Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2012

Lều chõng (phần 2)

"Giáng trần" - Hot girl Andrea
Trong bụng cô bổi hổi, bồi hồi, hình như có vật nong nóng bốc lên ở ngực và cổ. Tức thì cô liệng quyển chuyện xuống giường và nằm vắt tay lên trán để đưa tư tưởng đến chỗ mơ màng xa xăm.
Chương 4
Đến nay vợ chồng ông đồ Vân Trình mới thật khỏi lo. Tháng trước, khi được tin cô Ngọc đi chợ về đến giữa đường bị cảm, cả hai ông bà đều hết hồn vía. Không kịp khóa tráp, khóa tủ, ông đồ vơ vội lấy lọ thuốc gió giắt vào trong mình, bà đồ thì dặn láng giềng hãy coi nhà giùm, rồi cùng hỏa tốc đến cái ngã tư gần chợ Kim Bảng. Bấy giờ cô Ngọc đã được đem lại bãi cỏ dưới bóng rợp của một cây đa. Sắc mặt vẫn xám mét. Chân tay không động đậy. Nếu trên ngực không còn thoi thóp thở, thì chẳng khác người chết rồi. Bà đồ mếu máo kêu khóc, hú hồn vía vang một khu đồng. Ông đồ rẽ ràng trao lọ thuốc gió cho cô Bích, con gái thứ hai của ông, và bảo cô này mở gánh hàng lấy đĩa đựng trầu, xin ít nước tiểu mài với những viên thuốc ấy. Rồi hai ông bà dùng lược ghè miệng cô Ngọc đổ vào và xoa khắp cả mình mẩy cô ấy. Mặt trời tà tà, cô Ngọc tỉnh dần, nhưng vẫn loạng choạng không đứng dậy được. Chờ khi hết nắng, ông đồ mới thuê hai người gánh hai gánh hàng để bà đồ và cô Bích cùng dìu cô Ngọc về nhà. Đêm ấy và ngày hôm sau, cô Ngọc mấy lần ngất đi, gọi mãi mới tỉnh. Và lúc tỉnh dậy, thỉnh thoảng lại cứ nói mê nói sảng, khi thì xưng là cô thám, khi thì xưng là cô bảng, y như một người ma làm. Thầy thuốc đổi bốn năm ông, bói toán cúng cấp, lễ bái chẳng thiếu đâu, bệnh trạng vẫn đâu đóng đấy. Kết cục, ông đồ phải mời cụ bảng Tiên Kiều thăm mạch và bốc thuốc cho, các chứng mới lui dần. 
Độ này cô ấy đã gần bằng cũ. Tuy mặt mũi hãy còn xanh xao, nhưng tinh thần thì đã sảng khoái như thường. Từ mấy bữa trước, cô thấy trong mình không còn tật bệnh gì nữa, đã xin đi chợ bán hàng, kẻo nữa nghỉ lâu mất khách. Nhưng mà ông, bà sợ cô chưa được thật khỏe, xông pha gió máy có thể lại bị cảm lại cho nên nhất định bắt cô cứ phải ở luôn trong nhà, không được đi lại dưới ánh nắng. Thậm chí cô muốn ngâm sợi, đánh suốt, dệt nốt cái "cửi" còn dở, ông bà cũng không bằng lòng, vì sợ để cô vầy nước thì độc. Chiều lòng cha mẹ, cô vẫn hết sức kiêng khem. Nhưng phải cả ngày quanh quẩn trong mấy gian nhà như tù giam lỏng, thì ai mà không buồn? 
Nhiều lúc cô muốn nhắm mắt cố ngủ, cho khỏi nghĩ vẩn nghĩ vơ. Song ngủ mãi cũng chán con mắt, không thể nào mà chợp đi được. Rồi thì những mối tư tưởng luẩn quẩn ở đâu nó lại kéo đến như mớ bòng bong, gỡ không ra, dứt đi không được. Nhất là những khi vừa mới thiu thiu, chợt bị con muỗi vo ve bên tai phải tỉnh dậy, thì trong mình cô tự thấy một trận bàng hoàng khó tả, nghĩ mãi không biết mình đương nằm ở chỗ nào. 
Cô rất thèm người nói chuyện. Nhưng đương mùa chợ búa cày cấy, chị em chúng bạn ai có việc nấy, không ai được thưa thì giờ để đến trò chuyện với cô. Cho đến cô Bích, người em tin cậy của cô, cũng phải mải miết đi chợ, từ sáng đến tối, không được thư nhàn mấy khi. Thành ra ban ngày cũng như ban đêm, ngủ đi thì thôi, hễ bừng mắt ra, cô lại thấy mình một mình vò võ. Vì thế, cô cứ phải mượn cuốn Kim Vân Kiều làm bạn giải buồn. Quyển sách như cũng biết ỡm ờ trêu ngươi. Mỗi khi cô mở nó ra, nếu không đụng phải đoạn Kim Trọng gặp Thúy Kiều, thì lại trúng vào chỗ Thúy Kiều cất lẻn sang nhà Kim Trọng. Tuy rằng cô đã hết sức trấn tĩnh, nhưng mà coi đến những câu:
"Sóng tình hồ đã xiêu xiêu 
Xem trong âu yếm có nhiều lả lơi..." 
Hay là: 
“Tóc tơ căn vặn tấm lòng 
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương"
Thì trong bụng cô bổi hổi, bồi hồi, hình như có vật nong nóng bốc lên ở ngực và cổ. Tức thì cô liệng quyển chuyện xuống giường và nằm vắt tay lên trán để đưa tư tưởng đến chỗ mơ màng xa xăm. 
Sáng nay lúc cô băng mình trở dậy, bỗng chốc hai mắt nháy rối, vuốt mãi nó cũng không thuần. Rồi khi cô ăn cơm xong, vào buồng, lại một con nhện thình lình sa thẳng xuống chỗ trước mặt. Cô toan vồ lấy để xem nó là nhện vàng hay nhện trắng, nhưng con vật ấy nhanh quá, cô vớ chưa kịp, nó đã đánh đu sợi tơ của nó và bò lên gần xà nhà mất rồi. "Điềm gì mà lạ thế này. Lành hay gở?". Câu hỏi quanh quẩn đi lại ở trong óc. Nó bắt cô phải phân vân hồi hộp, đứng ngồi không yên. 
Lật đầu giường lấy cuốn Truyện Kiều, cô hé mở ra để xem đằng nào là đầu, đằng nào là cuối. Rồi hai bàn tay chắp lại một cách cung kính, cô đưa cuốn sách lên tận ngang mặt, đặt nghiêng "bụng sách" vào thẳng sống mũi và khấn lầm rầm: "Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, tên tôi là Hoàng Thị Ngọc, ở làng Vân Trình, thành tâm xin cô một quẻ...”. 
Vừa dứt tiếng quẻ, cô liền ngừng lại và chỉ mấp máy hai môi, không biết là nói những gì. Dứt hồi thì thầm, cô bấm một ngón tay cái vào giữa cuốn sách rồi giở ra xem. Ngón tay cái của cô trúng vào chỗ này: 
"Bó thân về với triều đình, 
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu? 
Áo xiêm đùm bọc lấy nhau, 
Vào luồn ra cúi, công hầu mà chi". 
Đọc đi đọc lại mấy lần, cô vẫn không hiểu nàng Kiều bảo mình cái gì! 
- Hay là mình không thành tâm, cho nên cô Kiều không ứng? 
- Thì lại bói lại quẻ nữa xem sao? 
Một lần nữa, cuốn sách bị cô đưa lên ngang trán và làm đúng những công việc vừa rồi. Rồi cô nhìn theo chỗ ngón tay đã bấm. Nó là cái gì? 
"Vội vàng sắm sửa lễ công 
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng ruổi sao. 
Bày hàng cổ vũ xôn xao, 
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi". 
Mặt cô tự nhiên thấy nóng bừng bừng. Ruột gan cô tự nhiên bồn cồn như bị lửa đột. Không kịp suy nghĩ ý nghĩa của mấy câu đó, cô liền lăn đùng xuống giường và thở hừng hực như người say nắng. Cảnh tượng của đám vinh qui hôm nọ thình lình lại hiện trước mắt. Kìa lá cờ vàng phấp phới trước gió. Kìa cái biển gỗ sơn son thếp vàng chói lọi dưới ánh mặt trời. Rồi một chàng trẻ tuổi cố nghiêng chiếc mũ hoa vàng cười nụ với người bên đường. Rồi một cô con gái không lấy gì làm xinh, đang õng ẹo ngôi trong chiếc võng mành mành cánh sáo. Rồi... vô số là thứ khác nữa. 
Giống như con chuồn chuồn trong mắt những người chực giở, những cảnh tượng ấy cứ dính liền với con mắt cô, xua tay nó không đi, nhắm mắt lại nó càng rõ rệt. "Số kiếp mình thật không ra gì... Cờ đã đến tay, ai ngờ lại về kẻ khác..” Cô không định nghĩ như thế. Nhưng mấy câu ấy nó cứ vơ vẫn kéo đến và trở đi trở lại mãi mãi trong trí. 
Mặt mỗi lúc một nóng thêm, gan ruột mỗi lúc mỗi bồn cồn thêm, rồi thì cô thấy xâm xâm tối mặt như lúc sắp sửa phải cảm độ trước. 
- Em đi chợ đây chị ạ! Chị có mua gì hay không? 
Tiếng nói thỏ thẻ thình lình tử cửa kéo vào, làm cô mở bửng mắt ra. Cô Bích vừa đến cạnh giường với bộ mặt nhí nhảnh và tiếp: 
- Chị làm sao mà mặt đỏ bừng lên thế? 
Cô ngồi vùng đậy mà đáp: 
- Không biết làm sao từ lúc ăn cơm đến giờ, tự nhiên chị thấy hầm hập như người sắp phát sốt ấy em ạ. Em hãy ra bể múc cho chị một bát nước mưa. 
- Chết nỗi! Chị uống nước mưa có độc cho không? 
- Không độc đâu. Chị xót ruột lắm, chị muốn uống một bát nước mưa cho mát. Em cứ múc vào đây cho chị. Giấu đi, đừng để thầy mẹ trông thấy. 
Ngoan ngoãn, cô Bích trở ra. Một lát, cô ấy rón rén trở vào với một bát nước trong như nước suối. Sẽ sàng đón lấy bát nước của em, cô Ngọc uống òng ọc một hơi. Nước vào đến đau, ruột gan thấy mát đến đấy. Cô Bích nhanh nhầu cất gánh đi chợ, để lại cho chị cả một gian phòng tịch mịch và những luồng tư tưởng vẩn vơ. 
Cô toan đứng dậy ra sân để cho dứt những cái nghĩ ngợi quanh quẩn. Nhưng khi cầm gương lên soi thây hai má còn đỏ bừng bừng, cô lại vớ lấy quyển Kiều rồi sẽ nghiêng mình xuống giường. Song cô không coi, cuốn sách vẫn úp trên ngực, hai mắt cô vẫn lờ đờ nhìn lên mái nhà. 
"Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen...". Nghĩ vậy rồi cô lại tự gạt đi: “Sao ta lại tơ tưởng mãi nhưng chuyện của người? Ơ hay, con đã mọc răng, nói năng chi nữa.” 
Thôi, trăm đường tránh chẳng phải số, số có tự nhiên sẽ có, nếu số không có, cầu cung chả được, hơi đâu mà...". rồi cô quả quyết ngồi dậy và lại cầm gương lên soi. Ngoài cổng có tiếng gậy chống lộc cộc, cô vội nhô đầu nhìn ra. Cụ bảng Tiên Kiều đương đủng đỉnh bước vào trong cổng với chiếc gậy trúc và một cậu bé con xách cái túi gấm theo sau. Lật đật cô vội ra sân đuổi chó và cúi đầu chào cụ bảng: 
- Lạy bác ạ? 
Cái nón dứa trên đầu sẽ gật một cái, cụ bảng tơi tả cười hỏi: 
- Con Ngọc đấy à? Mày đã bằng cũ chưa cháu? Thầy có ở nhà đấy chứ? 
Lễ phép, cô đáp: 
- Thưa bác, cháu đã gần được bằng cũ. Thầy cháu có nhà đấy ạ. 
Rồi cô nhanh nhẩu đứng ra một bên, để giữ cho con chó xồm khỏi sủa. Ông đô Vân Trình vừa ở trong nhà bước ra. Hai ngài vái nhau một cái cực kỳ long trọng, rồi cùng đi vào trong thềm. Sau khi đã hạ chiếc nón dứa trao cho cậu học trò treo lên trên vách, cụ bảng mở túi lấy vuông khăn mặt lau qua những giọt mồ hôi trên trán, rồi cụ ngồi luôn vào phản, vừa cầm cái quạt phe phẩy, vừa cất cái giọng sang sảng: 
- Nóng quá, tôi đi đã sớm, thế mà còn thấy bức bối khó chịu. Nếu chậm lát nữa, có lẽ phải lăn ra đường. . . 
Ông đồ cung ghé vào phản và nói một cách vui vẻ: 
- Bác nhiều hơn tôi năm tuổi, nhưng xem ý còn mạnh hơn tôi. Chính tôi bây giờ đi sang bên bác, nhiều khi đã thấy mỏi chân, phải nghỉ đến hai ba chỗ. Nếu tôi bằng tuổi bác, có lẽ sẽ không đi được từ đây đến làng Tiên Kiều. 
Cụ bảng tươi cười: 
- Ừ, tôi vẫn biết bây giờ bác đã ngại đi. Sáng nay, tôi toan cho người mời bác sang chơi nói chuyện. Nhưng sợ bác vẫn biếng đi, nên tôi lại phải cố sang. 
Cụ đồ vội hỏi: 
- Bác đã có chuyện gì lạ! 
Cụ bảng vẫn cười: 
- Lạ thì không lạ. Nhưng nó cũng không phải là một việc thường. 
- Việc gì vậy? 
- Tôi muốn đưa ông thám, ông bảng đến nhà cho bác. 
Cô Ngọc vừa xách siêu nước lên đến đầu thềm. Thoảng nghe câu đó, hai má tự nhiên đỏ bừng. Bẽn lẽn đưa siêu nước cho cậu bé con đi theo cụ bảng, và nhờ cậu ấy nhóm lò đun hộ, cô liền thụt vào trong buồng. Cụ đồ ngay thật hỏi lại cụ bảng: 
- Ông bảng nào? Ông thám nào? Bao giờ thì họ lại đây? 
Cụ bảng cười giòn khanh khách. 
- Thong thả, chuyện đó hãy gác lại đó, để lúc uống rượu sẽ hay. Bây giờ chúng ta uống nước rồi thưởng một vài ván cờ cái đã. 
Lò nước đã nỏ. Cậu tiểu đồng quen lệ mọi ngày nhắc bàn cờ và túi quân cờ trên vách đạt lên trên án. Cụ đồ hạ bàn cờ xuống phản, vừa đổ quân cờ ra bày, vừa ngâm: 
"Kỳ cục tiêu tường hạ, "Tôn tửu lạc dư xuân." 
Rồi cụ lại tán: 
- Hai câu ấy thế mà hay đấy. Trong lúc nóng nực này chỉ đánh cờ là có thể quên sự oi bức. 
Siêu nước đã sôi, cậu nhỏ rón rén tráng qua cái ấm da chu, bỏ chè, chế nước, rót ra chén tống và chuyên vào hai chén con, rồi đệ cả bộ bàn chè lên án. Hai cụ rung đùi thưởng cái hương thơm mát của chè đầu xuân. Cuộc giải khát đã đi hết tuần thứ ba, các cụ bắt đầu quay vào bàn cờ. Cô Ngọc vẫn nằm thủ hiểm trong buồng chờ nghe những lời cụ bảng sẽ nói. Sư im lặng của gian buồng và sự hồi hộp trong quả tim bắt cô suy nghĩ đến câu cụ bảng mới nói vừa rồi. “Cớ sao bác bảng lại nói đột ngột như vậy? Hay là bác ấy đã biết tâm sự của mình rồi chăng! Không có lẽ cứ như em Bích kể lại, thì hôm nọ, trong lúc nói mê, nói sảng, mình cũng xưng là cô thám, cô bảng luôn luôn. Nhưng đó chẳng qua là tiếng nói của kẻ bị mất trí khôn, chắc không ai để ý...". Thế rồi, mồ hôi toát ra, cô tự thấy mình xấu hổ như đã làm một điều vô ý trước đám đông người. Ở nhà ngoài, cuộc cờ đến lúc xô xát tiếng cười giòn giã xen lẫn với tiếng quân cờ chí chát đụng nhau, khiên cô dứt hẳn được sự nghĩ ngợi lấn quẩn. 
Bóng nóng đã ra đến cột giàn hoa, trong buồng nóng như cái hầm, cô toan đứng dậy ra vườn hóng mát, chợt trông đến cái quả trầu, cô mới nhớ ra từ nãy đến giờ, quên chưa têm trâu.Sẽ sàng ngồi dậy, cô đi lấy dao bổ cau rọc trầu, têm mấy chục miếng xệp vào cơi, rồi đưa cậu nhỏ đặt giúp lên chỗ hai cụ. Bà đồ đi chợ đã về. Nhanh nhảu cô ra đón thúng để mẹ vào chào cụ bảng, rồi cô xuống bếp sửa soạn đồ rượu. Theo ý bà đồ, thì cô còn phải kiêng nước, kiêng lửa vài ba ngày nữa cho được thật khỏi. Nay vì trong nhà có khách, trời cũng đã trưa, sợ rằng một mình lủng củng, hoặc giả cơm khách trễ quá, nên bà đành để con gái mó vào những việc lặt vặt. 
Cuộc cờ trên nhà đã hết hai ván, đồ chén cũng vừa làm xong. Vì nhà không có đầy tớ, cô phải rón rén lên dọn bàn cờ, rồi để mâm rượu vào đó, và bảo cậu nhỏ sang bên buồng học ăn cơm. Sau khi cụ bảng đã gửi lời cô xuống chào bà đồ, hai cụ cùng quay vào mâm. Chén rượu đã rót một lần thứ nhất, bà đồ vui vẻ ở nhà dưới lên để đáp lễ lại lời chào của ông bạn chí thân với chồng. Cụ bảng chỉ vào chiếc ghế bên cạnh và nói: 
- Mời bác hãy ngồi lên đây xơi nước, tôi có câu chuyện muốn nói với cả bác trai bác gái. 
Rồi cụ nhìn vào ông đồ: 
- Con Ngọc năm nay mười chín tuổi rồi phải không? 
Ông đồ ra vẻ ngạc nhiên: 
- Cháu nó mới có mười tám. 
Cụ bảng lẩm nhẩm bấm đốt ngón tay: 
- Được! Mười tám lại còn tốt hơn mười chín. 
Uống cạn chén rượu, cụ tiếp: 
- Bác đã có biết Tư Hạc học trò tôi chứ? 
Ông đồ lắc đầu: 
- Tôi chỉ nghe tiếng anh ta, chứ không rõ lắm. Có phải tên hắn là Đào Vân Hạc đó không? 
- Phải đó! 
- Anh ta người ở đâu nhỉ? 
- Hắn ở Quốc Oai. Con trai út cụ cống Đào Nguyên đấy mà. Trong học trò tôi, có hắn linh lợi hơn cả. Vì tình thân với cả hai bên, tôi muốn nói với hai bác gả con cháu Ngọc cho hắn. 
Vừa cầm nai rượu tự róc vào chén của mình, cụ bảng vừa thêm: 
- Nếu như hai bác muốn cho con cháu được làm cô thám, cô bảng, thì ngoài hắn ra, chắc không có người nào hơn. Tôi nói thế, không phải quá khen học trò của tôi. Kể ra, cái tài thám, bảng, thiên hạ vẫn không thiếu gì, nhưng phần nhiều họ đã cao tuổi hoặc là họ quen cố chấp câu nệ, không ai được hoạt bát như hắn. 
Ông đồ ra vẻ tơi tả: 
- Bây giờ bác nói tôi mới nhớ ra. Trong kỳ bình văn ở trường bác hồi đầu năm ngoái, tôi đã xem qua quyển của anh ta. Kể thì anh ta cũng là một tay đại tài, tôi không chê một điều gì. Nhưng việc gả bán cho cháu thì tôi nhường quyền bà nó. 
Rồi ông quay sang bên phía bà đồ: 
- Thế nào? Ý bà ra sao, thì nói với bác. 
Bà đồ rẽ ràng: 
- Cụ cống mất rồi, thưa bác? 
- Phải, cụ ấy mất từ lúc Tư Hạc còn nhỏ. 
Bà đồ ra ý ngần ngại: 
- Trên cụ cống cũng là một nhà danh vọng ở tỉnh Đoài với nhà tôi thật là môn đương hộ đối. Tôi chỉ hiềm một điều rằng chúng tôi hiếm hoi, chỉ được hai đứa cháu gái, muôn gả chồng cho nó ở chỗ gần nhà, để khi mẹ con đi lại cho tiện. 
Cụ bảng nói vui như tết: 
- Điều đó bác không quản ngại. Từ đây lên đến quê hắn, vừa đi vừa về, chỉ hết độ già nửa ngày, có gì là xa. Nếu bác sợ xa, thì tôi bắt hắn phải đến gửi rể. Việc này tự tôi chủ trương tất cả. Bởi thấy nó là mối lương duyên nên tôi muốn cướp quyền của ông tơ hồng xem sao! 
Bà đồ không còn lẽ gì từ chối, liền chuyển câu chuyện sang cho ông đồ. 
- Nếu thế thì xin tùy ý thầy cháu. Thầy cháu bằng lòng, tôi cũng xin vâng lời bác. 
Ông đồ khôi hài: 
- Khéo lắm. Tôi đưa cho bà, bà lại còn đưa cho tôi. 
Rồi ông rót rượu vào chén cụ bảng và tiếp: 
- Con tôi cũng như con bác. Tùy bác muốn gả cho ai thì gả. Quyền ông tơ hồng bác còn muôn cướp huống chi quyền tôi. Có điều tôi muôn bác hãy thong thả, để tôi bảo qua với cháu. 
Cụ bảng vẫn cười: 
- Cố nhiên cũng phải hỏi ý nó chứ. Nhưng tôi xem chúng nó cũng ngoan ngoãn dễ bảo, tôi nói phắc nó phải nghe. Vậy xin bác hãy cho gọi nó ra đây để tôi bảo thẳng với nó. 
Nãy giờ, cô Ngọc vẫn ngồi im lặng trong buồng, không dám đánh tiếng. Khi nghe cụ bảng nói đến câu đó, cô liền cất lẻn đi xuống nhà dưới. Bà đồ theo xuống tận nơi, và nói một cách ngọt ngào: 
- Con lên nhà khách, bác bảng muốn hỏi gì con đấy. 
Cô Ngọc đỏ mặt tía tai, và nói một cách nũng nịu: 
- Thôi con chả lên. 
Bà đồ tủm tỉm cười nụ : 
- Bác bảng muốn làm mối mày cho anh khóa Hạc, học trò của bác ấy, có thuận thì lên mà nói với bác. 
Cô Ngọc gục đầu xuống gối và sẽ thỏ thẻ: 
- Tùy thầy, tùy mẹ, con không biết. 
Rồi cô e lệ đứng dậy và đi sang nhà hàng xóm. Bà đồ lại lên nhà khách nói với cụ bảng: 
- Thưa bác, cháu nó xấu hổ, không đám lên ạ! 
Cụ bảng lại cười: 
- Thôi được. Nó xấu hổ tức là nó đã thuận đấy. Vậy thì hai bác nhận lời cho tôi đi thôi. 
Bà đồ cáo biệt đi xuống nhà dưới. Hai cụ gật gù đánh chén mãi đến quá trưa mới xong. Cô Ngọc vẫn còn núp bên hàng xóm chưa về. Cậu nhỏ người nhà cụ bảng phải dọn mâm bát và lấy tăm nước. 
Mặt trời tà tà, cụ bảng mới từ biệt ra về. Trước khi đứng dậy, cụ còn dặn lại ông đồ: 
- Độ mấy bữa nữa, tôi sẽ lại sang nói chuyện với bác.
"Buổi sáng ở Sài Gòn" - tranh của họa sĩ Sotoshi Kudo
Chương 5
Một hồi gà gáy âm ô, làm cho Vân Hạc giật mình thức giấc. Ngọn đèn trên quang lù mù sắp tắt, đọi dầu đã gần cạn khô. Không muốn làm phiền thằng nhỏ, chàng tự đứng lên rót dầu vào đèn, và dụi cái tàn đỏ ối ở đầu sợi bấc. Rồi chàng mở cửa ra sân. 
Trăng chưa lặn. Ánh vàng chênh chếch nhòm vào giàn hoa. Những bóng cây nhài, cây mộc dương leo lên thềm. Mặt thềm khoang khua như một bức tranh thủy mặc. 
Trời hãy còn sớm. Trống ngoài điếm mới điểm canh tư. Các nhà láng giềng vẫn im phăng phắc. 
Chàng toan vào phòng ngủ thêm. Sực nhớ hôm nay là kỳ bình văn, phải đến trường sớm hơn mọi ngày, ngủ nữa, e rằng quá giấc, quá trưa, thì đi không kịp. Chàng bèn súc miệng, rửa mặt, rồi một mình đủng đỉnh dạo dưới bóng trăng. 
Trong đám ánh trăng trong vắt, thỉnh thoảng điểm một luồng gió hiu hiu, hết thảy bóng cây trước sân đều bị rung động. Chàng bỗng tưởng đến cái cảnh Trương Sinh đợi Thôi Oanh Oanh trong truyện Tây Sương liền ngâm: 
"Đãi nguyệt Tây sương hạ. 
Nghênh phong hộ bán khai. 
Cách tường hoa ảnh động. 
Nghi thị ngọc nhân lai". 
Thế rồi hình ảnh cô Ngọc tức thì hiện ra trong óc Chàng khen ông đồ Vân Trình cũng khéo tìm chữ đặt tên cho con. Với cái nước da trắng nõn, với cái khuôn mặt trái xoan và cái dáng bộ yểu điệu, nàng thật đáng gọi là ngọc nhân lắm. Chàng nhớ những hôm qua chợ Kim Bảng, tình cờ nhìn hàng nàng, bao giờ nàng cũng tươi như bông hoa, và không bao giờ mà nàng có vẻ ngoa ngoắt, trai lơ như bọn con gái kẻ chợ. Chàng tự cho rằng mình lấy được nàng, tức là danh sĩ sánh với giai nhân, chăng kém gì những cặp vợ chồng trong tiểu thuyết. 
Nhưng chàng lại băn khoăn rằng trước kia nàng đã đính hôn với Trần Đằng Long, thì với chàng, nàng đã là vợ chưa cưới của một người bạn. Bây giờ nếu chàng kết duyên với nàng, hoặc giả cũng bị thiên hạ chê cười. Rồi chàng tự an ủi rằng việc này do ở cụ bảng ép chàng, không phải tự chàng mà ra. Một người đạo mạo nghiêm nghị và yêu chàng, quý chàng như cụ bảng Tiên Kiều, không lẽ lại dạy học trò làm điều trái với danh giáo? Song chàng vẫn không hiểu vì sao cụ bảng lại cô ghép nàng với chàng, vì sao hôm nọ, trong khi khuyên chàng lấy nàng, cụ lại bảo rằng nếu chàng bằng lòng cưới nàng làm vợ, tức là cứu cái đời nàng, tức là làm ơn cho Trần Đằng Long? "Hay là nàng với nghè Long ngày xưa đã có gì ám muội?" Chàng nghĩ như thế, rồi chàng lại tự hối hận, cho là mình đã vô lễ với nàng. Chàng tin nàng là con nhà gia giáo, không khi nào lại làm những việc bất chính. 
Mặt trăng từ tử luồn vào bóng mây, bầu trời dần dần vẩn đục. Chàng bèn lững thững bước vào trong phòng. Vừa đi, chàng vừa lẩm bẩm một mình. “Có lẽ vợ chồng là duyên số thật. Ừ, xưa kia mình tuy biết nàng, nhưng vẫn chẳng hề nghĩ đến nàng. Thế mà từ bữa nghe đồ Mẫn nói, nhất là từ bữa nghe cụ bảng nói đến giờ, không phút nào mà ta quên nàng. Cái đó mới lạ cho chứ! Không biết trong những lúc này, nàng có nghĩ gì đến ta không? Chắc có! Ta nhớ nàng, tất nhiên nàng cũng nhớ ta, nếu như cụ bảng đã ngỏ cho nàng biết cái ý định của cụ.” 
Trời sáng, Vân Hạc cắp nón vừa ra đến cổng, thì gặp Khắc Mẫn. Hai chàng liền sánh vai cùng tới trường học. 
Trong các lò "rèn đúc nhân tài" bấy giờ, trường của cụ bảng Tiên Kiều là lớn hơn hết. Trừ ra mươi cậu đồng sinh là những con cháu trong nhà, học trò cụ bảng chỉ có hai lớp đại tập và trung tập. Trung tập hàng ngày phải đến nghe sách, hàng tuần phải học làm văn. Còn đại tập thì mỗi tháng tập văn hai kỳ. Kể cả đại tập và trung tập, học trò trong trường có tới gần ba trăm người. Vân Hạc và Khắc Mẫn đi đến cửa trường thì các cậu học trò trung tập cũng vừa kéo đến. 
Sau những chiếc nón sơn quai chuỗi lần lượt úp lên các tường, cả mấy trăm người nghiêm trang ngồi sắp hàng ở các dãy ghế. Cụ bảng còn ở nhà trong chưa ra. Một cậu học trò bé con chạy đến rỉ tai Vân Hạc: 
- Thầy bảo anh bình văn xong rồi, phải ở lại đây, để thầy còn dặn gì đấy. 
Rồi thì học trò đại tập lục tục đến dần. Rồi thì, năm gian tiền tế thênh thang như năm gian đình dần dần hiện ra quang cảnh chật hẹp, kẻ ngồi người đứng lố nhố khắp trong nhà ngoài thềm. 
Trống cái thong thá điểm một hồi ba tiếng. 
Học trò trên các phản ghế hết thảy trở lại hàng lối nghiêm chinh. Hai cậu nhỏ tuổi lễ mễ bưng điếu bưng tráp và mang giỏ ấm, khay chén đặt lên án thư. 
Những tiếng thì thầm xôn xao nhất tề im bặt. Cụ bảng từ nhà trong ra với một bộ khăn áo chỉnh tề. Trên các phản ghế, học trò răm rắp đứng dậy khắp lượt. 
Khoán thai cụ ngồi vào tấm ghế sau chiếc án thư và mở nắp tráp lấy gói thuốc lá ra cuộn. Tất cả học trò lại cùng răm rắp ngồi xuống. Một cậu nhó tuổi lễ phép đến trước án thư sẽ bưng bộ đồ đánh lửa ra thềm . 
Qua một hồi kỳ cạch của hòn đá lửa đập vào thỏi sắt, lửa ở trong đá đã bắt ra lớp bùi nhùi trong cái hộp gỗ và bén vào đó, cậu ấy rón rén nhón lấy một ít bùi nhùi có lửa, tiếp vào mồi giấy, phì phò thổi cho thành ngọn, để châm sang sợi ruột gà và châm lửa vào mồi thuốc lá đã cuộn, cụ bảng ra hiệu cho các học trò đọc sách. 
Một câu trung tập cung kính đệ một chồng sách in lên án. Bằng một câu xin phép rất lễ độ và mấy tiếng đằng hắng rất dõng dạc, một cậu tốt giọng nhanh nhẹn mở sách ra đọc. 
Tất cả học trò cặm cụi mở sách ra coi. 
Theo lệ hàng ngày, mỗi buổi đều đọc đủ ba thứ sách: kinh, truyện và sử. 
Hôm nay bắt đầu đọc Kinh dịch, rồi đến sách Trung dung rồi đến cuốn Tống sử. Mỗi khi đọc hết bài cái, bài bàn của một chương nào trong sách, cả trường im lặng như tờ. Mấy trăm con.mắt đều chăm chỉ ngó vào cuốn sách của mình. Mấy trăm lỗ tai đều bình tĩnh đợi nghe lời giảng của thầy. Bằng cái giọng sang sảng như tiếng chuông đồng, cụ bảng giảng rất rành mạch từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, từ nghĩa gần đến nghĩa xa, cụ chỉ rõ ràng lời bàn nào là phải, lời bàn nào là quấy. Cụ nói như rót vào tai học trò. Khi giảng đến hào lục tam của quẻ Khôn Kinh dịch, cụ đặt nồi thuốc xuống án và hỏi một cách sửng sốt: 
- Các anh nghe chương này có thấy gì không. 
Các cậu học trò đều không trả lời, vì không hiếu ý cụ hỏi ra sao. Cụ liền nhìn vào cuốn sách và cất cao giọng: 
- "Lục tam, hàm chương khả trinh. Hoặc tòng vương sự, vô thành, hữu chung.” 
Và cụ lại gặng: 
- Các anh tưởng nó có đúng với điệu lục bát trong các ca dao của ta hay không? Rồi cầm mồi thuốc hút thêm một hơi, cụ vừa rung đùi vừa tiếp: 
- Trong kinh, truyện, sử, mỗi bộ đều có một câu lục bát. Ở kinh là câu ấy rồi, còn ở truyện thì là câu gì? 
Các cậu học trò cố sức lục hết trí nhớ để tìm lấy câu trả lời. Nhưng không ai nói câu nào. Cụ vuột chòm râu bạc phơ và ngâm: 
"Phù thủy, nhất thước chi đa. 
Cập kỳ bất trắc ngoan đà giao long...".
Rồi cụ lại hỏi: 
- Phải câu ấy ở sách Trung dung, các anh mới đọc hôm qua đó không? Sao mà chóng quên vậy? Nếu như trời cho đỗ đạt, được sang sứ Tầu, các anh sẽ đối đáp làm sao cho khỏi nhục đến quân mệnh! 
Các câu học trỏ đều cúi gầm mặt, tỏ ra dáng bộ bẽ bàng . Cụ ngửng một lát rồi thêm: 
- Còn câu ở sử, chắc chắn các anh cũng không thể nhớ. 
Và cụ ngân giọng: 
"Đế sĩ Sái Xác hữu công, 
Sử chi tòng tự Triết tông miếu đình...". 
Rồi cụ ngẩng lên nhìn các học trò và nói: 
- Các anh thử giở cuốn Tống Cao Tôn mà xem, câu đó ở ngay đầu sách đấy mà. 
Các câu học trò im lặng phục thầy là bậc nhớ sách. Cụ bảng mở giỏ, rót một chén nước nhấp giong, rồi cụ cắt nghĩa: 
- Cũng vì có mấy câu đó cho nên từ xưa đến nay đã có nhiều người cho rằng: lối văn trên sáu dưới tám của ta gốc ở kinh, truyện và sử mà ra. Nhưng theo ý ta, thì nói như vậy có lẽ cũng quá khiên cưỡng. Trời đã sinh ra mỗi nước có một thứ tiếng, thì tất nhiên mỗi nước cũng phải có một điệu hát. Nếu bảo điệu hát lục bát gốc ở kinh, truyện và sử, thì sao ở Tầu lại không có cái thể văn ấy? Tuy vậy, các cụ đời trước nói thế, bây giờ mình cũng hãy hay rằng thế, để rồi kê cứu dần dần, không nên vội vàng bài bác. 
Hết cuộc chuyệnn phiếm, một cậu học trò thay lượt cậu trước đọc cuốn Trung dung. Rồi một cậu nữa lại tiếp cậu này đọc cuốn Tống sử. Mặt trời đã cao, cuộc nghe sách của học trò trung tập mới hết. Lúc này học trò đại tập đã đến đông đủ. Trong năm gian nhà ngột những hơi người. Cụ bảng tạm nghỉ để quạt cho ráo mồ hôi. 
Học trò lác đác đứng dạy ra sân hóng mát. 
Khắc Mẫn dắt Vân Hạc và mấy người nữa đến ngồi túm tụm ở dưới gốc nhãn, rồi họ thi nhau bắt Vân Hạc phải đọc những bài văn của chàng trong kỳ này cho họ nghe trước. Một cậu học trò đủng đỉnh đến trước Vân Hạc nhìn chàng bằng con mắt ranh mảnh và tủm tỉm cười. Vân Hạc đoán là hắn đã hiểu biết việc riêng của mình, liền hỏi: 
- Mày cười cái gì, thằng Cung? 
Người ấy vẫn cười: 
- Mai kia tao sẽ cho mày bài thơ. 
Vân Hạc cũng cười: 
- Được! Có giỏi mày cứ làm! Nếu thơ không hay, tao sẽ nọc cổ đánh cho ba chục. 
Ngoài cổng có tiếng cười nói giòn giã. Một lũ nón dứa quai lụa bạch lần lượt từ cổng tiến vào trong sân. Các cụ nghè, cử, bạn thân của cụ bảng và là sơ khảo, phúc khảo của các quyển tập đến dự bình văn. 
Cụ bảng lật đật đứng dậy đón khách. 
Sau mấy cái vái trịnh trọng rước mấy ông khách lên thềm, cụ bảng vui vẻ nói: 
- Chết chửa nắng quá! Các bác đi sớm ít nữa, có mát hơn không? 
Cụ nghè Quỳnh Lâm chỉ vào cụ cử Liên Trì và đáp: 
- Nếu tôi không cố phá đám, thì ông lão này còn ngồi ngất ngưởng với nai rượu thuốc, chứ đã chịu đi cho đâu. 
Cụ cử Liên Trì mỉm cười đế đưa hai câu thơ cổ: 
"Bách niên tam vạn lục thiên nhật, 
Nhất ẩm tu khuynh tam bách bôi"
Các cụ cùng ngồi lên chiếc phản giữa. Ai nấy phì phạch quạt lấy quạt để. Nhưng vẫn không ai chịu bỏ khăn áo Cụ bảng phải sai hai cậu bé con cầm đôi quạt lông đứng hai đầu phản phẩy vào. 
Cạn ba tuần chè tầu, cụ bảng lục lại tập văn của học trò và chọn mấy quyển được bình để riêng một chồng. 
Hôm nay là kỳ tứ lục: một bài chiếu và một bài biểu. Tất cả độ hơn mười quyển được đọc. Chỉ có một quyển của Đào Vân Hạc dấu sơ dấu phúc phê ưu, dấu ngoại phê "bình", và năm quyển nữa ba dấu đều phê “bình", được đọc từ đầu đến cuối. Còn các quyển khác, hoặc "bình thứ", hoặc "thứ mác" chỉ được đọc lỏi từng đoạn. Những quyển được đọc, mặt quyển đều có đề một chữ "bình". Những đoạn được đọc thì ở cạnh các dòng chữ đều có đánh dấu bằng "chấm mắt ngỗng". Soạn xong tập quyển, cụ bảng cầm trao cho mấy ông bạn: 
- Các bác coi lại. Nếu có quyển nào không đáng cho đọc, thì xin bỏ đi. 
Mỗi cụ đón lấy vài quyển, coi qua một lượt, rồi: 
- Được cả không có quyển nào phải loại. 
Cụ nghè Quỳnh Lâm cầm quyển của Đào Vân Hạc chìa hỏi cụ bảng: 
- Quyển này chúng tôi đã phê "ưu” cả, sao bác lại đánh xuống "bình”? 
Cụ bảng rẽ ràng đáp: 
- "Bình" là phải! Các bác cho "ưu” cũng khí quá đáng. Vả lại hắn còn ít tuổi, phải cần mài dũa cái tính hiếu thắng. Nếu như kỳ nào cũng "ưu”, e rằng hắn sẽ coi mình là thánh là trạng, không chịu học hành, ấy là có hại cho hắn. 
Rồi cụ trông xuống đám học trò ngồi cạnh: 
- Trưa lắm rồi, ai lên đem quyển xuống đọc đi chứ! 
Khắc Mẫn lễ phép đứng lên và tiến đến trước án thư. Cụ nghè Quỳnh Lâm đưa cho thầy cuốn văn của Đào Vân Hạc và dặn: 
- Đọc quyển này trước! 
Khắc Mẫn lĩnh quyển văn đi xuống chỗ cũ. Mài mực, tẩm một ngòi bút thật đẫm. Một tay cầm bút, một tay. cầm quyển, thầy bắt đầu đọc bài chiếu trước. Tất cả học trò đều giở một tập giấy bán đặt lên đầu gối. Tai nghe văn, tay thì viết lia viết lịa. Văn đọc đến đâu, họ phải cố viết cho kịp đến đây. Chữ thảo một lối lòi tói như sợi xích chó. Với một giọng vừa kêu vừa trong, Khắc Mẫn đọc rất dại dễ, gãy gọn, từ đoạn nọ đến đoạn kia, mạch lạc cực kỳ phân minh. Nhất là những lúc lên giọng, xuống giọng, tiếng thày càng réo rắt dịp dàng, khiến cho câu văn càng nổi. 
Cái nhà chứa gần ba trăm con người lúc ấy có vẻ nghiêm tĩnh của một tòa cổ miếu. Ngoài tiếng bình văn của Khắc Mẫn và tiếng khen hay của các khảo quan, cơ hồ không còn có gì khác nữa. 
Hết bài chiếu đọc đến bài biểu. Mở đầu hai câu “phục dĩ", cụ cử Liên Trì và cụ nghè Quỷnh Lâm rối rít giục điểm, giục khuyên. Khắc Mẫn miệng đọc tay chép, mắt thì nhìn vào quyển văn, cuống quít như người phường trò vừa hát vừa phải đánh tiếng gõ mõ. 
Đọc xong quyển của Vân Hạc, cụ bảng lại bảo tạm nghỉ để các học trò uổng nước và hút thuốc lào. Những người viết chậm, tranh nhau mượn quyển Vân Hạc để họ chép lại những đoạn lúc nãy phải bỏ cách quãng vì viết không kịp. Như quên cả sự oi bức, ngườii ta xúm nhau đến hơn chục người ngó vào quyển văn. 
Cụ nghè Quỳnh Lâm sai người lấy chiếc ghế đẩu bắc ở bên cạnh, gọi Vân Hạc cho ngồi ở đó, tự mình rót một chén nước trao cho Vân Hạc, và cụ tấm tắc khen ngợi: 
- Văn cậu khá lắm! Đỗ đến nơi rồi. Cậu phải cố đi, khoa hương này hãy lấy cho bác cái thủ khoa, rồi hội sau thì lấy cho bác cái đình nguyên nữa. Tiền trình của cạu có cơ viễn đạt, bác lấy làm mừng! 
Vân Hạc chỉ lễ phép đón lấy chén nước, không dám trả lời, vì chàng không biết trả lời thế nào. Cụ nghè quay mặt sang phía cụ bảng và thêm: 
- May được người con nối nghiệp, bác cống Đào Nguyên tuy mất cũng như còn sống. 
Cụ báng ngần ngừ lắc đầu: 
- Tôi chưa dám chắc như vậy. Là vì văn chương của hắn tuy có lỗi lạc, nhưng vẫn không khỏi có chỗ cầu kỳ sính tài, lại thường vượt ra ngoài qui củ. Nếu gặp quan trường thì hắn có thể đỗ cao. Nhưng nếu không gặp, tất nhiên sẽ bị hỏng tuột. Bao giờ hắn chừa được cái tật ấy, thì mới có thể chắc được! 
Rồi cụ gọi các học trò và hỏi: 
- Các anh nghe quyển Vân Hạc thế nào? Có thấy cái bệnh gì không? 
Hết thảy im lặng, không có ai đáp. Cụ tiếp: 
- Văn chương anh ta tuy cũng khá đấy, nhưng phải cái tật rất lớn là có nhiều đoạn rắc rối, bướng bỉnh, không chịu theo đúng khuôn phép. Đó là một điều tối kỵ trong các lối văn cử nghiệp, nhất là thể văn tứ lục. 
Cụ cử Liên Trì nói xen: 
- Phải! Văn chương cầu thị bất cầu kỳ, nếu quá cầu kỳ tất nhiên không lợi trường ốc. Bởi vì, trong lúc quan trường chấm văn, người ta chấm như ăn cướp, một khắc phải chấm đến mấy chục quyển, còn thì giờ đâu mà nghĩ ngấm nghĩ nghía cho mình? Thói thường hễ mà dấu "sơ” đã chấm thế nào, ấy là dấu "phúc", dấu “giám" lại chấm thế ấy, nếu như mình đặt một câu cầu kỳ, hoặc là ý nghĩa quá ư sâu xa, mà trong lúc vội vàng, ông sơ khảo không kịp hiểu hết, ông ấy sổ cho vài chiếc và phê cho một chữ "liệt”, thì rồi những ông phúc khảo, giám khảo cũng lại sổ theo, và cũng phê cho vài chữ "liệt" nữa. Cái quyển đã đến ba "liệt”, ông phân khảo khó lòng mà giám phê "bình" phê "ưu”. Thế là hỏng oan chứ gì. 
Cụ nghè Quỳnh Lâm nối lời: 
- Ấy, cụ Nguyễn Công Hoàn ngày xưa suốt đời thi hỏng cũng chỉ vì có tật ấy. 
Hồi cụ quay ra hỏi các học trò: 
- Các thầy đã nghe chuyện cha con cụ Nguyễn dành nhau về một câu tứ lục hay chưa? 
Rồi không đợi học trò trả lời, cụ kể: 
- Cụ Nguyễn Công Hoàn là bậc danh sĩ đời Lê, văn hay, học rất uẩn súc, chỉ phải cái tật đặt cậu cầu kỳ, thành ra thi mãi không đỗ. Ông Nguyễn Công Lân là con, sức học tuy còn kém cụ rất xa, nhưng mà văn chương hoạt bát, ngoài hai mươi tuổi đã đỗ hương cống, rồi lại đỗ luôn tiến sĩ. Khoa ấy, tôi không nhớ là khoa nào, ông Lân đã làm chủ khảo, cụ Nguyễn vẫn còn cắp quyển đi thi, và cũng lại hỏng như trước... 
Nói đến đấy, cụ nghè ngừng lại, để uống hớp nước nhấp giọng, rồi tiếp:  
- Thế rồi đến khi việc trường đã xong, ông Lân về nhà thăm cha. Đầu tiên, cụ Nguyễn hỏi ngay: 
”Khoa này có được quyển nào khá không?”. Ông con ngay thật thưa rằng: "Có một quyển khá, chỉ vì phải câu tứ lục thất niêm., không thể lấy đỗ". Cụ Nguyễn liền gặng. "Câu tứ lục ấy thế nào? Có nhớ không?" Ông con thưa rằng có nhớ và đọc như vầy: "Lưu hành chi hóa tự tây đông, nam bắc vô tư bất phụ. 
Tạo tựu chi công tự Cảo Mân, Kỳ Phong dĩ mạc bất hưng"
Rồi thì ông ấy lại tiếc ngậm ngùi mà rằng: “Nếu như câu dưới, họ đảo hai chữ "Cảo Mân" ra làm "Mân Cảo", cho đúng niêm luật, thì hai câu ấy hay biết chừng nào". Cụ Nguyễn không đợi cho con hết lời, vác gậy phang luôn chừng vài chục gậy. Và cụ nghiến răng nghiến lợi, chửi mắng tàn nhẫn. Cụ bảo ông con dốt nát như thế mà đi chấm trường, chôn sống biết bao nhiêu người...". 
Cụ nghè lại nhìn học trò và hỏi: 
- Các thầy có biết tại sao cụ Nguyễn phải đánh một ông chủ khảo như vậy? 
Học trò còn đương im lặng suy nghĩ, cụ nghè lại tự cắt nghĩa: 
- Thì ra hai câu tứ lục ấy chính của cụ Nguyễn, ý cụ đặt như thế này: 
"Lưu hành chi hóa tự Tây, Đông Nam Bắc vô tư bất phục, 
Tạo tựu chi công tự Cảo, Mân Kỳ Phong dĩ mạc bất hưng"
Học trò nghe rồi, ai nấy sung sướng như nghĩ ra một điều mới lạ. Cụ cử Liên Trì nói thêm: 
- Nếu như nghĩ một chút, chắc ai cũng nhận thấy rằng: trong hai cấu đó, câu trên tất phải ngắt đến chứ "Tây", câu dưới tất phải ngắt đến chữ "Cảo". Chứ nếu chấm như kiểu ông Lân, một đằng ngắt đến chứ "Đông", một đằng ngắt đến chữ “Mân" thì không có nghĩa gì cả. Bởi vì nhà Chu khởi ở phương Tây, đóng kẻ chợ ở đất Cảo, người ta chỉ có thể nói: "Cái thói trôi đi nổi tự phương Tây, các phương Đông Nam Bắc đâu đâu cũng phục . Cái công đắp dựng gây từ xứ Cảo, các xứ Mân Kỳ Phong đều cũng dấy theo”. Chứ ai lại nói: "Cái thói trôi đi nổi tự phương Tây phương Đông... cái công đắp dựng gây từ xứ Cảo, xứ Mân?" Nhưng vì bốn chữ Tây Đông Nam Bắc và bốn chữ Cảo Mân Kỳ Phong đặt liền với nhau, trong lúc vội vàng, câu trên người ta ngắt đến chữ Đông, thì câu dưới người ta cũng lại ngắt đến chữ Mân, như thế, chẳng những thất niêm mà còn vô nghĩa nữa chứ! Ấy đó là văn chương cầu kỳ có hại như vậy. Các thầy nên biết mà tránh. 
Dứt mạnh hiểu dụ của cụ cử, mấy cậu nhỏ tuổi ngoan ngãn tiệp tuần chè tầu thứ hai. Công việc bình văn lại sốt sắng đi theo thứ tự cua nó. Lần này cụ bảng cho đọc đến quyển của Bùi Đốc Cung, cái người trêu ghẹo Vân Hạc lúc nãy. Văn của Đốc Cung tuy không xuất sắc bằng của Vân Hạc, nhưng cũng vào bậc học cứng, lời tươi và kêu như chuông, các cụ sơ khảo, phúc khảo luôn khen “được".
Gần trưa, tan cuộc bình văn. 
Cụ bảng giở dần tập quyển còn lại trên án, gọi tên từng người học trò, quyển của người nào trao trả người ấy. 
Bộ điệu khác nhau của từng người trong lúc lĩnh quyển như muốn tỏ cho kẻ ngoài biết sự hơn kém cua các học trò. Có ông hớn hở tươi cười với cái "thứ mác" con con. Cũng có ông vội vàng gấp tư quyển văn và bỏ vào túi một cách vội vàng để giấu cho kín cái "liệt" hay cái "thứ cộc" ở mặt quyển. Chồng quyển trên án phân phát đã hết, học trò lũ lượt cắp nón đi ra, để lại một mình Vân Hạc vì có lời dặn của cụ bảng phải đợi ở đó. 
Mấy cậu nhỏ tuổi rón rén lấy chậu vẩy nước, quét cho sạch cát bụi và những bã điếu, tàn đóm trong năm gian nhà. Nhà trường dần trở lại quang cảnh thanh vắng như một nơi toàn thạch. Bao nhiêu ánh nắng đều bị ngăn lại trên đám lá um tùm của mấy cây nhãn và giàn thiên lý trước thềm, trong nhà lúc nào cũng mát rời rợi. 
Sau nhà có tiếng lạch cạch. 
Một mâm đồ rượu ngất nghểu ngự trên đầu anh bếp từ từ tiến vào phản giữa. Cụ bảng mời mấy ông bạn uống rượu và cho Vân Hạc bắc ghế ngồi hầu bên cạnh. Cụ cử Liên trì quay lại mâm rượu và nói khôi hài: 
- Hữu tửu thực tiên sinh soạn, hữu sự đệ tử phục kỳ lão. 
Rồi cụ cầm luôn bầu rượu đưa cho Vân Hạc để chàng rót ra các chén. Các cụ cất chén khắp lượt. Vân Hạc vẫn rụt rè giữ lễ chưa dám uống. Cụ nghè Quỳnh Lâm nhất định bắt chàng phải uống. và cũng nói giọng khôi hài: 
- ”Đương nhân bất nhượng ư sư". Cụ Khổng đã dạy như thế, cái đức "nhân" còn không nhường thầy, huống chi một vài chén rượu lại phải sợ thầy hay sao? Cậu cứ uống. Làm đấng tài trai, cần phải ngang tàng mới được, không nên e lệ như bọn con gái. 
Cụ cử Liên Trì mỉm cười: 
- Ấy, họ cũng chí làm gái ở trước mặt chúng mình đó thôi. Khi mà ngồi cạnh nhà trò, tôi chắc mép ấy phái hết hàng hũ. 
Vân Hạc giả vờ cúi mặt để giấu cái bộ buồn cười của mình. Rồi chàng xin phép các cụ và nhắc chén rượu nhấp một hớp nhỏ. Cụ bảng bắt đầu đem chuyện nhân duyên của chàng nói cho mấy cụ kia nghe và thêm: 
- Sở dĩ tôi phải ra công khuôn xếp việc này, cũng vì áy náy cái cảnh vợ chồng anh đồ Vân Trình vầ thương con bé cái Ngọc. Các bác có lẽ chưa rõ đâu đuôi. Con bé ấy trước kia đã nhận lấy Trần Đãng Long, về sau không hiểu vì sao bên này lại thôi không cưới. Thế rồi cái hôm nghè Lòng vinh qui, con Ngọc tình cờ đi qua, nó tiếc cái ngôi bà nghè đến nỗi ngất đi như đứa ngộ gió. Tôi đã chữa bệnh cho nó, phải dùng đến hơn mười thang "khai uất" mới khỏi. Nhưng khỏi là khỏi tạm thời mà thôi, nêu không lấy được người chồng vừa ý thì có ngày nó sẽ phát điên phát rồ. Vợ chông bác đồ Vân Trình chỉ được hai đứa con gái, nó là lớn, nếu nó mà hỏng một đời, thì cảnh già của ông bà ấy cũng đau đớn lắm. Bởi vậy, tôi phải tình nguyện đi làm mối chồng cho nó. 
Cụ nghè, cụ cử tấm tắc khen là mối lương duyên và khuyên Vân Hạc nên mau mau lo việc cưới hỏi, không nên để chậm. Cụ bảng ngắt lời: 
- Cái đó đã ở tôi cả, không việc gì đến hắn. 
Rồi cụ nhìn sang Vân Hạc: 
- Hôm qua thầy cũng cất công sang chơi ông Vân Trình nói về chuyên này. Ông đồ, bà đồ đều bằng lòng. Công việc thế là xong. Ngày mai anh phải về quê thưa với bác cống và anh cả, anh hai... 
Vân Hạc hết sức giữ cho vẻ mặt tự nhiên, chàng chỉ im lặng mà nghe và thỉnh thoảng điểm một tiếng dạ rất khẽ, chứ không nói đi nói lại. Cụ bảng lại ngó mặt chàng: 
- Nhưng phải gửi rể kia đấy. Vì bác đồ gái chê quê nhà anh ở xa quá, có ý ngần ngừ không thuận, nên thầy phải hứa như thế. 
Cụ nghè Quỳnh Lâm tạt ngang: 
- Thế thì cậu khóa sướng bằng vua Thuấn mất rồi. Nhưng mà cháu có muốn học ông Thuấn, chỉ nên học đến cái chỗ gửi rể ấy thôi, chớ có học hơn. Để cho vợ chồng bác đồ Vân Trình kiếm lấy người rể nữa chứ. Cả nhà cười ầm, làm cho Vân Hạc xấu hổ đỏ mặt. Lâu lâu cụ bảng lại quay sang phía Vân Hạc: 
- Còn một điều này, thầy phải nói trước để cho anh liệu: cái chí con Ngọc nó chỉ thích làm bà thám, bà bảng chứ không phải nó muôn làm cô khóa quèn. Vì thế, khi nó nói mê nói sảng, luôn luôn tự xưng mình là cô thám, cô bảng. Rồi khi vợ chồng lấy nhau, anh phải nghĩ vào chỗ đó, làm sao cho khỏi phụ lòng cháu tôi thì làm. 
Cả nhà lại cùng cười vang.
"Lắng nghe" - người đẹp Nhật Bản
Chương 6
Ở nhà ngoài, mấy bàn tài tổ tôm đã tan. Họ mạc tới tấp giục nhau ai vào việc nấy. Đàn ông bắt nốt con lợn làm thịt. Đàn bà đi thắng đường, vo gạo, sắp sửa nấu chè thổi xôi. Ông đồ bà đồ cũng đã trở dậy để sai bảo mấy cậu học trò đun nước quét nhà và nhờ mấy bà cụ già bổ cau têm trầu. 
Cô Ngọc vẫn còn núp ở trong buồng chưa ra. Hôm nay cô chỉ phân vân hồi hộp, chứ không sốt ruột như những hôm trước. Trước kia, từ bữa ông đồ bà đồ chịu lời cụ bảng Tiên Kiều thuận gả cô cho Đào Vân Hạc, cô đã tự thấy nhân duyên của mình cũng không đến nỗi hẩm hiu. Tuy rằng trước mặt chị em chúng bạn, cô vẫn chê Vân Hạc là cốc láo, là kiết xác mồng tơi, và có khi cao hứng, cô còn thề rằng nhất. định đi tu chứ không lấy chàng, và cũng không lấy người nào, nhưng thực ra, với chàng, cô đã mãn nguyện vô cùng. Là vì trong con mắt cô, không có người nào hơn chàng, cả đến nghè Long cũng còn kém chàng rất xa. Chàng rất đứng đắn nhưng không lù đù. Chàng tát mình trai, nhưng không có tính bợm bãi. Những lúc cô ngồi bán hàng ở chợ Kim Bảng, thường có hàng lũ học trò đi qua, phần nhiều họ đều ăn nói chớt nhả, hoặc là con mắt nhìn ngược nhìn xuôi chập chối như quạ đậu chuồng lợn, riêng có Vân Hạc lúc nào cũng giữ vẻ tự nhiên dù miệng chàng vẫn tươi như hoa, tiếng nói của chàng vẫn có duyên và rất dễ nghe. Đáng để cho cô vừa lòng hơn nữa là cái tài hoa của chàng. Tuy rằng cô chưa khi nào hỏi ai, nhưng danh tiếng chàng đã khét cả tỉnh Hà Nội, nó vẫn luôn luôn bay đến tai cô một cách vô tình. 
Cô biết văn chàng không ưu thì bình, không bao giờ phải xuống bình thú. Cô biết trong ba bốn trăm học trò cụ bảng Tiên Kiều, chàng là một người thứ nhất, không ai đè nổi. Cô biết các ông bạn của cụ bảng Tiên Kiều đều phục chàng có tài thám, bảng, sức học hơn hẳn nghè Long, tuy chàng đã ba khoa thi hương không đỗ. Tóm lại, người chàng, nết chàng, tài học của chàng, bấy nhiêu cái đã làm cho cô bồn chồn sung sướng mỗi khi nghĩ đến ngày mình làm vợ chàng. Cô tin đời cô sẽ có một lần cũng như cô Thúy, chẫm chệ ngồi trên chiếc võng mành mành cánh sáo, để hàng tổng hàng xã rước đi rước vê. Cô lại tiếc rằng ông thám, ông bảng vẫn chỉ là hàng tiến sĩ, dù chàng có đỗ thám hoa, bảng nhỡn, cô cũng không hơn cô Thúy bao nhiêu. 
Nhưng cũng có lúc tự cô lại thấy chán nản buồn bã. Là vì cô nhớ năm trước eo người thầy bói đoán rằng số cô trắc trở về đường nhân duyên, quả nhiên sau đó đã xảy ra việc bên nhà nghè Long bỏ cô không cưới. Bây giờ cái việc cô với Vân Hạc mới là lời của cụ bảng nói với ông đồ bà đồ, chưa đâu vào đâu, chắc đâu sau này lại không có kẻ bàn ra nói vào. Xong cô cũng chưa đến nỗi thất vọng. Bởi vì cô chắc cụ bảng Tiên Kiều là bậc người lớn, cụ đã nói sao, phải đúng như vậy, không khi nào có chuyện trẻ con như vợ chồng ông đồ Văn Khoa. 
Tuy rằng những khi đi chợ tình cờ giáp mặt Vân Hạc, cô thường giả vờ nhìn đi đằng khác, như không để ý đến chàng, nhưng mà trong lúc bước chân ra đi, cô lại mong được gặp chàng để thử ngắm lại dáng bộ chàng bây giờ ra sao. Tuy rằng nhưng lúc ngôi với chị em chúng bạn, bị họ đem Vân Hạc ra làm đầu đề chế cô, giễu cô, cô vẫn xấu hổ đỏ mặt, có lần đã phải phát cáu với họ nhưng mà chính cô lại muốn được họ chế mình, giễu mình như thế, và nếu không thế, thì câu chuyện của họ sẽ không được cô để vào lỗ tai. Cái phút hồi hộp thứ nhất của cô hồi ấy là bữa cô vừa ở chợ về, bà đồ bảo cho cô biết cụ bảng Tiên Kiều đã xin ấn định ngày đi trầu cau. Bấy giờ cô không có can đảm để hỏi "thầy mẹ đã nhận lời chưa", nhưng cô chỉ mong được nghe bà đồ nói rằng: "Ta đã nhận lời rồi đấy". Thế rồi tứ lúc ăn hỏi, xin cưới mà đi, sự bồn chồn ở trong bụng cô lại cứ mỗi ngày mỗi tiến. Với cô lúc ấy, một ngày tức là một năm. Cái thời gian từ cuối tháng sáu đến đầu tháng tám, chỉ có hơn ba chục ngày, nhưng với cô nó đã dài như ba chục năm. Hàng ngày óc cô luôn luôn phải làm tính trì, hết một ngày thì cô rút đi một ngày, hết hai ngày thì cô rút đi hai ngày, nhưng cái chuỗi ngày chưa tới vẫn như không ngắn chút nào. Những đêm mưa ngâu rả rích, giọt mưa lách tách rơi xuống đầu thềm, và những buổi chiều gió thu hiu hắt thổi quanh nhà, bóng tà man mác in trên lá cây đều là những cái thì khắc khó chịu cho cô hơn hết. Bây giờ những ngày sốt ruột ấy nó đã như nước chảy chậm, dần dần tiêu hết đi rồi. Cái giờ mà cô chờ đợi, đương sắp sửa tới. Chỉ một lúc nữa thì đến giờ ngọ, họ nhà trai sẽ sang đón dâu. Từ trưa hôm qua mà đi người cô lúc nào cũng thấy rạo rực, nhất là những lúc nghe tiếng bà con làm giúp, thi nhau gọi mình là cô dâu. 
Không phải cô thẹn vê sự trêu cợt của họ. Hơn một tháng nay, người ta đùa cô, chế cô đã nhiều, cô đã quen rồi. Lúc này, trước sự ỡm ờ của mọi người, cô đã thừa đủ can đảm để mà đâm ỳ ra đó. Vậy mà không biết làm sao hai tiếng cô dâu lại có sức mạnh mầu nhiệm, mỗi khi lọt vào tai cô. (Bị kiểm duyệt bỏ hồi Pháp thuộc). Cả đêm hôm qua, cô chỉ ngủ đi nửa giờ. Nhiều lúc cô đã cố nằm nhắm mắt, nhưng không thế ngủ được. Những tiếng đi lại huỳnh huỵch và nhưng tiếng nói chuyện xôn xao của một đình đám linh đình bắt cô phải để tất cả tâm trí vào cảnh tượng đêm mai. Trong phút này, cái tiếng đêm mai đã phải đổi ra đêm nay, óc cô vẫn cứ bộn rộn vê cảnh tượng đó. "Đúng trưa mới bắt đầu ở đây ra đi, nhanh lắm cũng phải đến nhá nhem mới tới Đào Nguyên. Thế thì cuộc lễ tơ hồng sẽ vào ban tối". Cô tính như thế, và cô cho rằng như thế càng hay, vì lễ tơ hồng ban tối, sẽ khỏi trơ trẽn như các đám khác làm lễ ban ngày. Cô lại tiếc từ trước đến giờ mình không để ý đến các đám cưới của người trong họ. Không rõ trong lúc ngồi với chú rể mà ăn mâm cỗ cúng ông tơ hồng, cô dâu có phải uống rượu hay không? Nếu có thì uống mấy chén? Và cô cân nhắc đến tiếng xưng hô của mình phải dùng trong cái phút ấy không biết khi thoạt giáp mặt Vân Hạc, mình nên gọi « anh chàng ta » là gì, bằng mình hay bằng anh? Rồi cô nghĩ luôn đến những cử chỉ, lễ độ và những câu chuyện sẽ nói trong khi vợ chồng bắt đầu ngồi đối diện với nhau. Cô không hiểu rằng cái lúc hãy còn ăn uống, mình nên thay bộ áo ngoài, hay cứ mặc nguyên như trước. Thể rồi hai má thấy nóng hôi hổi. (Bị kiểm duyệt bỏ hồi Pháp thuộc). Tiếng kêu giật giọng của con lợn đương bị chọc tiết, chói lói thúc vào lỗ tai, làm cô phải dứt hẳn mạch tư tưởng. Một người chị họ đi qua cửa buồng, vừa cười vừa nói the thé: 
- Gớm chửa! Cô dâu bây giờ vẫn chưa thèm dậy. Ngủ gì mà ngủ kỹ thế. 
(Bị kiểm duyệt bỏ hồi Pháp thuộc) Cô chưa nói sao, người ấy mở mành nhòm vào buồng và giục: 
- Thôi đi. Ngủ độ bấy nhiêu cũng đủ. Dậy đi thôi. Mặt trời đã xỏ vào mắt kia kìa. Dậy xem gạo để đâu đong cho chúng tôi nấu cơm. 
Cô liền trả lời bằng giọng cố thây: 
- Em còn định ngủ thẳng đến trưa, nhưng chị đã nói thì em xin thôi. 
Rồi cô oằn oại ngồi dậy. 
Trái với thưởng lệ mỗi ngày, hôm nay cô không chải đầu không soi gương, chỉ quấn lại qua loa cái vành khăn vấn, rồi cô bạo dạn mở cửa bước ra. Mấy người em họ đua nhau chế giễu: 
- Thưa chị đã dậy ạ! 
- Sao chị không cố ngủ thêm lúc nữa? 
Cô mỉm cười và vẫn bây bả: 
- Công việc đã có các dì làm hộ. Tôi cần phải ngủ để lấy lưng cho đêm nay chứ! Nhưng mà còn đời các dì nữa đấy. Chỉ sợ sau này các dì lại té bằng hai tôi thôi. 
Đủng đỉnh ra bể, cô toan múc nước rửa mặt. Không biết bụng cô nghĩ ngợi ra sao, thau nước múc rồi lại bỏ không rửa. Lững. thững cô xuống nhà bếp và ngồi thụt vào đám mấy người con gái. 
Nhà trên, nhà dưới, công việc dao thớt vẫn được tiến hành một cánh tấp nập. 
Mặt trời lên khỏi ngọn cây, một loạt độ vài chục mâm vừa xong. Sau khi cái sỏ lợn đã đệ ra đình nộp cheo, và mấy mâm thịnh soạn đã bưng đi cúng nhà thờ, họ mạc rộn rã bảo nhau ăn uống, để một lát nữa còn phải làm cỗ thết họ nhà trai. 
Cô cũng ghé vào với các chị em, ăn lếu ăn láo một vài lưng cơm. Rồi lại lẩn vào trong đám đàn bà con gái, ngồi dụi, ngồi dò lúc tựa vào lưng người này, lúc gục vào vai người kia, đê giấu cho kín cái vẻ khác thường trên mặt. 
Gần trưa, một cậu học trò bé con lúc nãy bị cắt ra ngóng ở nẻo đầu làng,tất tả chạy về nói với ông đồ là họ nhà trai đã đến. Quang cảnh trong nhà mới càng túi bụi. 
Người ta thúc mấy cậu này quạt nỏ hoả lò cho nước chóng sôi. Người ta sai mấy cậu kia lấy chiếc phất trần phẩy qua dãy chiếu cạp điều cho sạch cát bụi. Người ta bắt hai cô con gái bưng hai cơi trầu ra tận ngã ba đón họ nhà .trai. 
Cô Ngọc vẫn cố ngồi lý dưới bếp để làm ra bộ bạo dạn. Một lát sau, ngoài cổng nghe có tiếng người ồn ào tiếp luôn đến tiếng trẻ con cười reo: 
- Chú rể đã đến! 
Mấy cô con gái lở tờ kéo ra nạp sau tường hoa cạnh cổng, đế chờ xem mặt chú rể. 
Bấy giờ cô mới lật đật chạy vội lên buông. Lúc ấy mọi người đổ xô cả ra phía cổng, ở chỗ cửa buồng không có người nào, cô bèn khép cánh cửa lại rồi đứng sau cửa nhìn ra. 
Đám con nít xúm xít ở phía sau cổng, tự nhiên giạt ra hai bên, rồi cùng chắp tay vái như bổ củi: 
- Lạy cụ ạ! 
- Lạy cụ ạ ! 
Với một bó hương nghi ngút cầm tay, cụ bảng Tiên Kiều xúng xính khoác áo thụng lam đi trước, rồi đến cụ cử Liên Trì. Rồi đến mấy ông cụ già. Rồi đến mấy bà cụ già. Rồi đến một toán con gái. Rồi đến một bọn con trai. Rồi đến một lũ bưng tráp xách điếu, với mấy người phu khiêng võng. 
Cô Ngọc chăm chăm nhìn không chớp mắt, chủ ý chí định coi thử Vân Hạc ăn mặc có lịch sự không. Nhưng chàng đứng lấp vào đoàn nón dứa lố nhố, cô không thể trông được rõ. 
Thình lình một tiếng pháo nổ. Cả bọn nhà trai ùn lại khu giữa sân. Rồi đó những tiếng đì đùng tiếp nhau đi một hồi dài. Xác pháo bắn ra tứ tung, khói bốc đen ngòm, mùi thuốc pháo đưa vào trong nhà khét lẹt. Khi ấy mặt cô càng nóng, bụng cô càng thấy nôn nao, cô phải lẻn vào trong giường, ngồi im. 
Họ nhà trai lục tục tiến lên nhà trên. Cụ nghè Quỳnh Lâm, cụ cử Mai Đình và các ông bạn của ông đồ ở bên nhà học vừa sang. Các cụ vái nhau một lượt, rồi cụ cử Mai Đình nhìn vào cụ bảng Tiên Kiều, cụ cử Liên Trì mà nói: 
- Té ra chúng ta hôm nay chia làm hai cánh. Các bác ăn về cánh nhà trai, chúng tôi thì ăn vê cánh nhà gái. Cụ cử Liên Trì mỉm cười: 
- Phải. Tôi cũng biết các anh ăn về bên chắc. 
Cụ cử Mai Đình cũng cười và tiếp: 
- Chứ ai có dại mà đi ăn về bên lép như các ngài. 
Cụ bảng Tiên Kiều nói chen: 
- Tôi can các anh đừng bẻ tay bụt ngày rằm. Cỗ bàn có thiếu gì giò nem!... 
Một trận cười rộ kết liễu cho cuộc bông đùa, quan viên hai họ chen nhau ngồi vào các ghế. 
Tuần trà đầu tiên đã đoạn. Cụ bảng nói với quan họ nhà gái cho người đưa rể đi lễ mấy nơi cần lễ. Một cậu phòng của nhà trai mở tráp lấy chiếc áo tấc trao cho Vân Hạc. Mấy chục cặp mắt trong đám đồng thời đổ xô vào chàng rể mới. Vân Hạc tuy đã trơ trẽn, nhưng cũng không khỏi xấu hổ khi phải khoác tấm áo lùng thùng vào mình để đi với bọn phù rể theo người nhà gái dẫn đường đến mấy nhà thờ. 
Những cô con gái rõ mặt chú rể thi nhau bàn tán bình phẩm; kẻ chê chú rể xấc lấc, người khen chú rể giỏi trai. 
Bà đồ tung tăng chạy lên chạy xuống, dóng dả chị em bè bạn cô Ngọc sắp sửa quần áo để đi đưa dâu. Một lát sau, chú rể lại về với bọn phù rể. Bà cống lễ phép đứng dậy nói với cụ bảng xin mời ông đồ bà đồ ngồi lên cho chú rể làm lễ. Cả hai ông bà nhất định không nhận. Bà cống nhất định chèo kéo. Một bên cố nài, một bên cố chối, câu chuyện giằng co một hồi. lâu. Kết cục cuộc ấp tốn phải nhường chỗ cho mấy mâm cỗ và mấy nai rượu. 
Sau khi đã thay phiên nhau mời chào quan viên hai họ vào tiệc, ông đồ lánh sang nhà học, bà đồ cũng đi giục giã mấy người làm giúp bưng mâm để những ông, bà, cô, cậu phải đi đưa dâu uống rượu; rồi bà vào báo cô Ngọc cùng ngồi với các chị em ăn cơm luôn thể. 
Bóng nắng chấm giọt, nhà trong nhà ngoài ăn uống đêu xong. 
Cụ bảng sai người đi mời ông đồ bà đồ tới đó để xin đón dâu. Những người vào việc võng cáng điếu tráp tấp nập sắp sứa đồ đạc. Mấy bà cụ già trong họ cùng giục cô Ngọc đứng lên thay đổi quần áo. 
Nhưng cô bây giờ tự nhiên lại thấy bẽn lẽn xấu hổ, nấn ná cô cứ ngồi ỳ với bọn chị em. Mấy bà cụ già nóng ruột, thúc giục đến bốn năm lần, bấy giờ cô mới liều tình đứng dậy ra sân. Sau khi đã múc chậu nước lau qua mặt mũi, cô vào trong buồng, mở rương lấy gói quần mới, áo mới, và chiếc quai thao mới, bỏ cả ra giường. Rồi cô lật chiếu đầu giường cầm lấy chiếc gương Tư mã, nhưng lại ra bộ ngượng ngùng nửa muốn soi, nửa không muốn soi. 
Những người bạn gái xúm lại, kẻ xổ khăn, người chải đầu, người rẽ đường ngôi, rồi người lấy chiếc khăn nhiễu tam giang của cô mới mua; nắn nót vấn vào cho cô. Mặc họ vần mình như vần dưa, cô không nói năng gì cả. 
Ngoài sân lạch tạch một tràng pháo nổ. Quan họ nhà trai đã tan một tuần trầu nước cuối cùng. Bà cống Đào Nguyên, cụ bảng Tiên Kiều có lời cáo từ. 
Rồi thì mọi người rục rịch đứng dậy vái chào ông đồ bà đồ và bước xuống sân. Cụ nghè Quỷnh Lâm, cụ cử Mai Đình và mấy ông già bà già dự cuộc đưa dâu, cùng đi luôn với họ nhà trai ra cổng. 
Cô Ngọc vẫn còn lúng túng trong buồng, chưa chịu thay đổi quần áo. Mấy bà nhiều tuổi trong họ phát cáu: 
- Không phải là việc trẻ con mà cứ làm nũng! Thế nào gọi là ngày lành tháng tốt? Một năm mới được một ngày. Một ngày mới được một giờ. Liệu mà sắm sửa mau lên, sắp hết giờ ngọ rồi đấy. Nếu đi lúc nào cũng được thì ai còn xem giờ làm gì? 
Cô Ngọc đỏ bừng hai má và trả lời bằng giọng buồn rầu: 
- Các bà mắng cháu oan quá. Nào cháu có làm nũng đâu! Nhưng mà ... Cô không nói nữa và đứng phắt dậy, cởi hết cả lớp quần áo đương mặc, để thay một lượt áo mới váy mới. Rồi cô khẽ nâng chiếc gương Tư mã ngắm lại dung nhan của mình, cái tuổi xuân đương dậy thì, thêm có tơ lụa trang điểm, cố nhiên vẻ yêu kiều phải rực rỡ hơn ngày thường. Cô cố giữ nguyên sắc mặt cho khỏi tươi cười, đế giấu kín cái hớn hở của sự đắc ý. 
Chị em thi nhau nói giễu: . 
- Đẹp rồi! Đáng là cô thám, cô bảng lắm rồi. Thôi đi đi chứ. Đêm có khuya ngày có rạng! 
Cô không trả lời. Ngó ra cửa buồng cô bảo Bích lấy chiếc chiếu trải ra giữa thềm. Rồi mời ông đồ bà đồ ngồi trên phản, cô rón rén bước vào trong chiếu sụp xuống lạy cha lạy mẹ mỗi người một lạy. Ông đồ vẫn thản nhiên như thưởng. Nhưng bà đồ coi bộ rất là cảm động, nước mắt dấp dính trong hai khóe mắt. Sẽ lau nước mắt, bà gượng làm bộ vui vẻ: - Thôi con đi đi? Kẻo nữa hai họ chờ đợi. Mẹ đã nói với cụ bảng, bà cống rồi đấy. Ngày mai cơm nước xong rồi, vợ chồng lại cùng về đây với thầy mẹ. 
Cô Ngọc cũng rưng rưng hai hàng nước mắt. Uể oải xỏ chân vào đôi dép cong, rồi cô thơ thẩn đứng dậy, toan quay vào buồng. Mấy cô phù dâu đứng đợi đã lâu, có ý nóng ruột, họ liền lấy chiếc nón thúng quai thao trao tay cho cô và giục: 
- Đi đi! Chùng chình mãi! Chị bắt anh ấy chờ đến bao giờ? 
Điềm nhiên, cô đặt chiếc nón lên đầu và buồn bã bước chân xuống thềm, rồi đi lẫn vào giữa đám con gái đó. Cái nón chênh chếch chúc về phía trước, hết sức giấu kín đôi má hồng hồng của cô, cái má đang bị nóng hổi về sự rạo rực trong tim phổi. 
Ngoài đường quan viên hai họ vẫn thúng thẳng vừa đi vừa đợi. Ra khỏi cổng làng, dâu rể và các ông già, bà già lần lượt lên võng. Những cô con gái và những cậu con trai răm rắp đi bộ theo sau. 
Nắng tây gay gắt rọi xuống đồng lúa xanh non, như muốn thúc đám cưới đi cho rảo bước. Ngồi trên võng, nhìn lên những người đi trước, cô sực nhớ đến câu chuyện mà mình bói được độ nọ: 
"Vội vàng sắm sửa lễ công. 
Kiệu hoa đón gió, đuốc hồng ruổi sao. 
Bài hàng cổ vũ xôn xao. 
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi". 
Cô mỉm cười và tự hỏi mình: có lẽ bốn câu ấy ứng vào cái việc hôm nay đây rồi. Rồi cô liền nghĩ tới bốn câu nữa mà cô cũng bói được trong hôm ấy và cô tự hỏi: không hiểu bốn câu này là ý làm sao?
Ngô Tất Tố
-Ai da... món chả chó...!!!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét