Thứ Năm, 13 tháng 9, 2012

Văn hóa chửi

"Nàng dâu" - người đẹp Linh Phương
Đối với người Tây, ít khi họ chịu khó chửi nhau dai dẳng, nếu bực tức thì họ chỉ chửi vài câu tục tằn rồi thôi, nếu sự việc chưa được thoả mãn thì họ sẽ "bụp" nhau cho xong. Dân ta thì khác, rất chịu khó chửi nhau, có bà sẵng sàng chửi thiên hạ 3 ngày 3 đêm vì mất một con gà. (ảnh không liên quan đến bài viết)

Về cách chửi thì dân ta (tôi không có ý đánh đồng người Hoa và người Việt với nhau, nhưng xét về văn hóa có quá nhiều điểm tương đồng nên tôi nói là dân ta cho gọn và như thế khi tôi lấy những thí dụ trong truyện Tàu thì bà con cũng đừng thắc mắc) chửi rất hay, chửi có bài có bản, có lớp có lang, có vần có điệu trong khi Tây rất vụng về ở điểm này.

Khi chửi thì có nhiều điểm để người chửi xoáy vào đối phương cốt yếu làm cho đối phương đau đớn nhưng tựu trung có mấy điểm chính sau đây:
- Biết đối phương tôn trọng tổ tiên thì người chửi cứ lôi tổ tiên đối phương ra mà chửi, điển hình là trong truyện "Tam Quốc" đoạn Trần Lâm viết hịch chửi Tào Tháo (xin xem phụ lục). Cứ thế, tiên tằng cố tổ, tiên nhân từ đường đối phương có làm việc gì xấu cũng bị bêu riếu, hoặc là bị gán ghép cho những điều độc ác xấu xa.
- Ví đối phương với những gì xấu xa, ghê tởm, đáng khinh bỉ nhất như "ôn hoàn dịch lệ" "chó đẻ, trâu sanh, mọi rợ"...
Bắt đối phương phải hứng chịu những lời cay độc có liên quan đến bài tiết, sinh dục... Loại này chắc khỏi phải ví dụ vì nó khiếm nhã và ai cũng biết không ít thì nhiều phải không?
Lời chửi thể hiện nguyện vọng được thực hiện những hình phạt tàn độc lên đối phương như chặt đầu, móc mắt, róc xương, xẻ thịt...
Trù ẻo cho đối phương gặp tai nạn, bất hạnh cho thoả mãn cơn tức của mình như què chân, xe cán, cháy nhà, leo giếng đứt dây, đi sông chết chìm, diều tha quạ bắt....
Chỉ nhiêu đó là Tây không thể hơn ta được về khoản chửi rồi, có nhiều người Tây tôi thấy, họ tỏ ra ngạc nhiên khi hai phụ nữ Việt Nam hay Tàu chửi nhau giữa chợ, chửi véo von như đang ca hát vậy.
"Bữa tiệc của thiên sứ" - tranh của họa sĩ Murillo
Bài chửi nổi tiếng nhất thiên hạ:
Hịch kể tội Tào Tháo 
(Trần Lâm soạn thảo)
Nguyên Trần Lâm tự Khổng Chương, tài văn nổi tiếng. Thời Hoàn Ðế đã làm quan Chủ Bạ, vì can ngăn Hà Tiến không được, rồi gặp loạn Ðổng Trác, chạy loạn lên Ký Châu, được Viên Thiệu dùng làm Ký Thất. Bấy giờ Trần Lâm vâng lệnh cầm bút thảo ngay một bài hịch.
Hịch văn như sau:
"Thường nghe rằng:
Bậc minh chúa gặp nguy mà chế biến, kẻ trung thần lo nạn nước mà tùng quyền. Cho nên, có người phi thường rồi sau mới có việc phi thường. Có việc phi thường rồi mới có công lao phi thường. Người phi thường ấy không phải ai cũng có thể bắt chước làm nổi.
Xưa kia, nhà Tần mạnh gặp lúc vua yếu, Triệu Cao nắm hết quyền bính, chuyên chế việc triều đình, tự mình tác oai tác phúc. Thiên hạ nhiều người oán hận nhưng không ai dám nói gì. Thế mà rồi hắn cũng chết thảm ở cung Vọng Di, tổ tông mang tiếng ô nhục, để tiếng xấu lưu muôn đời.
Cho đến cuối đời bà Lã hậu, hai tên Sản, Lộc chuyên chính, bên trong giữ cả hai quân, bên ngoài thống chế hai nước Lương, Triệu, lạm quyền quốc sự, quyết việc nơi Cấm đình, dưới lăng loàn, trên suy yếu, bốn bể ai cũng đau lòng. Vì thế Dáng Hầu với Chu Hư Hầu mới hưng binh phẫn nộ, tru di quân nghịch bạo, tôn lập đức Thái Tông làm hưng thịnh lại Vương đạo, bốn cõi quang minh rực rỡ. Ðó là cái gương lớn: Ðại thần tùng quyền vậy.
Ngày nay có viên Tư Không Tào Tháo làm càn. Ông nó tên Ðằng, làm Trung Thường Thị, đã từng thông với bọn Tả Quản, Từ Hoàng làm điều yêu nghiệt, tham tàn càn rỡ, tổn thương phong hóa, tàn ngược nhân dân.
Cha nói tên Tung, vốn con nhà ăn mày được dắt về nuôi, nhờ có của tiền mua lấy chức vị, xe vàng khiêng ngọc đút lót chỗ quyền môn, trộm cắp đỉnh tư, làm nghiêng đổ đồ quốc bảo.
Ðến nó tên Tháo, con thằng tôi tớ, cháu tên quan hoạn, nên chẳng có nết na gì, tai quái luông tuồng, ham loạn lạc, vui trong tai vạ của nước non.
Mạc phủ đây, đổng thống quân ưng dương, tảo trừ lũ hung nghịch. Gặp hồi Ðổng Trác cướp quyền hại nước, đã vung gươm khua trống, truyền lệnh ra Ðông Hạ, chiêu tập anh hùng, không kể người xấu nết hèn, chỉ cốt dùng lấy việc, nên mới để Tào Tháo được cùng mưu việc, cho giữ một cánh quân, tưởng rằng chim ưng, chó săn cũng có chút tài khả dụng.
Không ngờ Tháo là đứa ngu si dốt nát, tiến liều lui bậy, làm tổn quân mã, mất cả nhuệ khí ba quân. Mạc phủ lại phải rèn luyện lại quân binh, sửa sang quân ngũ, rồi tâu xin cho nó sang Ðông quận làm Thứ Sử Duyện châu. Thân dê đội lốp cọp, nắm được quyền hành, những tưởng rồi nó sẽ đem thân khuyển mã để báo được trận thua khi trước như quân Tần báo thù Tấn.
Thế mà nó nhân được thể, dám làm trò lợn vượt qua rào, hung hăng tàn bạo, chiếm cứ liên miên, hại người hiền, giết người ngay. Quan cố Thái Thú Cửu Giang Biên Nhượng là bậc anh tài tuấn vĩ, thiên hạ đều biết tiếng, nhìn ngay nói thẳng, không lời dua nịnh, mà cũng bị nó giết hại, đầu bêu ngọn giáo, vợ con bị nạn diệt vong. Từ đó khắp kẻ sĩ ai ai đều tức giận, nhân dân chốn chốn càng xót xa căm hờn. Một người vung cánh tay, trăm họ cùng hưởng ứng, nên quân nó bị phá ở Từ Châu, đất nó mất về tay Lữ Bố. Thân nó bơ vơ nơi cõi Ðông, không biết nương tựa vào đâu?
Mạc phủ nghĩ đến nghĩa "cành mạnh nâng đỡ nhánh mềm", vả cũng vốn không dung đảng giặc, cho nên lại giương cờ, mặc giáp, gióng trống, khua chiêng đem quân tới cứu nó và đánh quân Lữ Bố tan vỡ, cứu cho nó khỏi cái nạn tử vong, lại phục hồi cho nó cái địa vị phương bá. Thế thì, Mạc phủ tuy không có công đức gì với trăm họ Duyện Châu nhưng đã làm phúc lớn cho Tháo lắm vậy.
Lại như Lương Hiếu Vương là anh em cùng mẹ với Ðức Tiên Ðế, lăng tẩm tôn quý, dẫu đến cây dâu cây tử, gốc bá cành tùng cũng đáng được kính trọng thay, thế mà Tháo nó thân đem tướng sĩ quân lính đến khai quan quật mộ, phơi thây giữa trời, cướp lấy vàng bạc châu báu, đến nay Thánh triều còn chưa ráo lệ, sĩ dân vẫn còn đau lòng. Nó lại còn đặt ra chức Trung lang tướng đào mả, chức Hiệu úy bại vàng, đi đến đâu tàn hại đến đó, dẫu người chết nằm dưới đáy mồ vẫn không tha, biết bao nhiêu hài cốt bị bươi móc lồ lộ giữa trời.
Thân ở ngôi Tam công mà nó quen thói trộm cướp, làm nhơ cả nước, làm nhục muôn dân, gây vạ độc địa cho cả vong hồn người chết. Chính sự nó thì tinh ranh thảm khắc, điều luật bầy ra trói buộc khắp mặt, cạm bẫy chăng đầy đường khắp lối, khiến ai nấy giơ tay đụng phải lưới, bước chân mắc phải tròng. Cho nên dân vô tội hai xứ Duyện, Dự đau khổ lầm than, tiếng rên la thấu chốn Ðế Ðô rất là ai oán. Trải xem sử sách cổ kim, những kẻ làm tôi tham tàn khốc liệt cũng nhiều, nhưng không kẻ nào tai hại bằng tên Tháo ngày nay nữa
Mạc phủ nay phụng oai linh nhà Hán đi dẹp bốn phương. Quân có kích dài trăm vạn ngọn, ngựa khỏe nghìn đàn, phấn khích tinh thần như tráng sĩ, sức lực tựa Hoàng, Dục, Hoạch, vương thế mạnh nỏ cứng, cung bền. Quân đội Tinh châu vượt núi Thái hàng mà đi. Binh mã Thanh Châu lội ngang sông Tế, Tháp mà tại. Ðại quân băng qua sông Hoàng hà đánh mặt trước, quân Kinh châu lại tiến vào đất Uyển, Diệp đánh mặt sau. Thế mạnh như sấm ran cọp đuổi vào ổ giặc, thì khác gì nổi lửa lớn mà đốt mớ cỏ khô, dốc nước biển cả để tưới lò than nhỏ! Giặc Tháo thế nào mà chẳng bị tiêu diệt?
Vả lại những quân sĩ của Tháo có thể đánh trận được, đều là những người quê quán ở hai châu U, Ký bị bắt buộc mà phải theo. Ai ai cũng có bụng oán, muốn về quê hương, ứa nước mắt trông về phương Bắc. Ngoài ra, những người Duyện, Dự đều là những quân sĩ của Lữ Bố, Trương Dương còn sót lại, vì bị ức hiếp, tạm thời đi theo, cánh quân nọ thù ghét cánh quân kia, sẵn sàng trở giáo. Nếu ta lên gò cao đánh trống, phất cờ trắng để mở đường cho họ về hàng, tất họ sẽ bỏ chỗ tối, tìm chỗ sáng. Chỉ một trận thì như đất lở ngói tan, không cần phải đâm chém đổ máu.
Hiện nay nhà Hán suy vi, cương duy lỏng lẻo, Thánh triều không có một người nào giúp, tay chân như bị trói, không thể nào vùng vẫy được. Ỷ đất trực thuộc triều đình, những vị giản luyện đều phải cúi đầu xếp cánh, không thể trông cậy vào ai. Tuy có kẻ sĩ trung nghĩa, nhưng bị loạn thần bạo ngược hiếp chế, thì còn phát triển khí tiết của mình làm sao? Hơn nữa, Tháo nó sai hơn bảy trăm tinh binh tay chân ngày đêm vây kín cung khuyết, ngoài mặt giả làm quân túc vệ, kỳ thực là giam cầm nhà Vua.
Mạc phủ sợ rằng cái mầm phản nghịch từ đó mỗi lúc một nẩy nở thêm, lúc này là lúc kẻ trung thần phải đem gan óc báo đền, là cơ hội để các liệt sĩ lập công báo quốc. Há chẳng nên cùng hết sức ru?
Tháo nó lại hay giả thác chiếu Vua, sai đi gọi binh các nơi tiếp viện. Sợ rằng các châu quận ở xa không rõ mưu gian, lại tưởng rằng lệnh Thiên Tử thực mà giúp lầm kẻ nghịch, thì hóa ra theo giặc phản Vua, mất hẳn danh nghĩa, để tiếng cười cho thiên hạ sau này. Vậy mà những bậc khôn ngoan ắt không làm như thế!
Nay mai quân Tinh, U, Thanh, Ký, bốn châu cùng tiến. Thư đưa tới Kinh Châu mời cùng ra binh với Kiến Trung tướng quân hợp làm thanh thế. Các châu quận hãy chấn chỉnh nghĩa binh, liên lạc với nhau nơi cảnh giới, thị vũ dương uy, cùng khuông phò xã tắc, thế là cái công phi thường đã rõ rồi vậy.
Ai lấy được thủ cấp Tào Tháo sẽ được phong Hầu năm mươi vạn hộ, thưởng tiền năm mươi vạn.
Những Thiên, Tỳ, Tướng, Hiệu & ai đem quân đến hàng, đều không bị hỏi han gì cả. Ta sẵn sàng mở rộng đường ân tín, ban thưởng tuyên dương cho ngay.
Nay làm tờ hịch này bố cáo khắp thiên hạ, để bốn phương biết rằng Thánh triều đang bị cái nạn câu thúc nguy cấp!".
Viên Thiệu xem xong tờ hịch thì mừng lắm, liền sai người đi đưa đến các châu quận, và yết thị ở bến đò, treo dán khắp các cửa ải.
Sưu tầm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét