, cấm không được đọc. Đó là lệnh của triều đình, ai cũng phải theo, từ quan chí dân, trừ ra những người làm giặc. Và không phải chỉ cấm ở trong quyển thi mà thôi, bất kỳ chỗ nào, từ cuốn sổ mãi hiện đến các sách vở đều phải kiêng hết.
Cái bảng treo ở cửa trường hôm nọ tuy là bảng yết chữ húy, nhưng nếu viết hẳn các chữ húy ra thì ra quan trường đã phạm húy rồi. Vì thế, những chữ khinh húy, người ta mới viết thiếu đi một nét, và những chữ trọng húy thì họ tách ra từng mảnh. Coi đến chỗ đó, mình phải hiểu ngầm trong bụng. Thí dụ thấy viết bên tả chữ nhật, bên hữu chữ ương, thì biết nó là chữ ánh, thấy viết bên tả chữ hòa bên hữu chữ trọng, thì biết là chữ chủng. Một sự dễ dàng như thế, mà sao cậu cũng không hiểu? Thôi từ giờ đến tối, cậu cứ coi vào bản giáp, hễ thấy tôi viết thế nào, thì chép cho đúng thế ấy. Đừng hỏi nữa, làm mất thì giờ của tôi. Trưa rồi, bài còn nhiều lắm, tôi viết không kịp thì nguy cả đấy.
Đức Chinh bấy giờ mới biết xấu hổ, hắn bèn vâng dạ vài câu cho qua, rồi lại quay đầu vào viết.
Mặt trời đã xế. Cơn gió bấc lúc nãy đã tạnh, bây giờ lại nổi ào ào. Khí trời môi lúc mỗi thêm giá ngắt.
Đức Chinh chép hết mấy tờ giấy giáp. Vân Hạc vẫn chưa viết tiếp cho hắn. Đã hai, ba lần, hắn toan thúc giục, vì sợ Vân Hạc gắt gởi, nên lại rụt rè không dám. Chờ một hồi nữa, không thấy Vân Hạc đả động gì đến, hắn bèn đánh bạo gọi hỏi:
- Ông Đào! thưa ông, những tờ giấy trước, tôi đã viết xong rồi ạ!
Vân Hạc đương mải tìm mấy chữ xúc về Trương Tử Phòng để đối với câu trả lời về Gia Cát Lượng mà chàng đã nghĩ được rồi, nghe tiếng Đức Chinh đòi bài chàng liền gạt đi:
- Cậu hãy thong thả lát nữa. Để tôi còn nghĩ.
Đức Chinh khẽ vâng một tiếng. rồi hắn lấy thịt kho, ruốc bông để ăn kèm với bánh giò, cơm nắm.
Nhai chập nhai chuội một hồi, trong bụng đã thấy lưng lửng, Đức Chinh dốc ngược quả bầu nước chè vào miệng; nốc một thôi dài, và giở gỏi thuốc lá cuộn sẵn, lấy ra một điếu,.. rồi hắn hì hục ..đánh lứa vừa châm vừa hút phì phèo . .
Điếu thuốc đã cháy hết già mồt nửa, bài của Vân Hạc vẫn chưa đưa sang. Ruột gan hắn bấy giờ hình như đã nóng hôi hổi. Rình mãi được lúc người lính trên chòi canh ngoảnh mặt sang phía bên kia, hắn liền chạy tọt sang lều Vân Hạc.
Một cái giật mình đánh thót làm cho Vân Hạc ngồi phắt trở dậy:
- Chết nỗi? Ai bảo cậu sang đây làm gì? Lính nó trông thấy thì chết bỏ mẹ cả đôi bây giờ!
Đức Chinh dó dáy sờ vành dây lưng lấy hai nén bạc đặt lên mặt yên của Vân Hạc và núc hai tay làm một.
- Thưa ông, hôm qua tôi đã đưa trước ông Cung hai nén còn hai nén nữa nay xin nộp nốt. Vậy ông viết nốt bài cho.
Thì ra hắn tưởng vì hắn chậm tiền, cho nên Vân Hạc phải hãm bài lại. Thấy cái bộ khúm núm của hắn. Vân Hạc lại càng thương hại và càng nực cười. Bản giấy giáp dở đã được gần một tờ rưỡi, chàng viết nốt hơn một dòng nữa cho xong, rồi trao cho hắn và hỏi:
- Cậu có thuộc phép đài ở đoạn văn kim hay không .
- Thưa ông, tôi có nghe qua, nhưng không nhớ kỹ xin ông chỉ bảo thêm cho.
Vân Hạc liền giở tờ giấy luồn phóng kẻ ô ở trong quyển mình, chàng chỉ tay vào mấy dãy ô đầu quyển và dùng cái giọng thầy đồ giảng cho học trò:
- Cậu trông vào đây! Trong ba hàng ở đầu dòng này. hàng trên cùng tột gọi là hàng du cách, dưới hàng du cách gọi là hàng thứ nhất, dưới hàng thứ nhất gọi là hàng thứ hai, dưới hàng thứ hai thì tức là hàng thứ ba. Trong đoạn văn kim, gặp chữ thiên địa, giao miếu thì viết lên hàng du cách, gặp chữ hoàng đế. hoàng thượng hay là thánh thượng, long nhan... nghĩa là những chữ chỉ vào bản thân nhà vua thì phải viết lên hàng thứ nhất. Nếu gặp những chữ chỉ về đức tính hay công việc của nhà vua thì phải viết vào hàng thứ hai. Còn những chữ thuộc về văn bài thì viết từ hàng thứ ba trở xuống. Cậu nhớ lấy nhé.
Đức Chinh ra bộ ngơ ngác:
- Tôi chưa nghe ra. Thế nào là chữ thuộc về đức tính và công việc của nhà vua, ông nói lại cho!
Vân Hạc kéo tờ giấy giáp trong tay Đức Chinh và trải xuống chõng. rồi chỉ tay vào một dòng ở đoạn văn kim:
- Cậu hãy cắt nghĩa cho tôi đoạn này!
Dực Chinh nhìn qua một lượt rồi rụt rè:
- Tôi không hiểu lắm. ông giảng giùm cho.
Vân Hạc liền đọc:
- "Phụng kim ngã hoàng thượng, thông minh tác tắc khải để vi cường, dĩ kiền kiện di tư, phủ thái hanh chi vận ".
- Mấy câu đó, cũng như câu có nghĩa "sĩ" phải viết nhỏ mà tôi đã nói với cậu sáng ngày, đều là câu sáo trong văn sách kim bất kỳ bài nào cũng có. Nghĩa đen của nó thế này này: "Vâng nay, đức hoàng thượng ta sáng suốt làm phép, vui dễ làm gương lấy tư chất cường kiện của quẻ Kiền, vỗ cái vận hanh thông của quẻ Thái..." có phải thế không? Thế thì những chữ thông minh là sáng suốt, khải đề là vui dễ, Kiền kiện là quẻ Kiền mạnh, đều nói về đức tính của đức hoàng thượng, mà chữ dĩ là lấy, chữ phủ là vỗ thì nói về công việc của ngài, chứ gì? Vậy những chữ này đều phải đài lên hàng thứ hai. Còn hai chữ hoàng thượng thì phải đài lên hàng thứ nhất. Các đoạn dưới này, cậu cứ theo đó mà suy ra. Không đáng đài mà đài, đáng đài mà đài không hợp cách chỉ bị đánh hỏng mà thôi, nếu đáng đài mà không đài, thì còn phải tội nữa đấy!
Đức Chinh gấp tờ giấy giáp bỏ túi rồi trịnh trọng mó tay vào hai nén bạc ở mặt chõng và ngẩng lên nhìn Vân Hạc:
- Thưa ông, gọi là thêm một chẩu chay, xin ông nhận cho.
Vân Hạc mỉm cười cảm ơn và giục Đức Chinh phải về lều mà viết cho mau. kẻo nữa chậm quá. Sau khi Đức Chinh rả khỏi, Vân Hạc cầm hai nén bạc giắt vào dải lưng và bụng bảo dạ: "Trông mặt ra phết công tử. ai ngờ nó lại dốt đến thế. ấy vậy mà chưa biết chừng. Nếu nó tốt phúc mà không được vào phúc hạch, có khi sẽ đỗ tú tài cũng nên. Việc đời thật không thể nào mà đoán trước được..." Rồi chàng lại giở quyển mình ra viết.
Bây giờ công việc đã nhẹ. Bao nhiêu câu hỏi về thánh hiền. vua chúa nước Tầu, chàng đã trả lời xong xuôi cả rồi. Lúc này chỉ còn phải viết mấy câu văn kim nữa thôi. Cái lệ văn sách, văn kim tuy là thứ văn hỏi về công việc hiện thời của nước mình, nhưng thực ra nó chỉ là đoạn văn sáo. Cái sáo ấy chàng đã phải tập từ khi còn để hồng mao. bụng chàng đã thuộc như cháo chan cả rồi. Bây giờ chỉ phải theo giọng câu hỏi mà sửa đổi đi vài chữ, không phải khó nhọc chi hết. Coi lại đầu đề và soát bài văn của mình, chàng thấy từ đầu đến cuối, đoạn nào cũng rất đanh thép, nhất là không bị quên sách chỗ nào. Đắc ý. chàng ung dung giở chiếc điếu cày đánh lửa hút thuốc rồi mới viết nốt.
Mặt trời đã lui xuống dưới bức rào. Trên chòi canh. trống thu quyển đã thúc rộn rịp. Vân Hạc vừa kiểm những chữ xóa sót móc chữa vừa gọi với sang lều Đức Chinh:
- Thế nào? Cậu viết đã gần xong chưa?
Đức Chinh vui vẻ trả lời:
- Tôi chỉ còn độ ba dòng nữa. Ông cũng sắp xong rồi chứ?
- Phải! Tôi còn viết nốt mấy chữ đồ, di, câu, cải nữa là xong.
- Vậy thì ông hãy đợi tôi một lát rồi ta cùng ra.
Hai người lại cùng im lặng.
Trống thu quyển mỗi lúc mỗi mau. Tiếng voi ngựa đi tuần ở ngoài bờ rào lại càng rộn rịp hơn trước.
Trời đã nhá nhem sắp tối. Đám học trò phía nhà Thập đạo loáng thoáng có người dỡ lều. Vân Hạc đương thu xếp giấy bút hộp mực bỏ vào trong yên. Chợt thấy Đức Chinh vô tay vào trán một cái đánh bạch:
- Thôi chết bỏ bố tôi rồi!
Vân Hạc giật mình liền hỏi:
- Cái gì thế cậu?
Thì ra vì trong lúc ruột gan bối rối: các đoạn "sĩ giã hạnh phùng thịnh - thế tòng sĩ văn trường, quản kiến nhu tư vị tri thị phủ hắn đã viết thừa bốn chữ "tòng sự văn trường" và thiếu bốn chữ "quản kiến như tư." Sau khi đã nói qua sự lầm lỡ ấy cho Vân Hạc nghe, Đức Chinh lại hỏi:
- Xóa bốn chữ nọ viết bốn chữ kia vào cạnh có được không?
Vân Hạc ngọt ngào trả lời:
- Thôi đành bỏ tờ ấy đi viết tờ khác Vậy. Chữ xoá và chữa nhiều quá như thế bị mắc tội "thiệp tích" kia đấy. Bởi vì người ta ngỡ mình cố làm như vậy. để đánh dấu cái quyển của mình, chứ có ai cho là mình lầm lỡ.
Rồi chàng chạy tọt sang lều Đức Chinh:
- Đâu cậu viết lầm ở chỗ nào. Đưa đây tôi xem.
Vừa nói, Vân Hạc vừa nghển đầu ngó vào quyển của Đức Chinh. May quá, cái tờ bị hỏng ở ngay trên đầu trang. Đến đó, Đức Chinh mới viết có chừng hơn bốn dòng chữ mà thôi. Chàng giục hắn xé tờ ấy, rồi chàng cầm luôn mảnh giấy giáp và sẽ an ủi:
- Để tôi đọc cho cậu viết. Đừng vội. Trống thu quyển mới hết một hồi. Còn sớm chán. Nếu tối thì ta thắp nến! Hãy còn hai hồi trống nữa kia mà sợ gì?
Đức Chinh khi ấy mới khỏi hồi hộp trống ngực. Hắn liền cẩn thận theo miệng Vân Hạc mà viết.
Ngoài trời tối dần dần, rồi tối hẳn. Vân Hạc bảo Đức Chinh hăy lấy đá lửa đánh lửa châm nến. Và chàng vừa cầm nến soi cho Đức Chinh vừa theo bản giáp đọc cho hắn viết. Chàng cũng sợ hắn rối ruột lại viết lầm nữa, nên chàng cứ phải chăm chú nhìn vào quyển hắn, chờ hắn viết xong chữ này chàng mới đọc tiếp chữ kia. Mỗi khi đọc đến chữ gì có nhiều đồng âm thì chàng lại nói luôn câ nghĩa của chữ ấy cho hắn khỏi lẫn.
Hồi trống thứ hai dồn đạp thúc mau. Đức Chinh viết đến chữ "dĩ" trong câu "nguyện trập sự kỳ trạch dĩ văn" và toan đưa bút viết nữa. Vân Hạc vội vàng nắm lấy tay hắn và nói bằng giọng hoảng hốt:
- Ấy chết chữ "văn" này phải đài lên đệ nhị cách kia đấy!
Đức Chinh sửng sốt:
- Ồ lạ thế! Sao chữ "văn" trong câu "đối sỹ văn" ở đầu quyển lại không phải đài? Nó cũng là "nghe" chứ gì?
Vân Hạc thẽ thọt:
- Phải. Hai chữ "văn" cùng là nghe cả. Nhưng chữ "văn" trên nghĩa là mình nghe. nên không phải đài. Còn chữ "văn" này thì là vua nghe, nếu không đài, ấy là bất kính. Người ta đập vào đầu ấy.
Đức Chinh lè lưỡi:
- Sao mà rắc rối quá vậy.
Sau khi đă nắn nót viết một chữ "văn" bông bêng lên hàng thứ hai, hắn lật các tờ trong quyển, đếm hết những chữ xóa, sót, móc, chữa, để viết vào dưới chữ "cộng quyển nội" Hết tội.
Đức Chinh hì hục dỡ lều buộc chõng và đeo lên vai. Vân Hạc thì bỏ cả chõng lẫn lều. chàng chỉ đèo ra có một cái yên và một cái ống đựng quyển.
Ra nhà Thập đạo nộp quyển xong rồi. Vân Hạc vừa đi vừa hú vía! Vì đã vô cố mà rước lấy nợ vào mình.
Ngô Tất Tố
"Giọt xuân" - tranh của họa sĩ Nguyễn Quốc Dũng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét