"Bến đợi" - Hot girl Hàn Quốc |
Theo sự kinh nghiệm của các cụ nói lại thì nhà cô đào cũng giống như nhà chứa trọ, khoa nào được có ông khách thi đỗ, tức là trong nhà làm ăn phát tài. Và từ khoa sau trở đi, học trò sẽ đua nhau tìm đến nhà mình mà trọ hay hát. Bởi vì người ta cho là cái nhà có lợi cho sự thi cử.
Chương 7
Ánh nắng nhạt của trời tháng chín đã phá tan lớp sương mù bắt đầu in xuống mặt đất. Cánh đồng lúa chín tưng bừng biến thành làn biển sắc vàng. Hơi sương đọng lại ban đêm còn đầm đìa trên lá cây và lóng lánh trên ngọn cỏ.
Chương 7
Ánh nắng nhạt của trời tháng chín đã phá tan lớp sương mù bắt đầu in xuống mặt đất. Cánh đồng lúa chín tưng bừng biến thành làn biển sắc vàng. Hơi sương đọng lại ban đêm còn đầm đìa trên lá cây và lóng lánh trên ngọn cỏ.
Dáng bộ vui vẻ của một người đương được hả dạ, cô Ngọc - bây giờ có thể gọi là cô khóa Hạc - tung tăng đi trên bờ đê với chiếc thúng nhói cắp dưới sườn. Chốc chốc cô lại quay đầu về phía cổng làng để ngó xem chồng ra chưa.
Nhưng mà chàng vẫn chưa ra.
Thủng thẳng bước một, cô dạo tới một gốc cây đa ven đê. Và lật chiếc nón khua sơn nhôi bạc đặt ngửa xuống một đám cỏ, cô để cái thúng lên trên. Rồi vén váy áo cho khỏi lòa xòa, cô ngồi vào một đoạn rễ đa cạnh đó và giở thúng lấy kim chỉ và miếng mụn nhiễu, cô vừa khâu túi vừa đợi chồng.
Sau cái đêm đuốc hoa phòng động, cô về quê chồng lần này là hai.
Bởi vì từ khi xong lễ lại mặt, Vân Hạc đã cho người sang nhà trọ dọn hết sách vở đồ đạc sang nhà ông đô Vân Trình, để cùng cô hưởng cuộn đoàn viên, cho nên cô dù đã đi lấy chồng, nhưng vẫn được ở nhà với cha với mẹ. Vợ chồng ông đồ cũng muốn cho cô trọn đạo làm dâu. Cho nên cách đó ít bữa, ông bà lại bắt Vân Hạc đưa cô về làng Đào Nguyên để thăm bà cống và đi chào các ông chú bà bác trong họ.
Cô ở nhà chồng chỉ có hai đêm một ngày, thì bà cống Đào Nguyên giục cả vợ lẫn chồng phải sang Vân Trình. Là vì năm đó, hương thi có kỳ ân khoa, bà sợ con trai nấn ná ở nhà, hoặc giả lại sao nhãng về việc đèn sách. Chiều ý mẹ Vân Hạc phải đi ngay.
Năm gian nhà khách của ông đồ Vân Trình lúc ấy đã thành ra giang sơn riêng của vợ chồng cô. Với cái giang sơn ấy, đời cô hơn một tháng nay, có thể nói là đây nhưng thi vị. Ngày thì đi chợ bán hàng, tối về cô lại dệt cửi. Buồng cửi của cô đối nhau với buồng học của Vân Hạc. Những lúc đêm khuya nhà vắng, bóng trăng vằng vặc rọi trước thềm, chàng học, cô thì dệt vải, tiếng đọc sách giòn giã xen với những nhịp đều đặn của tiếng ác kêu, khiến cô luôn luôn cảm thấy cái sung sướng êm đềm của đời tuổi trẻ vô tư vô lự.
Nhưng mà chí cô không phải có thế, cô còn muốn được hơn nữa. Bây giờ kỳ thi sắp tới. Chỉ còn cách năm ngày nữa, chàng phải trẩy trường. Vì vậy ông bà đồ bảo chàng và cô phải về Đào Nguyên để sửa lễ thờ. Vân Hạc tuy vẫn không thích việc đó, nhưng vì chiều lòng ông nhạc, bà nhạc, chàng cũng không muốn từ chối.
Sáng nay cô và chàng ăn cơm sớm hơn mọi ngày. Đáng lẽ hai người cùng đi một lúc, nhưng vì vợ chồng mới cưới cô vẫn chưa hết cái tính xấu hổ, sợ rằng đi đôi với chồng lại bị chị em chê cười. Cho nên cô mới dặn chàng đi sau để mình đi trước, ra khỏi cổng làng cô sẽ vừa đi vừa đợi. Dưới bóng rợp mát của cây đa, mắt cô tuy nhìn vào mũi chỉ đường kim, nhưng bụng cô vẫn để cả vào lời người thầy bói mà cô bói trong phiên chợ trước. Người ta vẫn đồn lão thầy bói đó đoán quẻ hay lắm. Hắn bảo tháng này mình có tin mừng, chắt anh chàng ta thế nào cũng đỗ. Vả lại cụ bảng Tiên Kiều, cụ nghè Quỳnh Lâm và nhiều cụ khác đều nói quyệt rằng anh ta phải đỗ kia mà. Nhưng, anh ta đỗ ngay, mình cũng không thích. Vợ chống lấy nhau mới già một tháng, mà chồng đã đỗ, thiên hạ sẽ bảo mình không có công nuôi chồng đi học ngày nào. Ước gì anh ta hỏng vài khoa nữa, rồi sau hãy đỗ để mình nuôi hắn cho thiên hạ biết tay". Nhưng rồi cô lại gạt đi mà rằng: "Sao mình nghĩ dại dột như thế? Gì thì gì, chứ chồng đỗ sớm vẫn có sướng hơn. Thi hương đã vậy, lại còn thi hội. Nếu khi mình đã con bận con mọn, vác đôi vú ộ ệ mà lên ngồi võng vinh qui, có lẽ không thú gì nữa".
Cái túi khâu đã gần xong, vẫn chưa thấy bóng Vân Hạc. Cô toan đứng dậy trở về, thì trong cổng làng một chiếc nón dứa vừa nhô ra dưới bóng nắng. Nhìn cái dáng điệu nhanh nhảu và nhẹ nhàng của người đội nón, cô nhận đích là chồng mình, tức thì cô lại ngồi xuống để khâu cho xong cái túi.
Bóng nắng lan đến gốc đa.
Trận gió hiu hiu thổi qua đồng lúa.
Những bông lúa chín lướt theo chiều gió cồn cộn như một lớp sóng vàng.
Tiếng hát đưa liềm của mấy cô thợ gặt thi nhau lên bổng xuống chìm, réo rắt trong cánh đông bát ngát.
Trước cảnh tượng bao la man mác, cô dừng mũi kim, mơ màng nhìn ra đám chân trời xa xa.
- Làm gì mà thơ thẩn vậy?
Tiếng hỏi thình lình dội vào bên tai, khiến cô giật mình quay lại. Vân Hạc đã sừng sững đứng ở đằng sau với một nụ cười. Chàng tiếp:
- Đợi lâu thế hẳn nóng ruột lắm đấy nhỉ?
Cô cũng mỉm cười và đáp:
- Không nóng ruột. Chỉ tính quay về đấy thôi.
- Trang điểm những gì mà ở nhà bây giờ mới đi?
Vừa nói, cô vừa thu xếp cái thúng, rồi cô uốn vai, vặn mình, uể oải đứng dậy. Vợ chồng liền sánh vai nhau vừa đi vừa nói những chuyện tầm phơ. Con đường tuy xa, nhưng chàng vẫn luôn đi về , cô thì hàng ngày đi chợ đã quen, cho nên ai nấy cũng không thấy mỏi lắm.
Mặt trời gần đến đỉnh đầu, cổng làng Đào Nguyên lù lù hiện ra ở trước mặt. Cô toan lùi lại để chồng vào trước. Nhưng chàng bảo cô cứ việc cùng đi, không phải e lệ gì cả. Hai người mới nhô đầu vào cổng nhà, lũ cháu thi nhau cười reo:
- Ấy , chú tư, thím tư đã về!
Rồi chúng đua nhau lạy chú, lạy thím và chúng xúm xít xung quanh, đứa này nắm tay, đứa kia níu lấy vạt áo của thím. Xoa đầu chúng nó khắp lượt, cô và chàng vui vẻ đi vào trước thềm. Bà cống đang ở trong nhà mừng rỡ bước ra. Cô và chàng cùng cung kính chào. Bà cống tươi cười:
- Ừ các con đã về đấy ư? Đẻ đang cố mong đợi. Nếu như hôm nay chúng bay không về, thì có lẽ ngày mai đẻ phải cho người đi gọi.
Vân Hạc sửng sốt :
- Thưa đẻ có việc gì ạ?
Bà cống vội đáp:
- Không! Có việc gì đâu. Vợ chồng hãy vào trong nhà mà nghỉ. Đi đường lúc nắng có mệt lắm không.
Cô Ngọc lễ phép:
- Thưa đẻ, cũng không nắng lắm. Vì ở trên đường có gió luôn luôn.
Rồi cô nhẹ nhàng lên thềm và sai một đứa cháu lớn đi xuống nhà dưới lấy cho cái đĩa. Sau khi đã giở thúng lấy mấy chiếc bánh cốm bày lên trên đĩa, bưng đến trước chỗ bà cống, mời bà xơi nước, cô đem gói kẹo phân phát cho lũ trẻ con. Mấy người chị dâu nghe tiếng vợ chồng chú tư đã về, ai nấy đon đả chạy lên chào hỏi. Trong nhà vui như ngày tết. Hết một lượt chuyện hàn huyên, Vân Hạc đứng dây tung tăng vừa đi bách bộ trong nhà vừa hỏi mấy người chị dâu:
- Anh cả đi đâu không thấy? Anh hai, anh tú độ này có về nhà không?
Bà cống đón lời:
- Bác cả sang chơi bên Bắc, mới đi sáng nay. Còn anh hai và anh tú thì hơn tháng nay không về đến nhà. Hôm qua hai anh có nhắn về rằng : hễ con có về, thì con cứ việc sửa lễ ra thờ. Từ nay đến hôm trẩy trường, các anh ấy không về nữa. Vì thế, đẻ cứ mong ngóng vợ chồng nhà mày.
- Con cũng đã toan không về. Nhưng vì mẹ con bên kia giục mãi, con cũng chiều lòng, nên phải nghe lời. Lễ mãi, khoa nào cũng lễ, hỏng vẫn hoàn hỏng. Quỷ thần có giúp cho mình đâu, mà mình cứ phải cúng các ông ấy?
Vừa nói Vân Hạc vừa ngồi xuống ghế, vớ lấy cái điếu sai cháu châm lửa hút thuốc. Bà cống ra bộ không ưng lời con, vội gắt:
- Cái thằng ăn nói hay chứ! Làm người thì phải kính trọng quỷ thần. Cúng ngài không phải chỉ cốt để ngài phù hộ. Mày dốt thì mày hỏng, trách gì quỷ thần? Nếu như cúng mà được đỗ, ai còn phải học làm gì.
Co Ngọc tiếp lời mẹ chồng:
- Ấy ở bên kia anh ấy cũng cứ nói bướng như thế. Mẹ con khuyên mãi mới chịu về đấy.
Vân Hạc mỉm cười :
- Thì cứ cúng, tôi có ngăn cản gì đâu. Nhưng thưa đẻ phải để đến ngày mai chứ?
Bà cống rẽ ràng trả lời:
- Gà gạo tao đã mua sẵn cả rồi. Nhưng cũng phải chờ đến sáng mai mới sửa. Việc lễ lạt không nên sửa vào buổi chiều.
Một đứa cháu gái với bộ mặt nhễ nhại mồ hôi, xách một siêu nước từ dưới nhà bếp lên thềm. Cô Ngọc nhanh nhầu chạy ra đón lấy. Rồi cô súc ấm, tráng chén, pha mấy chén nước, đệ đến trước mặt bà cống. Bà cống cầm chồng bánh cốm đưa cho cô va nói:
- Con đem bóc ra, để các bác uống nước cho vui.
Chị tú chạy lại đón lấy chồng bánh và nói:
- Để con bóc cho. Thím nó chưa biết bát đũa để đâu.
Rồi thì chị cầm lấy mấy cái bánh đi xuống nhà dưới. Bà cống vui vẻ bảo chị cả, chị .hai cùng sang bên ấy uống nước với mình. Với mấy chị này, bà chỉ là người nàng hầu của bố chồng, nhưng lúc ấy các bà vợ cả, vợ hai cụ cống đều mất. Bà được là chủ của gia đình. Cái nết hiền tứ đứng đắn của bà, đã làm cho những người dâu con cụ cống đều phải kính trọng yêu mến như một người mẹ. Đối với bà, họ giữ rất đúng lễ phép, thường thường không ai ngồi đôi cùng bà bao giờ. Vì vây, bây giờ bà tuy mới họ, họ vẫn nhất định từ chối:
- Bà mặc chúng con.
Chị tú đã bưng mâm bánh ở nhà dưới lên, rón rén đặt xuống bên cạnh bà cống. Một lần nữa, bà lại giục các chị dâu sang đó ăn bánh. Nể lời bà, chị hai liền đến bưng lấy một đĩa, đem sang dãy phản bên này.
Bà cống lại gọi lũ cháu vào quanh phản mình, rồi bà xắn bánh, xóc cho mỗi đứa một miếng.
Cái tiệc đơn sơ cử hành trong một bầu không khí đầm ấm khiến cho cô Ngọc nô nức mừng thầm về nền phúc đức nhà chồng. Và cô không khỏi băn khoăn cho cảnh vắng vẻ của nhà mình. Xong bữa nước, trời vừa đúng trưa. Chị cả, chị hai, ai đi làm việc nấy. Cô và chị tú cùng xuống bếp nấu cơm.
Mặt trời tà tà, cô vào xin phép bà cống cho mình và mấy đứa cháu nhỏ đi thăm mấy ông chú bác và vài chị em trong họ. Lân la hết nhà này đến nhà khác, khi cô trở về thì trời vừa tối.
Trong nhà hãy còn đầy những khách khứa, bà con trong họ nghe tin Vân Hạc mới về, người ta rủ nhau đến chơi để hói thăm về chuyện thi cử của chàng.
Mặc chồng tiếp khách ở nhà trên, cô xuống nhà dưới, ngồi chuyện văn với mấy người chị dâu. Một lát sau khách khứa về hết. Vân Hạc cũng cùng đi chơi với họ. Bà cống cho gọi cô và mấy người kia lên cả trên nhà. Rồi bà bắt cô thắp đèn, đem truyện phật bà Quan âm kể cho cả nhà cùng nghe. Lâu nay bà vẫn thèm nghe truyện ấy, nhưng mà không có ai kể. Vả lại, bà vẫn nghe nói dâu mình biết chữ, nhưng bà chưa tin, nên muốn thử xem cô có biết chữ thật không.
Thây cô đọc được trôi chảy, đúng vần, dứt mạch, không bị ngắc ngứ chỗ nào, thì bà rất lấy làm mừng.
Chị hai như cũng ngạc nhiên về sự thông thái của em dâu, ngơ ngẩn nét mặt sẽ hỏi :
- Thím đi học được bao nhiêu năm?
Cô bấm đốt rồi đáp:
- Tám năm tất cả. Em đi học từ năm lên sáu. Vì thầy mẹ em hiếm hoi, lúc đẻ em, thầy mẹ em không xâu lỗ tai. Đến năm em lên sáu tuổi thầy mẹ em lại bắt em để hồng mao, mặc quần trắng, giả làm con trai, học chung lớp với học trò trẻ con. Em học lẽo đẽo đến năm đã mười bốn tuổi, phải đi chợ coi hàng cho mẹ em, bấy giờ mới nghỉ.
Chị em tươi cười hỏi tiếp :
- Thế thím đã đọc được những sách gì?
Cô thỏ thẻ trả lời:
- Cũng như những học trò con trai, vỡ lòng em học Tam tự kinh, rồi đến Sơ lọc vấn tân, rồi đến Minh đạo gia huấn, rồi đến ấu học ngũ ngôn thi, rồi đến Hiếu kinh, rồi đến Luận ngữ chính văn. Năm em mười tuổi, thày em mới cho em học kinh Lễ, nhưng chỉ học thiên Khúc lễ, và thiên Nữ tắc mà thôi. Hết hai thiên ấy, mỗi ngày em chỉ được viết một tờ phóng và học mấy bài thơ trong quyển Đường thi. Vì lúc ấy mà đi, ngày nào em cũng phải đánh ống, đánh suốt, tập nghề dệt vải.
Chị cả ra bộ tần ngần:
- Thuở nhỏ tôi cũng đi học như thím, nhưng chỉ học đến quyển Hiếu kinh thì thôi Thế mà bây giờ không nhớ một chữ nào cả. Tôi tối dạ quá.
Đêm đã khuya, bà cống thấy mình hơi mệt. Cuộc kể truyện bị tan giữa lúc nhiều người còn thèm. Chị cả , chị hai, chị tú rục nịch ai vào buồng riêng của người nấy. Những đứa cháu nhỏ chầu chực từ tối đến giờ tranh nhau đòi được ngủ với thím tư. Vân Hạc vẫn chưa về. Bà cống bảo cô đem cả lũ cháu vào trong phòng mình cùng ngủ.
Vừa lạ nhà, lại vừa băn khoăn không biết chồng mình bê tha ở đâu, cô trằn trọc đến hết canh ba mới chợp mắt được một lát. Mấy con gà trống phành phạch vỗ cánh thi nhau gáy ở sau nhà, làm cô giật mình thức giấc. Ngoài sân đã thấy có tiếng nồi xanh lạch cạch và tiếng vo gạo sàn sạt. Những người chị dâu đã dậy làm việc cả rồi. Cố nhiên cô cũng không thể nằm nữa. Sợ động giấc ngủ cua mẹ chồng, cô sẽ rón rén xuống đất và sẽ ngỏ cửa ra sân để cùng các chị bắc chõ thổi xôi, đun nước làm thịt gà.
Bấy giờ Vân Hạc mới về. Cô toan hỏi chồng đi đâu suốt đêm. Nhưng sợ mấy người chị dâu cười mình ghen bóng ghen gió, nên cô lại thôi. Trời rạng đông, tiếng gà giục giã gáy dồn. Bà cống trở dậy và xuống ngồi ở, nhà bếp xem xét công việc.
Sáng rõ. Xôi, gà đều chín. Các thức cơm canh cũng vừa làm xong. Theo lời dặn của bà cống, cơm canh để cúng ở nhà, còn xôi gà thì đem cúng đình và cúng nhà thờ đại tôn. Sau khi hai chõ xôi và hai con gà được đóng làm hai mâm, bà bảo cô Ngọc sắp đủ trầu rượu vào đó và đi lấy hai bông hoa hồng cắm vào hai cái mỏ gà, rồi cho người nhà bưng đi.
Bởi vắng anh cả, Vân Hạc phải chỉnh đốn khăn áo để thắp đèn hương khấn cụ. Rồi chàng đi theo hai mâm xôi gà đi ra đình lễ thánh và vào nhà thờ đại tôn lễ tổ. Bà cống dặn với:
- Con nhớ nói với ông từ, ông trưởng khấn cho anh hai, anh tú nữa đấy.
Vân Hạc tủm tỉm cười nụ:
- Vâng, con đã nhớ. Nhưng không biết. con chỉ lễ đủ phận con hay phải lễ thay cả hai anh ấy?
Bà cống cau mày:
- Đừng nói trẻ con! Việc quỷ thần không phải chuyện đùa.
Vân Hạc im lặng ra cổng. Bà cống cung kính đến trước bàn thờ, rẽ ràng ngồi xuống chiếc sập kê liền hương án, sẽ xổ. nửa vành khăn vấn, hạ xuống ngang với sống mũi, và chìa hai tay nâng vành khăn ấy cho nó khòng khòng ở trước hai mắt, bà vừa lễ vừa khấn ông cống phù hộ các con khoa này thi cử cho may. Một hồi lầm rầm đã dứt mạch bằng ba cái gật đầu trịnh trọng, bà nghiêm. trang quay ra bảo các nàng dâu cùng vào lễ thầy và đi đánh thức lũ trẻ trở dậy, để cho chúng nó lễ ông. Ngoài cổng có tiếng chó sủa. Cả nhà đồng thời ngó ra.
Cụ Năm, chú ruột Vân Hạc, lù lù chống gậy bước vào trong cổng với hai quan tiền vắt vai.
Chị hai tất tả chạy ra trông chó và đón ông chú vào thềm. Bà cống chào hỏi bằng giọng vui vẻ:
- Ông đem tiền đi đâu? Hay định cho cháu đấy chăng? .
Cụ Năm lễ phép trả lời:
- Vâng. Cái nghĩa làm chú thì phải thế chứ.
Rồi cụ đặt hai quan tiền xuống chức án thư giữa đôi tràng kỷ và tiếp:
- Thưa bác, anh tư đi đâu? Bác đã cúng ông cống chưa đấy?
Bà cống đáp :
- Cháu nó ra đình lễ tổ. Tôi khấn ông cháu rồi ạ!
Cụ Năm lật đật đến trước bàn thở và nói :
- Xin vái ông anh vậy thôi, mỏi lắm, không lễ được nữa.
Rồi cụ chắp tay cúi đầu, vái luôn năm cái. Vân Hạc vừa về, chàng mời ông chú sang ngồi ở bên tràng kỷ. Rót một chén nước đệ đến trước mặt cụ Năm, rồi chàng chắp tay đứng hầu bên cạnh. Cụ Năm cầm chén nước lên và hỏi:
- Hôm nào thì anh trẩy trường.
- Thưa chú hai nhăm tháng này!
- Mồng một tháng sau đã phải vào trường, mà đến hai nhăm tháng này mới đi, e rằng chậm quá, anh nên đi sớm thì hơn. Bởi vì tới nơi còn phải đì tìm nhà trọ và phái sắp sửa các đồ cần dùng. Xong rồi cũng phải nghỉ ngơi vài ngày cho tinh thần khoan khoái, thì khi viết văn mới được linh lợi. .
- Thưa chú, đồ đạc cháu đã sắp sẵn ở nhà, còn nhà trọ thì cháu đã có chỗ quen mọi năm,. Không phải tìm nữa. Hai nhăm tháng này đi cũng vừa.
Cụ Năm chỉ tay vào hai quan tiền:
- Nếu được thế thì hay lắm. Đây chú đỡ cho vài quan, đề khi tới trường mà cho ... nhà trò.
Bà cống nói xen:
- Chết nỗi. Sao ông lại nuông cháu quá như vậy!
Cụ Năm vừa cười vừa nói:
- Chẳng nuông cũng đến thế thôi! Ai theo chân mà giữ chúng nó!
Rồi cụ quay sang Vân Hạc :
- Nhưng chơi thì chơi, cũng phải để bụng vào việc thi cử mới được, chớ có lu bù thái quá. Bây giờ chú đã già rồi, nghiệp nhà trông vào các anh: Các anh còn đương niên thiếu lực cường, phải cố nối lấy gia thanh, đứng có lẹt đẹt như chú. Hễ khi tới trường, có gặp anh hai, anh tú, cũng bảo chú dặn như vậy.
Vân Hạc vâng lời, rồi xách cả hai quan tiền đem đặt sang phản bên kia.
Ngoài cổng lại có bóng người thập thò, chị cả vội vàng chạy ra đón tiếp. Bà bác, bà thím , bà cô, một lũ lô nhô tiến vào trong sân. Sau khi đã chào bà cống, cụ Năm và ghé ngồi vào chiếc phản cạnh, mỗi bà mở bọc giở ra một chuỗi tiền đen và bảo Vân Hạc:
- Nghe tin anh sắp trẩy trường, gọi là chúng tôi mỗi người giúp anh một quan để anh thêm tiền đò giang.
Vân Hạc chưa kịp nói sao thì một bọn nữa độ năm sáu người, vừa họ nội, vừa họ ngoại, lũ lượt kéo đến. Cũng như các bà kia, những người này cũng đem tiền đến cho Vân Hạc: người một hai quan, người năm bảy tiền. Vân Hạc cảm ơn khắp lượt rồi chàng vừa cười vừa nói :
- Giả sử mỗi tháng đi thi một lần, thì trong một năm, tôi có thể cưới được một người vợ nữa.
Rồi chàng thu xếp các món tiền đó chồng làm một đống.
Hai người nhà bưng cỗ đì cúng lúc nãy đã đội cỗ trở về, bà cống giục các nàng dâu sắp sửa mâm bát để mời họ mạc uống rượu. Đàn bà con gái hết thảy đều chối là mới ăn cơm xong. Chỉ có đàn ông nhận lời. Chừng nửa buổi bữa rượu mới tan. Họ mạc lẻ tẻ ra về với câu ân cần chúc cho Vân Hạc khoa này nhất cử. Trông thấy chiều trời đã trưa, bà cống liền sai cô Ngọc đem cả số tiền bà con giúp đỡ, lấy mo bó làm hai bó. Rồi bà thúc giục con dâu, con trai phải về Vân Trình vì ngày mai còn phải lễ thờ ở bên ấy nữa.
"Tôm" - tranh của họa sĩ Tề Bạch Thạch |
Chương 8
Đêm ấy không có trăng.
Đêm ấy không có trăng.
Phố phường Hà Nội đã theo cảnh tượng trời đất biến thành một khối đen sì.
Vũ trụ thu lại vùng ánh sáng của mấy cây đình liệu. Gió bấc ào ào thổi. Chín mười ngọn lửa lớn bằng chín mười cái bịch hết thảy điên cuồng lồng phách như muốn lia những bó đuốc nứa nhảy vọt lên từng mịt mù. Quang cảnh trường thi hôm nay rộn ràng hơn mấy hôm trước.
Dưới lớp mái ngói của nhà Thập đạo, mũ áo thấp thoáng hiện trước bóng đèn lồng.
Trong mấy gian chòi canh lơ lửng gác ở lưng trời, trống cái đi đôi với thanh la, chốc chốc lại đưa ra những tiếng oai nghiêm trịnh trọng.
Ngoài dãy phên nứa hùng vĩ như bức tường thành quây kín lấy khu nền tường, đội lính trú phòng rầm rập theo vó ngựa của quan giám trường đề điệu diễu từ mặt nọ đến mặt kia. Tiếng nhong nhong của nhạc ngựa hòa với tiếng dình dình của trống quân, càng giúp cho cuộc tuần phòng thêm vẻ cẩn mật.
Trên nếp cổng tiền, một bức hoành biển nghiêng mình nằm ghếch đầu trên đôi đồng trụ, chiều dài thườn thượt không kém một chiếc thuyền thoi. Sóng biển phủ một bức diềm nhiễu điều, chính giữa kết thành một hoa sen to bằng cái mâm, hai đầu thì hai trái găng lớn như cái thúng lủng lẳng đu ở cạnh cột. Lòng biển, bốn chữ "Tân hưng thịnh điển" song song đứng ngang một hàng, nét vàng lóng lánh trong nền sơn son như muốn cười với ánh lửa của trời tối.
Từ mật tiền qua phía tả đến mặt hậu, cũng như từ mặt hậu qua phía hữu đến mặt tiền, bốn cửa của bốn vi giáp, ất, tả, hữu đều thênh thang.
Những cái khung bảng chứa hàng mấy nghìn tên người đều ngoảnh bộ mặt "dán giấy" ra đường, như đương ngóng các thày sĩ tử.
Mấy chiếc ghế tréo cao chín mười bậc cùng doãi bốn chân và đứng ngất ngưởng ở ngoài các cửa như đương đợi các ông khảo quan.
Trước hai cửa của hai vi tả hữu, cũng như trước hai cửa của hai vi giáp ất, toàn lính thể sát đo nhau đứng chực ngoài cửa với những dáng bộ rất nghiêm trang. Tấm áo nẹp xanh thân đỏ ngọn gàng nấp dưới chiếc nón dấu sơn quang dầu. Những sợi dây tòng của chiếc tay thước khảm chai, bông bênh rủ xuống miếng ban kiên sặc sớ.
Khoảng đầu canh ba, tiếng ồn ào bắt đầu nổi ở nẻo xa xa. Rồi nó dần dần gần lại. Rồi nó dần dần rõ thêm. Rồi nó dần dần đưa đến những đám đèn đuốc lập lòe như đám ma chơi. Học trò các nơi tấp nập kéo đến cửa trường.
Gió bấc thổi càng dữ.
Những cây đình liệu cháy càng nỏ.
Trên miếng đất giá lạnh của trời đông, bóng người chật như đám hội.
Có người tóc đã bạc phơ. Cũng có người hồng mao còn ngất nghểu trong vành khăn nhiễu. Có người không giấu sự nghèo túng, thân hình gầy guộc so sởi trong mảnh áo đơn. Cũng có người như muốn khoe vẻ phong lưu, quanh mình quấn mấy lần áo bông sù sù, hai hàm răng còn run cầm cập. Có người hai vai nặng trĩu khuỷu tay còn đủ sức thích bên kia gạt bên nọ, len từ ngoài tít vào trong cùng. Cũng có người cất cổ không lên, lều chiếu đều bị lôi sểnh xệch ở mặt đất. Vênh cái mặt dương dương tự đắc, đó là người mới thi lần đầu.
Vẻ lo ngại hiện đầy trên bộ trán nhăn nheo ấy là kẻ lảo đảo trường ốc.
Còn nữa, và còn nhiều nữa. tả không thể hết.
Đêm càng khuya, học trò kéo ra càng nhiều. Ai vào vi nào, lật đật tìm đến của vi ấy. Dưới hàng vạn nón chóp lố nhố đứng ở bốn cửa, hàng vạn con người cùng một lối trang sức như nhau: sườn này cái chõng tre và bộ gọng lều; sườn kia, thì bó áo tơi và cuộn áo lều, hoặc một đôi chiếu cói; trên ngực, quả bầu be và chiếc ống quyển; dưới bụng thì cái yên mộc hay cái tráp sơn. Bấy nhiêu đồ vật, nặng có, nhẹ có, lớn có, bé có, dài có, ngắn có, hết thảy xúm lại và đu cả lên cái cổ yếu ớt của các ông thư sinh. Hình như trời cũng bắt tội nhà nho, trước khi bước lên đường công danh, đều phải tập làm việc của bọn phụ trạo.
Kẻ chen vào người đẩy ra, kẻ du lại, người ẩn lại dưới ánh lửa sáng, đám người dồn dập bị xô đẩy cồn cộn như lớp sóng nước triều. Tiếng gọi nhau, tiếng hỏi nhau, tiếng chào nhau, tiếng mắng nhau, tiếng cãi nhau, tiếng rầm rầm nói chuyện với nhau. Các thứ tiếng ấy hợp lại, làm cho bốn khu cửa trường, ầm ầm như bốn cái chợ.
Sang đầu canh tư, các cây đình liệu đều cháy hết già một nửa. Tàn nứa đỏ ối theo ngọn gió bấc tản mác bay khắp vùng trời. Rồi từ từ, nó rơi xuống đám đầu người, xuống quãng đất không. Xuống những nơi ở tít xa xa, nếu nó không bị tắt ở trong bóng tối.
Thình lình trong nhà Thập đạo, kiểng đồng gióng với trống khẩu, dõng dạc đánh luôn ba hồi. Các bóng đèn lồng nhất tề lay động. Các áo thụng lam, các mũ cánh chuồn đồng thời rộn rịp như sân khấu rạp tuồng.
Sau khi bốn ông ngự sử đã đem chức trách đàn hặc lên bốn chòi canh, các ông khảo quan tức thì cắt nhau mỗi người đi mỗi ngả. Cũng như mọi khoa, hai ông phân khảo phải coi hai cửa tả hữu, ông phó chủ khảo được theo chiếc biển "phụng chỉ" ra cửa vi ất. Còn cửa vi giáp thuộc quyền ông chánh chủ khảo và lá cờ "khâm sai" của nhà vua ban.
Dứt mấy tiếng yết hậu của trống khẩu và kiểng đồng, hai hàng đèn lồng bắt đầu ở nhà Thập đạo từ từ tiến ra. Rồi đến một đôi lọng vàng cung kính rước lá cờ khâm sai đi trước. Rồi đến ông chánh chủ khảo và bốn chiếc lọng xanh khúm núm theo sau.
Bộ dạng quan chánh chủ khảo mới oai làm sao?
Cái bối từ hình con công, cái vành đai đột chỉ vàng. cái gấu áo thêu thủy ba. cái xiêm xanh viền chân chỉ hạt bột, và đôi ủng đen có đôi bướm bạc long lanh, bấy nhiêu thứ đó hợp lại với cây hốt ngà cầm ở trước ngực và chiếc mũ gấm xòe hai cánh ra ngoài hai tai, đủ làm cho ngài giống hệt những quan phường chèo nếu ngài có bộ râu dài như họ. Đám rước ra đến cửa vi, người lính cầm cờ khâm sai lễ phép leo lên chiếc ghế tréo và cắm cán cờ vào cái lỗ thủng sau ghế. Quan chánh chủ khảo tạm giữ cây hốt bằng một tay trái để lấy tay phải vịn vào chân ghế tréo. Rón rén bước qua các bực, và trèo lên ghế, ngài sẽ vén cái vạt sau của tấm phẩm phục, rồi ngồi vào giữa mặt ghế. Cây hốt lại được trở lại phía trước mặt ngài với sự nâng niu của hai bàn tay súng sính trong đôi tay áo rộng như cái cống. Cả sáu chiếc lọng lần lượt nhô lên trên ghế. Những cái xanh che quan chủ khảo. Còn những cái vàng thì che lá cờ khâm sai.
Tiếng ồn ào ở khu cửa trường tự nhiên im bặt.
Mấy nghìn con mắt đều đổ dồn vào viên đại thần đứng đầu khảo quan.
Thình lình ở trên lưng trời có tiếng ấm óe:
"Báo oán giả tiên nhập! Báo ân giả thứ nhập? Sĩ tử thứ thứ nhập!" Hồi loa dữ dội như muốn phá tan cái bầu tịch mịch, làm cho mọi người đều phải ngơ ngác. Dứt tiếng gầm hét, người lính đứng cạnh ghế tréo của ông chủ khảo theo miệng một người lại phòng cũng đứng chỗ đó với một cuốn sổ trong tay chìa loa gọi tên một người học trò.
Một tiếng dạ bật lên trong đám đông.
Một chàng thiếu mến, với cái dáng bộ liều chết, cố lách được qua " vòng vây", để đệ các đồ kềnh càng đến khu đất trước ghế tréo của quan chủ khảo.
Toán lính thể sát bắt đầu làm việc.
Họ giở bó áo tơi và cuốn áo lều. Họ nhòm những cái "cái chõng", chân chõng. Họ ghé vào ống đựng quyển và quả bầu be đựng nước. Họ lần dải lưng và vuốt các gấu áo, gấu quần của chàng thiếu niên. Họ cởi tung cả bộ gọng lều. Rồi họ lục soát đến cái tráp sơn của chàng ấy đeo ở trước rốn.
Ngoài một hộp mực, vài cái bút, vài cây sáp, một cái dùi vở, một tập giấy bản và mấy cái bánh giầy, mấy cái bánh giò, một nắm cơm, vài miếng chả trâu, vài miếng thịt rang, trong tráp không có vật gì khả nghi.
Chàng thiếu niên được phép lĩnh quyển của người lại phòng, cẩn thận cuốn lại, bỏ vào chiếc ống quyển đeo ở trước ngực, rồi tung tăng đi vào trong trường với các đồ đạc xúc xích bám quanh vai, quanh cổ. Đến lượt người khác theo tiếng loa gọi tiếng vào.
Bọn lính thể sát lại xúm nhau lại làm các công việc như trước.
Người này cũng không có sách thạch bản hay là văn cũ chữ "kiến" chi hết, nhưng mà các đồ lặt vặt thì không đựng bằng tráp mà đựng bằng yên. Trong cái yên, cũng có giấy, mực, dùi, bút, thịt, chả, cơm, bánh như chàng thiếu niên vừa rồi, và còn hơn một bộ đồ hút thuốc phiện.
Bọn lính thể sát bĩu môi:
- Vào thi vẫn còn đèo bòng cái của tội này, thì lúc nào hút, lúc nào làm văn?
Người ấy ngáp một cái dài và trả lời:
- Có hút, văn mới hay! Nếu không hút thì sao ra văn?
Rồi hắn đón lấy quyển của người lại phòng và lểu đểu đi vào trong trường.
Tên lính cầm loa lại gọi đến tên người khác.
Khám trong lều chõng của người này cũng không thấy thứ gì gian lận, nhưng trong cái yên lại có một chiếc dầm đào cỏ. Bọn lính... thể sát ngạc nhiên và hỏi:
- Sao lại đem cái này vào trường?
Người ấy khẽ đáp:
- Thưa cậu tôi mắc bệnh đi kiết.
Bọn lính không hiểu lại hỏi:
- Đi kiết thì dùng cái đó làm gì?
Người ấy ngập ngừng:
- Thưa cậu, để khi làm văn, lỡ ra bị mót đại tiện, thì đào nền lều mà tương nó xuống, rồi lại vùi đi. Chứ làm thế nào? Trong trường, chỗ nào cũng có lều của học trò, "đi" vào đâu được?
Bọn lính thể sát đã hiểu công dụng của cái dầm, họ liền cho phép người ấy vào trường sau khi hắn đã nhận quyển thi bỏ vào ống quyển.
Người lính cầm loa lại bắc loa gọi:
- Đào Vân Hạc, Sơn Tây, Đào Nguyên!
Vân Hạc đứng ở ngoài xa, tuy có nghe thấy tên mình, nhưng không thể nào mà vào được.
Người lính cầm loa gọi đến ba lần, vẫn không thấy có người thưa, hắn bèn đặt quyển thi của Đào Vân Hạc xuống cạnh chiếc ghế của quan chủ khảo, rồi gọi đến người tiếp theo.
Một người coi bộ rất khỏe, dạ một tiếng lớn, rồi cố xô đẩy những người chung quanh, hùng dũng đeo lều chiếu vào tận cửa trường.
Bọn lính thể sát xúm lại lục đồ đạc.
Các vật cần dùng của người này, không khác của mấy người trước. Riêng có thứ đồ đựng nước, không phải là quả bầu be, mà là một cái lọ sành rộng miệng.
Ngạc nhiên, một người trong bọn liền thò cái que khoắng vào trong lọ, tức thì ở dưới lọ, có vật tròn tròn bềnh lên mặt nước. Cái gì thế nhỉ? người lính đó nghiêng cái miệng lọ và móc lấy vật ấy ra. Té ra một mớ giấy bản viết chữ nhỏ như con kiến, người ta vo lại và trát sáp ong ở ngoài cho khỏi thấm nước.
Của phi pháp liền bị tịch thu. Và cái tội "mang sách vào trường" liền tống ông học trò ấy ra khỏi cuộc thi cử.
Tên người khác được nhắc đến trong miệng loa.
Và, sau một tiếng dạ gọn gàng, một người đứng tuổi tiến đến trước mặt bọn lính thể sát với một dáng bộ lo sợ. Thấy người này có vẻ đáng ngờ, bọn lính thể sát càng lục kỹ các thứ đồ đạc. Nhưng không bắt được cái gì gian lận, họ đã toan tính cho đi. Thình lình một người trong bọn họ trông thấy phía trong một cái "cái chõng" có một miếng vá, hắn bèn dùng con dao nhọn cậy tung miếng vá ấy ra. Thì ra trong đó có để hai cuốn "Hành văn bảo kíp" -thứ sách thạch bản, chữ in nhỏ bằng hột cám- Cũng như cái ông vừa rồi, người ấy liền bị trói lại để giải ra dinh tổng đốc với tất cả đồ vật của mình.
Người lại phòng, người lính cầm loa và bọn lính kiểm soát lại cứ tiếp tục ai làm việc nấy như thường.
Chừng nửa canh năm, sương mù tỏa khắp bầu trời, ngọn lừa ở các cây đình liệu đã lui xuống gần mặt đất ánh sáng đã hiện ra sắc úa vàng.
Đám người và đám lều chõng ở ngoài đã chuyển hết ba phần tư vào trường, khu đất của trường chỉ còn lơ thơ vài trăm học trò. Tiếng ồn ào dần dần nhỏ bớt.
Mặt trời mọc. Các cây đình liệu cũng vừa cháy hết. Vũ trụ đã khôi phục cảnh tượng xinh đẹp và mông mênh của ban ngày.
Mấy nghìn học trò của vi giáp đã được vào trường gần hết. Bấy giờ người ta mới lại gọi đến những người lúc nãy đã gọi một lần mà chưa thấy vào.
Quyển của Vân Hạc bị đặt ở dưới cuối cùng, cho nên tên chàng phải gọi sau rốt.
Sau khi chàng vào khỏi cửa, cánh cửa vi giáp liền bị khóa lại. Quan trường và tất cả các người tùy phái đều theo cửa chính vào nhà thập đạo. Lúc ấy tất cả học trò vi giáp đóng lều đã xong.
Những chỗ gần nhà Thập dạo đã bị những người vào trước chiếm hết. Chàng toan đem lều ra đóng ở phía ngoài cùng. Nhưng khổ quá, cái khu đất ấy, lúc nãy còn là một cõi biên thùy bỏ hoang, các ông vào trước đem bã văn chương tuôn cả ra đó, mùi theo ngọn gió đưa ra ngạt ngào, không thể nào mà chịu cho nổi. Chàng lại lếch thếch vác lều chõng đi lùng khắp các miếng đất phía trong.
Trong một cái lều ở gần vi hữu bỗng có tiếng gọi:
- Đào Vân Hạc? Anh tìm ai mà lật đật thế.
Nghe rõ tiếng Nguyễn Khắc Mẫn, chàng đáp:
- Tôi đi kiếm một chỗ đóng lều, chứ không tìm ai!
Khắc Mẫn nói lớn:
- Đến đây! Chỗ này còn rộng! Mau lên!
Vân Hạc mừng quá, chàng vội đeo các đồ đạc lại chỗ gần lều Khắc Mẫn. Nhanh nhảu, Khắc Mẫn đỡ bộ lều chõng trên vai Vân Hạc xuống đất. Cởi hết mấy nuộc dây chằng, thày lấy sáu chiếc gọng lều cắm làm hai hàng, để cho Vân Hạc vít những đầu gọng sâu vào các ống ròng rọc. Rồi một người trả; áo lều lợp lên, một người đem đôi áo tơi che kín hai đầu. Bốn phía góc lều đã được Khắc Mẫn đóng bốn cái cọc nho nhỏ và neo bốn chiếc gọng lều vào đó, cho khi có gió, lều khỏi lay chuyển. Vân Hạc liền đem cái chõng kê vào trong lều, rồi chàng sang lều Khắc Mẫn, giở bộ đá lửa đánh lửa hút thuốc.
Chiếc lều bên cạnh, bỗng thấy có khói bốc nghi ngút. Vân Hạc tưởng là bị cháy, vội chạy ra coi. Nhưng không phải. Người ta đốt vàng. Ông chủ lều ấy sợ có oan hồn theo vào trường thi báo oán, nên phải dùng thứ lễ ấy tiễn họ. Chàng mỉm cười và quay vào lều của mình.
Một hồi trống cái từ trên chòi canh giật giọng đưa xuống. Trong vi tức thì hiện ra cảnh tượng nhốn nháo.
Khắc Mẫn nói với sang lều Vân Hạc:
- Có phải trống "ra đầu bài" đó không?
Vân Hạc gật đầu:
- Chớ còn trống gì bây giờ?
Rồi chàng mở tráp lấy bút vạ hộp mực đem đến cái nhà lợp cót ở gần nhà Thập đạo.
Hai chiếc lọng xanh và đôi mã tấu sáng quắc vừa rước quan giám trường đề điệu ở nhà Thập đạo đi xuống. Như hai dòng nước chảy sau chiếc thuyền chạy mạnh, đám học trò đương đứng lật đật rẽ sang hai bên để cho mặt đất hở ra một con đường rộng. Bằng dáng điệu hùng dũng, ông đề điệu đi thắng đến trước cái nhà lợp cót trao tờ giấy yết đầu bài cho người lại phòng dán lên khung bảng, rồi ngài dõng dạc quay ra và lại lên nhà Thập đạo để đi coi sóc việc trường.
Hàng nghìn học trò trong vi nhất tề xúm lại trước bảng, kẻ đọc người viết.
Khoa này mới đổi phép thi, kỳ đệ nhất thi bằng kinh nghĩa. Hai bài truyện là:
Luận ngữ: Tắc hà dĩ tai?
Mạnh Tử: Vị thiên hạ đắc nhân.
Năm bài kinh thi:
Kinh dịch: Bạt mao dĩ kỳ vựng chình cát.
Kinh thư: Dụng nhứ tác chân tiếp.
Kinh thi: Nam sơn hữu đài.
Kinh lễ: Tuyển hiền dữ năng.
Kinh Xuân thu: Cập Tề nhân minh vu U.
Vân Hạc không chép, chàng chỉ nhẩm qua một lượt rồi trở về lều. Học trò ở trước nhà bảng dần dần tản mác, ai nấy trở lại, chỗ ở của mình với cái dáng bộ lo ngại nhiều hơn vui vẻ.
Trên chiếc chòi canh ở góc vi giáp, quan ngự sử giơ chiếc tay áo lùng thùng chỉ xuống dưới vi đưa ra một hồi cho che không rõ là những tiếng gì. Tức thì người anh áo nẹp kề loa vào miệng và thét:
- Bớ truyền sĩ tử? Ai ở lều nấy, không được nhốn nháo chạy đi chạy lại.
Nhưng mà trong vi vẫn cứ nhốn nháo như thường.
Giây lát học trò vào hết các lều. Bấy giờ cả trường đều im phăng phắc. Vân Hạc lúi húi chép các đầu bài vào một mảnh giấy. Rồi chàng bó gối ngồi nghĩ không biết nên làm tất cả bảy bài hay chỉ nên làm hai bài. Bởi vì theo phép, kỳ kinh nghĩa tuy những bảy cái đầu đề, nhưng chỉ những người kiêm trị mới làm tất cả còn ai chuyên kinh thì chỉ làm hai bài: một bài truyện và một bài kinh trong bảy bài đó, muốn làm bài nào cũng được.
Với học trò, chuyên kinh là lối phổ thông, còn kiêm trị thì là một sự đặc biệt. Người nào đại tài, viết hai bài vẫn còn thừa sức, thì họ viết cả bảy bài cho oai, người nào viết văn tuy nhanh, nhưng lời văn không được xuất sắc nếu làm hai bài sợ không đủ phê, thì họ cũng viết bảy bài để trông vào sự rộng rãi của ngòi bút quan trường, là vì những quyển kiêm trị, bao giờ cũng được chấm nới hơn những quyển chuyên kinh một chút. Vân Hạc mọi ngày vẫn chuyên kinh Thi và một hai khi có làm kinh Dịch, hôm nay vì thấy mấy bài ở các kinh kia cũng không khó lắm, ý chàng cũng muốn làm cả.
Nhưng lại sợ không đủ thời giờ, nên chàng vẫn còn đắn đo. Khắc Mẫn thình lình gọi chàng và hỏi:
- Này anh Hạc? Đầu đề khoa này ra khéo đấy nhỉ. Có phải trong bảy bài đó, trừ bài Xuân thu, sáu bài kia đều có ý nghĩa về việc "dụng nhân" cả không?
Vân Hạc ngồi ở lều mình nói sang:
- Phải rồi! Tôi cũng nhận thấy như thế. ừ thì đình nào đám ấy, có thế mới hợp với cảnh thi cử.
- Trong hai bài truyện, anh làm bài nào? .
- Tôi vẫn chưa định.
- Có tài như anh thì nên làm bài Luận ngữ cho tỏ ra văn đàn anh, chứ tôi thì tôi xin lạy cả nón. Với tôi, bốn chữ "Tắc hà dĩ tai" khó quá đi mất? Viết sao cho được rõ nghĩa chữ "Tắc" chữ "Tai"!
- Nó cũng chưa khó bằng bài kinh Thi. Tôi tính kinh nghĩa mà đến "Nam sơn hữu đài" thì ác vô hạn.
- Thế thì bài kinh anh làm kinh Thi hay kinh Dịch?
- Có lẽ tôi sẽ làm cả.
Khắc Mẫn ra vẻ ngạc nhiên:
- Ái chà! Lại kiêm trị à? Anh định cướp lấy thủ khoa sao đây?
Vân Hạc vừa cười vừa đáp:
- Thủ khoa hay không chưa biết, nhưng kỳ này tôi quyết phải lấy bốn chữ "ưu". Còn anh, anh làm bài nào?
Khắc Mẫn nói giọng chua chát:
- Cố nhiên là bài "Tuyển hiền dữ năng", chứ bài nào nữa. Xưa nay tôi vẫn chịu nước văn đàn em, chỉ làm kinh Lễ mà thôi, không dám đụng đến kinh Thi, kinh Dịch như anh. Nhưng theo ý tôi, xấu đều hơn tốt lỏi. Anh quyết phải lấy bốn "ưu", tôi chỉ cần bốn cái "thứ muỗi" là được. Vậy mà chưa chắc. . . chưa chắc thằng bốn "ưu" đỗ hay là thằng bốn "thứ muỗi" sẽ đỗ.
Vân Hạc vội vàng nói lảng đằng khác:
- Thôi đừng nói lắm, viết đi. Kẻo mà đến chiều không xong, trống cái nó thúc vào đít, lại sắp viết liều viết lĩnh.
Ngoài trường, tiếng trống cà rùng mỗi lúc môi mau, nhạc ngựa rộn rịp đưa lại. Trên chòi canh cửa vi tả bỗng có tiếng ấm óe làm cho hai người đều im câu chuyện để lắng tai nghe. Thì ra bên ấy có người học trò vơ vẩn đứng ngoài lều, bị quan ngự sử trông thấy. ngài truyền cho lính ra lệnh dọa nạt.
Tan cuộc ồn ào, Vân Hạc bắt đầu làm bài. Cũng như lúc tập văn ở nhà, chàng không phải giáp, nghĩ đến đâu viết luôn vào quyển đến đấy.
Mặt trời lên khỏi đầu bức phên nứa ở phía đông trường, chàng vừa viết xong hai câu phá thừa của bài truyện, trên chiếc chòi canh của vi giáp, vừa có trống báo hiệu "nhật trung". Chờ cho mực ráo, chàng sẽ cuộn quyển văn lại, bỏ vào ống quyển, rồi bảo Khắc Mẫn:
- Đi ra lấy dấu nhật trung chứ anh.
Khắc Mẫn trả lời bằng giọng luống cuống:
- Anh đi trước! Tôi chưa viết được chữ nào cả.
Chàng nói an ủi:
- Được! Còn sớm chán! Anh cứ thong thả. Đừng vội. Hễ vội thì viết hay lầm.
Rồi chàng thu xếp bút mực vào yên và đeo ống quyển đến nhà Thập Đạo.
Cạnh bức rào nứa cao đến khỏi rốn, bọn lính phục dịch tấp nập đi lại. Trên chiếc chiếu đàn cạp xanh, mấy người lại phòng to vo ngồi cạnh hòm ấn và cái hộp son.
Học trò chưa có ai tới, chàng là người thứ nhất trong cuộc "lấy dấu nhật trung". Nhờ vậy, chàng không phải mất công chờ đợi. Sau khi quyển văn đã đưa qua bức rào nứa,trao tay cho một người lính để hắn đem vào cho người lại phòng giữ ấn, tức thì người lại phòng ấy đóng cái dấu đỏ vào cuối dòng chữ viết dở ở giữa trang đầu và lại đưa luôn trả chàng.
Với chiếc ống quyển lủng lẳng dưới cổ, chàng về gần đến lều mình, mới gặp một vài người trở ra. Vào lều chàng lại bình tĩnh viết tiếp từ đoạn khai giảng trở xuống.
Gần trưa, chàng đã viết xong một bài Luận ngữ, một bài kinh Thi và gần hết bài kinh Dịch, Khắc Mẫn vẫn còn lúng túng trong lều,không thấy nói năng gì cả.
Chàng giục:
- Trưa rồi, anh không ra lấy dấu "nhật trung", chốc nữa đông người lại phải chầu chực mất thì giờ.
- Tôi mới viết được hơn một dòng, cứ đem lấy dấu có được không?
- Không được. Phải viết đủ hai dòng rưỡi, hay kém vài chữ. Chứ viết ít quá lại phòng họ không đóng dấu.
Khắc Mẫn lại hỏi:
- Trong quyển đã có dấu "giáp phùng" đóng ở giữa khe trang trên trang dưới, còn dùng gì đến dấu "nhật trung" mà người ta bắt chúng mình mất công mất việc về nó?
Chàng cười và đáp:
- Anh không hiểu à? Cái dấu "giáp phùng" cốt để giữ cho kẻ gian khỏi tháo những tờ từ trang thứ hai trở xuống, mà thay các tờ khác vào. Còn dấu "nhật trung" là để chứng rằng quyển đó viết ở trong trường, không phải là viết sẵn ở ngoài đưa vào. Bởi thế người ta mới bắt chúng mình viết dở thì đem quyển đi để lấy dấu ấy? Nhưng thôi, anh viết đi, đừng nói chuyện nữa...
Khắc Mẫn lại gục xuống tráp, cẩn thận. đếm từng nét và nắn từng chữ. Chừng nửa giờ sau, viết được nốt một dòng nữa, chàng mới cuống quít bỏ quyển vào ống rồi đi.
Vân Hạc viết xong bài kinh Dịch và hai vế trung cổ của bài Mạnh Tử, mới thấy Khắc Mẫn tất tả chạy về với bộ mặt đỏ gay. Thày thở và nói vào lều Vân Hạc:
- Khổ quá? Chờ đợi từ bấy đến giờ, mới xin được một tí son. Anh viết đến bài nào rồi?
Vân Hạc đáp:
- Tôi đã viết đến bài thứ ba.
Khắc Mẫn luống cuống:
- Chết chửa! Anh viết được ba bài rồi! Tôi mới viết được có vài dòng.
Vân Hạc ngửa nhìn lên trời và an úi:
- Bây giờ mới gần trưa thôi! Anh cứ vững dạ, không nên bối rối.
Hai người cùng im. lâu lâu một lúc, Khắc Mẫn lại gọi Vân Hạc và hỏi:
- Này anh Hạc? Chỗ dấu giáp phùng cũng phải bỏ trống đấy nhỉ?
Vân Hạc vừa viết vừa trả lời:
- Dấu nhật trung mới phải bỏ trống, dấu giáp phùng thì viết đè lên.
Khắc Mẫn vỗ tay xuống chõng một cái đánh đốp:
- Thôi chết. Thế thì bỏ mẹ tôi rồi?
Vân Hạc ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao?
- Tôi bỏ trống chỗ dấu giáp phùng không viết. Bấy giờ viết đè lên cái dấu ấy rồi xóa những chữ dưới đi, có được không?
- Ồ? Thế ra anh không thuộc trường qui à! Chung quanh dấu giáp phùng cũng như chung quanh dấu nhật trung và các hàng đầu hàng vĩ, không được đồ (xóa) di (sót) câu (móc), cải (chữa), một chữ nào. Nếu ai đồ, di, câu, cải vào những chỗ đó, tức là thiệp tích.
Khắc Mẫn vò đầu vò tai:
- Vậy thì bây giờ tôi làm thế nào? Trời ơi?
Rồi thày lại hỏi:
- Họ cấm đồ di câu cải vào những chỗ đó làm gì cho khổ người ta thế này!
Vân Hạc cắt nghĩa:
- Ấy, là người ta giữ gian. Vì sợ có kẻ thông với quan trường, có ý đồ di câu cải vào những chỗ đó để đánh dấu cho quan trường biết quyển của mình. Nhưng cái đó cũng là nghĩ quẩn. Thực ra, nếu có người nào thông với quan trường, thì họ đánh dấu vào đâu chẳng được, cứ gì phải mấy chỗ đó. Thôi anh mau mau đề một quyển khác rồi đi cánh quyển đi vậy!
Khắc Mẫn bấy giờ ruột gan rối như canh hẹ. Thày mở tráp lấy tập giấy lệnh, gấp vội vàng độ hơn mười tờ và dọc giấy xe hai sợi lề thật chắc. Sau khi đã cầm nghiêng dỗ xuống mặt tráp cho tập giấy ấy khỏi so le, thày đem tờ phóng đặt lên mặt nó để làm mẫu dùi bốn lỗ lề. Vân Hạc lại nhắc:
- Anh nhớ đóng quyển cho đúng phép nhé? Bề ngang chia làm sáu dòng, chừa một dòng làm gáy. Bề dọc chia làm năm quãng, ba quãng đầu, cuối và giữa cũng phải dài bằng hai quãng xâu lề.
Khắc Mẫn hốt hoảng:
- Chút nữa anh không nói thì tôi chia bề ngang ra làm bảy dòng.
- Không được, phải gập sáu, chừa một dòng làm gáy còn năm dòng, khi viết lại chia làm sáu. Thế mới dúng phép.
Khắc Mẫn đóng xong, tháo lấy tờ mặt quyển cũ, niên canh, quán chỉ và dòng "cung khai tam dại" cho khỏi lầm. Rồi chàng bỏ vào ống quyển lại đến nhà Thập đạo xin dấu giáp phùng. Bấy giờ, chung quanh bức rào của nhà Thập đạo, học trò kéo đến đã đông, phần nhiều xin dấu nhật trung, nhưng cũng có năm bảy người đem quyển xin "cánh". Khắc Mẫn phải đợi độ hơn nửa giờ, cái quyển của thày đưa vào mới được đưa ra. Lật đật, thày đem về lều, viết cái đầu đề bài truyện và đoạn phá thừa của bài ấy, rồi lại đem quyển đến nhà Thập đạo lần lữa để lấy dấu nhật trung.
Vân Hạc đã viết đến đoạn kết tỵ của bài kinh Lễ.
Theo thứ tự trong quyển của chàng, thì nó là bài thứ năm. Vì sờ Khắc Mẫn rối ruột, chàng phải nói là mới viết đến bài thứ tư.
Mặt trời tà tà, Khắc Mẫn viết gần xong bài Mạnh Tử, vừa hết trang dưới của tờ thứ hai trong quyển. Thế là hai tờ dính đến dấu son, thày viết qua rồi. Từ đấy trở xuống, nếu có lầm lỡ, xóa bỏ, cứ việc xé tờ này đi, thêm tờ khác vào không phải đi cánh quyển nữa. Kiểm điểm một lượt, thấy trong những trang đã viết, không có chỗ nào phạm trường qui thày mừng rỡ bảo với Vân Hạc:
- Thoát nạn rồi? Tao đã viết qua hai tờ thứ nhất và thứ nhì rồi, mày ạ?
Vân Hạc vui vẻ:
- Khá lắm. Tôi cũng đỡ lo cho anh. Nhưng anh cũng phải nhanh lên. Sắp tối rồi đấy.
Khắc Mẫn viết nốt câu đóng của bài truyện, rồi vớ lấy chiếc điếu cày đặt mồi thuốc lào vào đó, thày vừa giở hộp đá lửa, đánh lửa hút thuốc, vừa nghĩ bài kinh.
Bấy giờ trong bụng đã thấy đói như cào, thày hỏi Vân Hạc:
- Anh đã ăn uống gì chưa?
Vân Hạc trả lời:
- Đã! Từ nãy đến giờ, tôi vẫn vừa viết vừa ăn. Nhịn ăn mà viết thì chịu sao được Khắc Mẫn nói thêm:
- Tôi vội quá, chưa kịp ăn uống gì cả.
Rồi thày mở tráp lấy những cơm nắm bánh giò, thịt rang, chả trâu, phùng mồm, trợn mắt vừa nhai vừa nuốt chập chuội. Sau khi đã ngửa cổ dốc quả bầu be vào miệng, và súc òng ọc mấy cái, thày lại cắm đầu giáp mấy câu mở của bài thứ hai.
Mặt trời lui xuống đầu bức phên nứa phía tây.
Khắc Mẫn mới giáp đến đoạn trung cổ của bài kinh.
Trên chòi canh thình lình điểm một tiếng trống.
Trong trường loáng thoáng có người dỡ lều.
Vân Hạc đương đếm những chỗ xóa, sót, móc, chữa, để viết vào dưới chữ "cộng quyển nội", chợt thấy Khắc Mẫn gọi hỏi:
- Đã trống thu quyển rồi đấy phải không?
- Phải trống thu quyển đấy.
- Sao họ thu quyển sớm thế?
- Còn sớm gì nữa, mặt trời sắp sửa lặn rồi.
- Anh xong chưa?
- Tôi xong rồi. Anh cũng đã xong rồi chứ?
- Nào đã xong. Hãy còn nguyên một bài kinh chưa viết được dòng nào hết, tôi mới nghĩ được hai vế trung cổ, còn giáp ra đó. Anh phải nghĩ nốt cho tôi hai vế hậu cổ và mấy câu kết tỵ. Nếu không thì tôi tự tử.
- Nhưng tôi không quen viết kinh nghĩa kinh Lễ, sợ viết không hay lỡ hỏng, rồi anh lại đổ cho tôi.
Khắc Mẫn càng bối rối:
- Không hay cũng được! Túc quyển thì thôi.
Vân Hạc ra bộ ái ngại:
- Thế thì được! Anh đưa bản giáp những đoạn của anh đã nghĩ cho tôi coi qua. Để tôi nghĩ tiếp, kẻo nó không liền với nhau.
Khắc Mẫn ngửa mặt trông lên chòi canh, thấy tên lính canh đương ngoảnh mặt sang phía bên kia, thày liền vo tròn bản giáp của mình rồi liệng sang lều Vân Hạc. Nhặt nắm giấy ấy, Vân Hạc giở ra nhìn qua mấy dòng ở dưới, rồi lại vo lại và liệng sang trả Khắc Mẫn.
Trống cái trên chòi mỗi lúc mỗi mau. Nhạc ngựa ở ngoài bờ rào mỗi lúc môi thêm rộn rịp, dãy lều phía nhà Thập đạo mỗi lúc môi thưa dần. Bấy nhiêu cảnh tượng đều như lửa đốt vào lưng Khắc Mẫn. Thày cắm đầu nhìn tờ giấy giáp, viết lia viết lịa không kịp chớp mắt.
Hồi trống thứ nhất đã sắp hết. Học trò trong trường lũ lượt đeo lều đeo chõng đi ra. Vân Hạc nhân lúc nhốn nháo chạy thọt sang lều Khắc Mẫn để đưa cho thày tờ giấy giáp đoạn hậu cổ của bài kinh Lễ mà chàng nghĩ hộ. Khắc Mẫn không ngó đến tờ giấy ấy và cũng không hỏi bạn đã cho mình xong chưa.
Trống cái trên chòi lại càng rộn rã. Trong trường, trời đã nhá nhem, mắt nằm không thấy nét mực trên giấy, bấy giờ thày mới ngẩng lên, lấy bộ đá lừa trao cho Vân Hạc và nói:
- Anh đánh hộ tôi cái lửa!
Rồi cúi xuống chỗ thang chõng, cởi lấy một chiếc ống tre đẽo nhọn mà người ta vẫn gọi là cọc cắm nền, thày đóng xuống chỗ đầu chõng và cắm cây nến vào đó.
Vân Hạc vừa đánh lửa, chàng tiếp than lửa vào cái mồi giấy rồi thổi cho bùng và châm vào ngọn nến ấy.
Khắc Mẫn viết hết hai vế khai giảng thì vừa hết một hồi trống thứ nhất. Dịp trống lại khoan thai điểm từng tiếng một. Thì giờ khi ấy mới chóng làm sao!
Trước mắt Khắc Mẫn hình như nó đã đi như tên bắn, thày vừa viết xong hai vế trung cổ, tiếng trống đã lại dồn mau. Luồng gió thình lình thổi vào trong lều, làm cho ngọn nến tắt phụt. Cuống quýt thày sờ bộ đồ đánh lửa. Vừa đánh vừa hỏi Vân Hạc:
- Hồi trống này ngắn hơn hồi trống trước, có phải không anh?
Vân Hạc đáp:
- Tại anh bối rối trong bụng, cho nên tưởng là nó ngắn, thực ra hồi nào cũng như hồi nào.
- Anh bảo lấy gì làm ngữ mà họ đánh được đều thế
- Có ngữ chứ. Anh không biết đó thôi. Cái ngữ của các hồi trống chỉ có mười bảy đồng tiền Gia Long. Khi bắt đầu đánh một tiếng thứ nhất, người lính cầm canh cầm mười bảy đồng tiền Gia Long bày từng đồng một cho thành một hàng. Bày xong hắn lại lần lượt nhắc từng đồng một lên tay, khi nào nhắc hết cả mười bảy đồng, mới đánh đến tiếng thứ hai. Rồi hắn bỏ lại một đồng, còn mười sáu đồng, lại đem bày, xóa như trước. Bày xong xóa xong mười sáu đồng ấy mới đánh đến tiếng thứ ba. Cứ mỗi tiếng trống hắn lại rút đi một đồng như thế. Rút cho đến khi hết cả mười bảy đồng tiền, thế là hết một hồi trống.
Lửa cháy, Khắc Mẫn châm vào ngọn nến. Bấy giờ chàng viết đến đoạn của Vân Hạc làm hộ. Trời lại tối đen như mực. Mấy cây đình liệu lại bị đốt cháy đùng đùng. Cảnh tượng đêm qua lại diễn lại một lần nữa.
Chờ cho Khắc Mẫn viết đến dòng "cộng quyển nội", Vân Hạc mới ra dỡ lều, bó buộc các thứ đồ đạc.
Hồi trống thứ ba giục mau, Khắc Mẫn cộng xong những chữ xóa, sót, móc, chữa và viết ra chỗ cuối quyển. Vân Hạc lại sang dỡ lều thu xếp đồ đạc hộ bạn.
Hai người vừa tới nhà Thập đạo, người lại phòng thu quyển đã đương nâng nắp hòm quyển và sắp đậy lại. Tất tả, Vân Hạc, Khắc Mẫn cùng rút quyển văn trong ống và trao cho hắn. Tiếng trống cuõí cùng vừa dứt, người lại phòng liền khóa hòm lại. Một ông cụ già lật đật đem quyển đến nơi, thì chỗ ổ khóa vừa bị gián giấy niêm phong. Ông ấy năn nỉ kêu van người lại phòng hãy mở hòm ra để cho quyển văn của mình vào trong. Hắn cũng ra vẻ thương hại ông cụ. Nhưng hắn không giám bóc tờ niêm phong, và nói:
- Thế là số cụ không đỗ, cụ đành lòng vậy. Bây giờ nếu tối mở hòm mà bỏ quyển của cụ vào, thì tôi sẽ phải tù mọt gông.
Cái hòm liền bị bọn lính mật sát khiêng vào trong nhà Thập đạo.
Ông cụ kêu khóc nức nở, cố xông lên nhà Thập đạo để lấy cái cớ tuổi già mà xin quan trường gia ân cho mình. Nhưng cũng không được. Quan trường chỉ úy lạo ông cụ mấy câu, rồi sai lính dẫn ra.
Vừa đi ông cụ vừa kêu:
- Khốn nạn! Tôi thi đã vừa mười khoa, bán hết cửa nhà ruộng đất về việc khoa cử. Định đi một khoa này nữa thì thôi. Bây giờ lại bị ngoại hàm, có khổ hay không?
Vân Hạc chỉ mặt Khắc Mẫn và nói:
- Hú vía! Chỉ chậm một bước, thì tao ngoại hàm vì mày!
Khắc Mẫn nhăn răng cười xòa. Rồi theo ánh lửa của cây đình liệu, hai người cùng về nhà trọ.
"Sức căng" - siêu mẫu đồ lót châu Âu |
Chương 9
Ánh nắng đã luồn qua khe cửa sổ chiếu vào sàn gác. Hạt bụi thi nhau đùa giỡn trong những luồng sáng tím xanh.
Con Nhài sẽ sàng đưa ngọn chổi lúa quét qua mặt gác, rồi nó rón rén nhấc chiếc điếu ngô thổi hết bã thuốc tàn đồm và đem bàn chè mẫu ra lau.
Vân Hạc vẫn ôm cô Phượng nằm trong tấm chăn nhiễu đỏ.
Cạnh chàng, một tấm chăn nữa cũng đương phủ kín hai người: Bùi Đốc Cung và cô Cúc.
Gian gác tĩnh mịch như tòa miếu cổ ở giữa cánh đồng không, người ta có thể đếm được những dịp đều đều của bốn hơi thở.
Thế là trong mười ngày chờ đợi xem bảng của kỳ đệ nhất, Vân Hạc cũng như Đốc Cung đã vắng nhà trọ đến sáu đêm liền. Khi bị anh em lôi kéo, khi thì tự chàng lôi kéo anh em, trong sáu đêm đó, đêm nào chàng cũng ở phố hàng Lờ, cái nơi đã được thiên hạ đặt tên là "rừng son phấn".
Tuy nó chỉ là chuyện "phùng trường tác hỉ", chàng không chung tình với một người nào, nhưng trước những cuộc rượu nồng, dê béo, chàng vẫn được phần đông chị em để vào mắt xanh. Họ trọng chàng là hạng học trò có tiếng, họ thích chàng ăn nói có duyên, nhất là họ yêu ngón chầu của chàng nhiều tiếng tài tình trác lạc.
Lân la hết nhà này đến nhà khác, cái nợ phong hoa đã làm cho chàng thành người bê tha.
Đào Phượng là người gặp chàng sau cùng, song lại là người mến chàng thứ nhất. Mối duyên hội ngộ giữa chàng với nàng mới bắt đầu trong ba bữa nay, nhưng nàng đã dùng hết cách khôn kéo của nhà nghề để giữ chàng ở luôn nhà mình.
Khăng khít với chàng để làm gì? Nàng đã thừa biết chàng mới cưới vợ, hơn nữa, nàng còn nghe rằng, vợ chàng vừa nhan sắc, vừa nết na, với chàng rất tương đắc không có khi nào nàng lại dại dột mà hòng mong chàng sẽ chút ân tình cho mình.
Chỉ vì ở bên tai nàng, chàng là một tay danh sĩ, người ta bảo rằng khoa này nhất đình là chàng phải đỗ không thủ khoa thì cũng á nguyên. Vả lại, từ khi chàng đến nhà nàng, mắt nàng đã trông thấy chàng bói kiệu và đánh tổ tôm. Không cuộc tổ tôm nào mà chàng không ù chi chi, không cuộc bói kiệu nào chàng không kiệu độ một, hai ván, có khi chàng được cả "tứ mỹ" hoặc "tam từng" nữa. Với những điều ấy, nàng càng chắc rằng mười phần chàng đỗ cả mười. Theo sự kinh nghiệm của các cụ nói lại thì nhà cô đào cũng giống như nhà chứa trọ, khoa nào được có ông khách thi đỗ, tức là trong nhà làm ăn phát tài. Và từ khoa sau trở đi, học trò sẽ đua nhau tìm đến nhà mình mà trọ hay hát. Bởi vì người ta cho là cái nhà có lợi cho sự thi cử. Trái lại, nhà nào không có ai đỗ, người ta sẽ bảo cái nhà không hay, khoa sau dù có nhử thính cũng không ai thèm đến cửa.
Cái sự thi đậu của chàng quan hệ với nàng như vậy, cho nên nàng phải cố kiết mà níu lấy chàng.
Trước sự ân cần chiều đãi của nàng, cố nhiên chàng không có thể dứt tình mà đi. Luôn trong ba ngày trước đây, chàng không hề về đến nhà trọ. Hai đêm trước, đêm nào, chàng và Đốc Cung cũng thức cho đến sáng bạch với tiếng đàn, tiếng hát và những cuộc rượu quay thìa. Nhưng đêm vừa rồi, vì đã giáp ngày ra bảng, sợ rằng thức quá, khi vào trường sẽ hại cho sự viết văn, cho nên chàng phải giục Đốc Cung đi ngủ từ lúc nửa đêm. Giấc ngủ báo thù vẫn khác với giấc ngủ thường, từ nửa đêm cho đến bây giờ, hai người đều kéo một mạch không ai cựa cậy.
Con Nhài lau xong ấm chén, nó lại rón rén đi xuống nhà dưới, mặc hai cô chủ ngủ tiếp hai ông qúy khách.
Chị hàng xôi cháo lù lù tiến đến trước cửa và quai mồm rao mấy tiếng chua lòm, làm cho Đốc Cung giật mình đánh thót. Chàng liền tung chăn ngồi dậy, dụi mắt trông ra ngoài cửa rồi nói một cánh sửng sốt:
- Chết chửa? Bây giờ là bao giờ rồi?
Cô Cúc oằn oại vặn mình mấy cái và đáp:
- Hãy còn sớm chán! Ngủ thêm lúc nữa. Vội gì anh!
Đốc Cung ngáp một tiếng dài, rồi tiếp:
- Mặt trời đã xỏ vào mắt mà còn là sớm. Thế thì không còn bao giờ là trưa!
Tức thì Đốc Cung lật tót chăn của Vân Hạc và gọi:
- Dậy đi mày! Trưa lắm rồi?
Vân Hạc mở choàng hai mắt và gắt:
- Mày làm cái gì mà nhắng lên thế! Trưa thì mặc trưa, tao cần gì.
Đốc Cung nói bằng giọng ỡm ờ:
- Đi lên nhà trọ sắp sửa khăn gói mà về với vợ! Chứ làm gì!
- Tao hỏng à?
- Cái bộ học hành như mày chả hỏng thì "vào" với ai?
- Nếu tao mà hỏng kỳ này, thì cả trường không còn thằng nào "vào" nổi.
Rồi đó, Vân Hạc cũng rút cái cánh tay phải đương bị cô Phượng gối đầu và ngồi nhỏm dậy.
Cô Phượng cũng dậy và gọi con Nhài lấy nước rửa mặt.
Tan cuộc trà sớm, Vân Hạc, Đốc Cung sắm sửa khăn áo toan đi, cô Phượng, cô Cúc nhất định níu lại và noi:
- Các anh ở đây.ăn cháo cái đã.
Hai người cùng một mực từ chối:
- Thôi để cho chúng tôi đi, kẻo trưa. Hôm nay là ngày ra bảng, bây giờ hãy còn ở đây, cũng là liều lĩnh lắm rồi...!
Hai ả vẫn kèo nèo:
- Trưa với sớm thì làm gì? Đến chiều xem bảng cũng được. Bảng vẫn còn đấy, chứ ai đã cất đi đâu mất. Các anh chẳng đỗ thì ai đỗ, em chắc như vậy. Không cần phải xem bảng nữa.
Rồi ả nắm lấy một chàng. Họ thi nhau lật khăn, cởi áo hai chàng và kéo vào phản.
Con Nhài vừa xách lên đó một nai rượu lớn. Nó cất hai bức chăn nhiễu vào phòng và ngả chiếc mâm chân quỳ ra phản. Kế đến thằng bếp lễ mễ bưng lên và đặt vào mâm một con gà luộc đựng trong một chiếc đĩa sứ rất lớn. Rồi thì chúng nó sắp sửa vào đó tất cả các thứ bát, đũa thìa, chén và nhiều những món ăn khác.
- Nào! Mời hai anh vào đi. Mọi ngày chúng em không dám uống rượu, nhưng hôm nay nhất định tiếp với các anh một bữa thật say.
Đào Phượng vừa nói vừa kéo Vân Hạc, Đốc Cung vào cạnh chiếu rượu và giục đào Cúc:
- Chị rói rượu ra. Sao cứ lóng ngóng mãi thế!
Vân Hạc vừa cười vừa nói:
- Uống thì uống, cần gì!
Rồi chàng ngoảnh nhìn Đốc Cung:
- Nếu như ngày nào các chị cũng có hảo tâm thế này, thì chúng mình chẳng phải thi cử làm chi cho nhọc.
Hai chàng liền ngồi lên phản. Cô Cúc nhanh nhảu, lau tay nhắc đĩa thịt gà ra gỡ. Cô Phượng cầm nai rượu đổ ra cái bát giữa mâm, rồi vớ chiếc thìa múc một thìa đầy, và hỏi cô Cúc:
- Tôi muốn chuốc anh ấy nhà chị một thìa, có được không đấy?
Cô Cúc xua tay:
- Không được. Không được. Chị muốn cướp chồng của tôi hay sao?
Cô Phượng vừa cầm thìa rượu vừa cười:
- Chị đã nói thế, thì tôi cướp cho mà xem. Sướng chưa, phen này lấy luôn hai chồng một lúc.
Rồi nàng đưa thìa rượu lên miệng Đốc Cung:
- Mời chồng xơi rượu!
Đốc Cung gạt thìa rượu ra và nói:
- Đây tôi không làm chồng lẽ, nghe không?
Cô Phượng vẫn cười:
- À, anh còn giữ trinh tiết với chị ấy nhà anh? Thôi thế thì em trở về với chồng cũ vậy.
Rồi nàng đổ thìa rượu ấy vào bát, lại múc thìa khác và chìa tận miệng Vân Hạc:
- Nào anh xơi rượu với em.
Vân Hạc vừa cười vừa nói:
- Ai mặt mũi nào uống rượu với một người vợ đã đi ve trai?
Cô Phượng lại cười:
- Ông Dương Lễ cho vợ đi với bạn luôn trong ba năm còn được, huống chi tôi mới ve bạn của anh một câu. Thôi anh nuốt giận làm lành.
Vân hạc chưa kịp nói gì, dưới thang gác bỗng có tiếng chạy huỳnh huỵch. Con Nhài hốt hoảng đến trước cô Phượng:
- Thưa cô, dưới cửa sổ có hai ông nào đương hỏi ông Hạc.
Vân Hạc vội hỏi:
- Người như thế nào?
- Hai người ấy cùng mặc áo the, nước da trắng trẻo, một ông độ ba tư, ba nhăm, một ông độ hai bảy hai tám.
Đốc Cung nhằm mặt Vân Hạc:
- Mày thì chết, muốn sống đi trốn cho mau. Để tao ngồi đây chịu tội thay mày.
Vân Hạc vội vàng chạy thụt vào buồng, khép luôn cửa lại.
Cô Phượng bảo Nhài:
- Mày xuống nói với hai ông ấy, ở trên này không có ai là ông Hạc nhé!
Con Nhài vâng rồi đi xuống mới hết thang gác thì đã có tiếng chân người thình thịch đi lên.
Ai thế? Đào Tiêm Hồng và Đào Đoàn Bằng, anh thứ hai, và anh thứ ba của Vân Hạc.
Với bộ mặt giận dữ, hai người xăm xăm bước đến trước chiếu rượu giữa khi Đốc Cung, đào Phượng, đào Cúc bỏ thìa rượu đứng dậy.
Đốc Cung tươi cười vờ hỏi:
- Hôm nay trở trời, trái gió làm sao mà cả hai bác lại cùng đi tìm cái thú yên hoa? Chắc là các bác đều được vào cả.
Đoàn Bằng đổi ra dáng bộ vui vẻ đáp:
- Gớm chửa! Dễ một mình anh biết chơi, còn chúng tôi là gỗ cả đấy.
Đốc Cung cũng cười, nhưng không nói gì. Đào Phượng, đào Cúc đon đả mời hai người vào ghế và cung kính rói hai chén nước bưng lại.
- Xin mời hai ngài xơi nước.
Tiêm Hồng vẫn nhìn Đốc Cung bằng một bộ mặt hằm hằm.
- Thằng Hạc nhà tôi trốn đi đâu rồi?
Đốc Cung giả cách ngơ ngác:
- Anh Hạc đã ra đấy ư? Hôm qua tôi nghe nói anh ấy về quê đến chiều hôm nay mới ra kia mà!
Đoàn Bằng phì cười:
- Thôi anh đừng khéo vờ vẫn. Tôi chắc nó lại núp đâu quanh đây.
Rồi thày chỉ vào mâm rượu và tiệp:
- Đũa bát kia của nó, có phải không? Nếu không, sao ba người lại có đến bốn đôi đũa và bốn cái bát?
Đốc Cung vẫn nói bằng cách thản nhiên:
- Chúng tôi cũng đương bàn tán với nhau, không hiểu vì sao tự nhiên thằng bếp lại dọn thừa đũa thừa bát. Hoặc giả nó là cái điềm hai bác đến chơi. Vậy xin hai bác vào đây uống rượu với tôi luôn thể.
Đào Phương, đào Cúc cũng đều làm bộ trèo kéo:
- Chẳng mấy khi hai ngài quá bộ đến đây. Vậy xin hai ngài hãy tạm ngồi lại xơi rượu với ông Cung để chúng em được hầu tiếp.
Tiêm Hồng càng cáu:
- Chúng tôi cũng muốn uống lắm. Mép rượu còn có khi nào chê rượu? Huống chi lại được uống với các chị thì còn thú hứng nào bằng. Nhưng còn e rằng: chúng tôi ngồi đây lúc nữa, thì trong gầm phản, tất nhiên có đứa chết ngạt. Và đứa chết ngạt ấy cố nhiên phải là thằng Hạc.
Đoàn Bằng nói xen:
- Hôm nay lại còn dắt nhau đến đây, tôi cũng chịu cho cái đức bê tha của các anh!..
Tiên Hồng cướp lời:
- Chúng tôi nhờ anh bảo thằng Hạc rằng: đời còn dài, muốn chơi chẳng thiếu gì lúc. Hôm nay hãy tạm đi ra cửa trường nhòm qua cái bảng xem sao.
Rồi hai người từ biệt đứng dậy và xuống thang gác. Đốc Cung, đào Phượng, đào Cúc theo chân tiễn ra đến cửa.
Đoàn Bằng quay lại nói với hai ả:
- Tôi xin hai chị nể lời chúng tôi, hôm nay hãy tạm tha cho thằng này và thằng Hạc. Có muốn giam hãm chúng nó, các chị cũng nên chờ đến đêm mai.
Hai ả vẫn khăng khăng một mực:
- Ông nói oan chúng em, thật quả, từ xưa đến giờ, nhà em không có ông khách nào tên là Hạc cả.
Đoàn Bằng mỉa cười:
- Nào tôi có ăn vạ đâu? Sao chị cứ phải chối mãi?
Rồi thày theo sau Tiêm Hồng lủi thủi cùng đi về phía cửa Nam. Đốc Cung và đào Phượng, đào Cúc chờ cho hai người đi một quãng xa, mới cùng lên gác. Ba người đều cười rũ rượi.
Vân Hạc cũng vừa mở cửa ở trong buồng ra.
Chàng bảo đào Phượng:
- Gớm? Cái buồng nhà chị sao mà lắm muỗi thế. Nếu chậm lúc nữa, có lẽ tôi sẽ bị nó đốt chết. Hai ông ấy đi đến đâu rồi?
Đào Phượng dún dẩy trả lời:
- Đi xa lắm rồi. Mời các anh cứ vào xơi rượu, không ngại gì nữa.
Đào Cúc nói xen:
- Các ông anh kể cũng rộng lượng đấy chứ, lúc mà cái ông nét mặt hằm hằm nói gắt anh Cung, em cứ tưởng hai ngài sẽ phá cửa buồng để bắt anh Hạc.
Đốc Cung nhìn mặt Vân Hạc:
- Ừ nếu lúc ấy thằng Hồng, thằng Bằng cố cậy cửa buồng mà vào, chúng nó bắt được mày đương nằm ở dưới gầm giường, thì mày xử trí ra sao?
Vân Hạc bật cười:
- Tao tát vào cái miệng mày bây giờ. Đừng nói láo. Chốc nữa lại sắp ra cửa trường mà kháo như thế! . . . Người ta nằm ở trên giường, chớ ai chui gầm giường bao giờ!
Rồi chàng ghé ngồi vào phản và tiếp:
- Giả sử bấy giờ tao bị bắt quả tang, thì cũng đến ỳ ra đó, chứ làm thế nào. Chúng mình kể cũng vô phúc thật đấy. Các ông ấy mắng không oan. Ai lại đến ngày ra bảng vẫn kéo lì ở nhà cô đào.
Đốc Cung như không hề để ý đến lời Vân Hạc. Chàng mủm mỉm cười và ra bộ nghĩ ngợi.
Đào Phượng múc một thìa rượu, chuốc cho Vân Hạc và nói:
- Cái sự hôm nay là lỗi tại em tất cả. Vậy xin tạ lỗi với anh một thìa.
Vân Hạc đón lấy thìa rượu và nói:
- Chị để tôi uống tự nhiên, không cần phải thế. Chúng tôi rất ghét cái kiểu kề miệng húp thìa rượu ở tay người khác.
Vân Hạc đương đưa thìa rượu lên miệng sắp uống. Đốc Cung bỗng nhìn đào Phượng và cười ngặt nghẹo:
- Tôi nhờ chị hãm cho ông Hạc một câu.
Đào Phượng vui vẻ:
- Vâng? Xin anh nghĩ câu hãm cho em.
Đốc Cung liền đọc:
"Trời cao con Hạc vẫy vùng".
Vân Hạc ra bộ thích ý:
- Được đấy ! Thằng khá đấy. . . Đọc nốt xem sao?
Đốc Cung rung dùi đọc tiếp:
"Ai xui Hạc trắng vào trong gầm giường?
"Nghĩ đến mà thương".
Vân Hạc nuốt vội hớp rượu trong miệng và chỉ vào mặt đốc Cung:
- Thằng đểu! Những đứa báo oán ở dâu, sao hôm nọ nó không quật chết mày ở trong trường thi?
Đốc Cung cười bảo đào Phượng:
- Nhưng mà thôi, chị đừng hãm nữa. Để tôi chữa làm bốn câu mưỡu. Rồi tôi cho nó một bài hát nói.
Vân Hạc cũng cười:
- Muốn gì thì gì! Hễ mà bịa chuyện nói láo, thì mày đừng chết.
Đào Phượng nói chêm:
- Cứ để cho anh ấy làm.
- Nhưng mà nó cứ nói không làm có. Rồi chốc nữa lên cửa trường, gặp ai nó cũng đọc ra cho nghe. Người ta tưởng là chuyện thật.
Đốc Cung vẫn cười:
- Ừ thì tôi cũng đại xá cho nó. Để nó còn vác mặt về quê thăm vợ. Nếu tôi cho nó một bài hát nói thì không khéo nó phải tự tử.
Câu chuyện bông đùa kéo dài đến khi gần hết một bát rượu lớn. Hai chàng bắt đầu ăn cháo.
Tan cuộc rượu, hai chàng lại đội khăn mặc áo để đi xem bảng.
Đào Phượng, đào Cúc đòi đi theo. Nhưng mà Vân Hạc không nghe, chàng nói:
- Nếu tôi đi với hai chị, lỡ gặp anh hai và anh tú tôi, thì tôi trốn đi đường nào?
Hai ả cùng nói cố kiết:
- Các anh cứ cho chúng em đi với. Lên gần cửa trường, chúng em sẽ trụt lại sau, không đi gần với các anh nữa, thì thôi chứ gì.
Đốc Cung cũng ngăn hai ả:
- Thôi các chị cũng nên thương nó, đừng theo nó nữa. Nếu như các chị cố đi với nó, thì rồi mai kia vợ nó xé xác nó ra.
Rồi hai chàng từ biệt hai ả cùng đi lên phía trường thi.
Lúc ấy bảng đã kéo rồi. Học trò đứng ở dưới bảng đông như đám hội. Đốc Cung bảo với Vân Hạc:
- Hãy đến xem bảng con đã.
- Mày bị phạm húy hay sao mà muốn xem bảng con trước?
- Tao không phạm húy, nhưng hình như trong bài "Nam sơn hữu đài", tao viết chữ thọ thiếu mất một nét.
- Mày viết mười mấy nét?
Đốc Cung vừa đi, vừa lấy ngón tay ngoạch ngang, ngoạch dọc, rồi đáp:
- Tao viết có mười bốn nét.
- Thế thì đúng rồi, còn thiếu gì nữa, chữ "thọ" chỉ có mười bốn nét thôi. Vừa tới bên ngoài bảng con. Cái bảng treo chừng ngang đầu người, phía trước đương bị đám người che kín. Vân Hạc bảo Đốc Cung.
- Mày thừ lách vào, trông xem có tên thằng Nguyễn Khắc Mẫn ở đó hay không. Hôm ấy nó viết vội lắm. Tao sợ nó phạm trường qui, nếu không thì cũng phạm húy, hay là có chữ thừa nét thiếu nét, chứ khó mà được trọn vẹn.
Đốc Công ưng lời. Rồi để Vân Hạc đứng đợi ở ngoài, chàng cố lách qua đám người vào tận cạnh bảng nhẩm suốt một lượt từ đầu đến cuối. Tất cả trong bảng, có độ hai chục tên người.
Người thì viết không đủ quyển, người thì viết phải chữ "hồng" mà không "kính khuyết nhất bút", có người đồ, di, câu, cải quá số mười chữ, mỗi người mỗi tội khác nhau. Nhưng không có tên Khắc Mẫn.
Đốc Cung lại cố lách ra tìm đến chỗ Vân Hạc:
- Không biết nó có được vào hay không, chứ ở bảng con thì không thấy có tên nó. Hai chàng liền cùng tiến lại trước bảng vi giáp.
Vừa thoạt nhìn trên bảng, đã thấy tên Đào Tiêm Hồng.
Vân Hạc mừng reo:
- Anh Hai tao được "vào" rồi.
Đọc nốt cho đến cuối bảng, hai chàng đều không thấy tên mình, họ bèn dắt nhau sang cửa vi ất. Ở đây chỉ thấy tên Nguyễn Khắc Mẫn và Đào Đoàn Bằng, không có tên hai chàng. Đốc Cung chỉ bảo Vân Hạc:
- Thằng Mẫn và anh Tú mày được "vào" rồi kia kìa không có lẽ tao với mày bay kinh nghĩa cả.
Rồi thẳng đường, hai chàng lại đến coi bảng vi hữu. Đến đây mới thấy có tên Đốc Cung, nhưng vẫn không thấy có tên Vân Hạc. Đốc Cung lại trêu Vân Hạc:
- Chắc là mày hỏng.
Vân Hạc vẫn vững dạ:
- Mày và thằng Mẫn còn "vào" khi nào tao lại bị hỏng.
(Bị kiểm duyệt bỏ hồi Pháp thuộc.)
Vừa nói, hai chàng vừa lật đật trở lại đến cửa vi tả, trông gần bảng, vẫn không thấy tên Vân Hạc ở đâu, lúc ấy chàng mới hơi núng, liền bảo Đốc Cung:
- Có lẽ quan trường không mắt mày ạ.
Đốc Cung chỉ tay vào phía cuối bảng:
- Có họa mày mù, chẳng tên mày thì tên thằng đểu kia à.
Vân Hạc nhìn theo chỗ tay Đốc Cung đã chỉ, quả nhiên thấy có chữ Đào Vân Hạc đứng trên hai dòng chữ con "Sơn tây - Đào nguyên". Chàng điềm nhiên nói:
- Ừ, có thế chứ. Nếu tao mà hỏng thì còn trời đất nào nữa.
Vân Hạc, Đốc Cung vui vẻ quay ra cùng vơ vẩn trong đám đông để tìm những người quen biết. Nhưng mà không gặp người nào, hai chàng bèn lững thững đi về nhà trọ. Vân Hạc vừa đi vừa phàn nàn:
- Tao về bây giờ chắc ông anh sẽ mắng tàn nhục.
Đốc Cung an ủi:
- Không sợ. Tao xem hai thằng anh mày cũng còn biết điều. Chúng nó có giận mày đi nữa, cũng chỉ nhiếc móc qua loa, chứ không làm tàn nhẫn như người khác đâu. Vả lại, còn phải nể mặt tao chứ. Nếu như chúng nó tàn nhẫn với mày, thì có khác gì tàn nhẫn với tao?
Vân Hạc lẩm bẩm:
- Không biết đứa nào thóc mách mà các ông ấy lại biết chúng mình nằm ở nhà ấy? Tao đồ rằng chỉ có thằng Mẫn. Bởi vì cái thằng đểu ấy xưa nay vẫn có cái tính tâng công như thế.
- Có lẽ. Tao cũng ngờ nó. Để rồi hỏi xem, nếu quả phải nó, thì chúng mình cũng nên trừng trị cho nó chừa cái thói ấy.
Đốc Cung đương sắp nói tiếp, thình lình một bọn độ năm, sáu người nghênh ngang tiến đến trước mặt.
Khi đã gần giáp Vân Hạc, Đốc Cung, họ vẫn dắt tay nhau, như định ngăn cản đường đi. Một người trong bọn trừng mắt và thét:
- Các anh có mắt hay không? Làm sao thấy người ta thế này vẫn cố sầm sập đâm vào?
Hơi rượu theo với tiếng thét bay ra sặc sụa, làm cho Vân Hạc, Đốc Công biết ngay đó là những vị anh hùng không có tên ở trên bảng, chỉ chực gây sự với bất kỳ người nào. Hai chàng lễ phép xin lỗi, rồi lánh ra hai vệ đường để cho bọn đó đi lên.
Đi một quãng dài, vừa gặp Khắc Mẫn lủi thủi bên đường, với bộ mặt thìu thịu. Vân Hạc liền hỏi:
- Thằng này đi đâu?
Khắc Mẫn không trả lời và cũng không thèm trông lên. Đốc Cung không hiểu là vì cớ gì, chàng hỏi tiếp:
- Cái thằng làm sao mà lại mặt sưng mày xỉa lên thế? Không về sắp sửa đồ đạc để mai vào trường, lại còn dẫn xác đi đâu?
Khắc Mẫn dừng lại với bộ điệu hằm hằm tức giận:
- Đi đâu mày hỏi làm gì? Ông bảo đừng xỏ. Vừa mới được vào một kỳ đã chực lên mặt với ông phải không?
Hai chàng không biết ý tứ Khắc Mẫn ra sao, Vân Hạc nói bằng giọng ngạc nhiên:
- Mày điên đấy à, thằng Mẫn? Cớ sao tự nhiên vô cớ lại chực cà riềng cà tỏi với chúng tao?
Khắc Mẫn đổi giọng mát mẻ:
- Thôi tôi cũng cảm ơn anh. Anh có lòng tốt đã giúp cho tôi một đoạn "hậu cổ" qúy hóa. Nhưng mà tôi chưa phạm húy, chưa bị tù tội anh ạ.
Rồi thày lại vùng vằng đi không quay cổ lại.
Vân Hạc phì cười và giục Đốc Cung:
- Thôi đi! Mặc kệ nó. Hễ nó tự tử thì chúng mình chôn, cần gì.
Đi vài chục bước ngoảnh lại trông thấy Khắc mẫn đã đi hơi xa. Vân Hạc hỏi Đốc Cung:
- Mày có biết làm sao không?
- Nó tưởng nó hỏng, nên nó oán mày phản nó chứ gì! Tao cũng đoán thế, nhưng hãy cứ im không bảo vội. . . Để nó khổ cực từ giờ đến chiều, cho nó chừa cái tội tâng công đi đã.
Đốc Cung đồng một ý ấy:
- Tao cũng định thế.
Hai chàng cùng quay đầu lại, vừa thấy Khắc Mẫn đi rẽ ra lối bờ sông. Đốc Cung hoảng hốt:
- Có lẽ nó tự tử thật mày ạ!
Vân Hạc quả quyết:
- Thằng ấy khi nào lại dám tự tử. Nó không phải đứa có gan như thế. Hãy cứ thây nó.
- Nhưng sợ nó yên chí bị hỏng và phát phẫn mà đi lang thang đâu mất, chúng mình không biết đường nào mà tìm.
- Ừ phải! Nếu không báo cho nó biết, lỡ nó kéo đi, không kịp vào trường ngày mai, thì ra chúng mình ác quá.
Hai chàng liền lật đật trở lại, đuổi theo Khắc Mẫn và gọi:
- Mày không hỏng đâu, Mẫn ạ! Đừng đi tự tử mà mất mạng oan!
Khắc Mẫn cũng quay mặt lại và nói bằng giọng căm tức:
- Ông có tự tử cái con. . . ? Đừng trêu tiết ông mà không ra gì bây giờ. Hai thằng xỏ lá!
Hai chàng cùng cười sằng sặc.
- Thằng chó! Cáu gì chúng ông! Hãy lại cửa trường mà xem. Chẳng tên thằng Nguyễn Khắc Mẫn thì tên con chó ở bảng đấy à?
Khắc Mẫn càng bước rảo cẳng và nói thật lớn:
- Ừ! Tên con chó đấy! Hai con chó chứ không phải một. Con chó lớn ở làng Đào Nguyên và con chó con ở làng Trúc Lâm.
Hai chàng đều thấy bực mình, nhưng cố đuổi cho kịp Khắc Mẫn, rồi nói bằng giọng nghiêm trang:
- Sao anh lại tưởng anh hỏng?
Khắc Mẫn vẫn cắm đầu đi không đáp. Vân Hạc, Đốc Cung hỏi với:
- Thế thì mắt anh đã coi bảng chưa, hay là mới nghe thấy người ta nói?
Bấy giờ Khắc Mẫn mới dừng chân lại:
- Tao coi đã ba lần rồi?
- Anh coi những bảng vi nào?
- Tất cả bốn vi.
- Vậy mà không thấy tên anh?
Khắc Mẫn không nói vùng vằng toan đi. Hai chàng cũng cười:
- Thế thì anh mù mất rồi? Ba chữ Nguyễn Khắc Mẫn lớn bằng cái mẹt ở bảng vi ất mà không trông thấy có khổ không?
Khắc Mẫn có ý nghi ngờ:
- Các anh nói thật hay nói xỏ tao?
- Nói thật chứ ai nói đùa làm gì? Anh hãy trở lại mà coi.
Khắc Mẫn vẫn nhất định không tin.
- Trở lại để chúng bay phỉ nhổ ông thêm một mẻ nữa, phải không? Đừng xỏ? Đây ông ngần này tuổi đầu, khi nào phải lừa hai thằng ranh con!
Vân Hạc không thể nhịn cười và không biết nói thế nào cho Khắc Mẫn tin. Đốc Cung cố giữ nét mặt đứng đắn và ôn tồn:
- Không? Chúng tôi không thèm lừa anh làm gì. Bảng có tên anh thật đấy. Trở lại mà xem, rồi cùng trở về nhà trọ sắp sửa đồ đạc...
Khắc Mẫn không để cho nói hết câu, liền gặng:
- Nếu như không có tên tao, chúng bay làm sao?
Vân Hạc vội thề:
- Không có tên anh, chúng tôi sẽ xin cắp tráp cho anh suốt đời. .
Khắc Mẫn ngần ngừ nói gượng:
- Ừ, ông bay kinh nghĩa mà được hai thằng này bưng tráp, đi hầu, thì cũng đáng đời.
Rồi thày bèn theo Vân Hạc, Đốc Cung lại nẻo trường thi. Bấy giờ học trò đâu về đấy cả, cửa trường chỉ còn lơ thơ ít người. Hai chàng dắt Khắc Mẫn đến cửa vi ất, chỉ tay lên bảng và hỏi:
- Tên mày hay tên con chó ở kia hở Mẫn?
Khắc Mẫn sung sướng như người chết rồi lại được sống lại, thày ứa nước mắt vừa cười vừa nói:
- Quái lạ! Thế mà làm sao lúc nãy tôi trông đến ba bốn lượt đều không thấy cả? Hay có đứa nào che mắt?
Lúc ấy Vân Hạc mới cáu:
- Chó nó che mắt mày à? Chẳng qua vì mày đã quá hoạn đắc hoạn thất, cho nên hoa cả hai mắt không thấy gì nữa. Quân đê tiện! Làm bạn với mày nhục cả chúng tao!
Đốc Cung mắng thêm:
- Thảo nào ngày xưa có đứa cướp vàng giữa chợ mà không trông thấy người nào. Thằng này nếu được thấy vàng, có lẽ nó cũng tối mắt như thế. Thôi hết kỳ này thì tống nó đi trọ nhà khác! Không để cho nó ở chung, bẩn cả chúng mình.
Khắc Mẫn nhặn răng cười khì.
- Bây giờ các anh nói sao tao cũng phải chịu, chứ tao cãi sao cho kịp hai cái miệng ấy?
Ba người liền cùng quay về.
Mặt trời vừa đến đình đầu. Khí trời đã không lạnh lắm. Trong phố, hàng quà đã rao ấm ơ.
Vân Hạc, Đốc Cung vẫn chưa tan cơn tức cười Khắc Mẫn, hai chàng lại trêu:
- Bây giờ chúng tao mới hỏi tội thằng Mẫn?
Khắc Mẫn bẽn lẽn:
- Ừ, tao còn tội gì nữa, thì nói nốt đi.
- Sao mày dám hót với anh Hồng anh Bằng rằng chúng tao hát ở nhà con Phượng để các anh ấy đi bắt chúng tao?
- Ai bảo chúng bay như thế?
- Chúng tao biết, chứ phải ai bảo. Không mày hót thì còn thằng nào vào đấy?
- Thế thì làm sao đến ngày ra bảng chúng bay vẫn còn bê tha?
- Bê tha mặc kệ chúng tao, việc gì đến mày? Lần này tha cho; lần sau, còn mách lẻo nữa, chúng ông rút lưỡi.
Ba người về đến nhà trọ. Vân Hạc, Đốc Cung vừa nhô vào cửa, Đoàn Bằng liền nói bằng giọng thẽ thọt:
- Thưa hai ngài đã về!
Vân Hạc nín thít không dám nói gì. Đốc Cung pha trò:
- Chả dám! Bẩm ngài! Ngài làm gì mà nghiêm khắc vậy!
Tiêm Hồng cau mày:
- Ngài dạy quá lời. Chúng tôi đâu dám nghiêm khắc với các ngài? Nhưng không biết ngày mai các ngài có định thi nữa, hay là hoãn đến khoa sau?
Đốc Cung kết thúc câu chuyện bằng một cuộc cười xòa. Vân Hạc giả vờ lảng xuống nhà dưới, rồi chàng sẽ bảo thằng nhỏ nhà trọ sắp sửa đồ đạc và dặn chủ trọ mua các thức ăn, làm sẵn, để ngày mai cho cả bọn vào trường.
Ngô Tất Tố
Vô đề! |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét