Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Hương gây mùi nhớ...

Tay cầm đũa, vít miếng thịt mềm nhừ, hay miếng "mỡ gầu" vừa giòn vừa dai, gion gion giòn giòn.
Ừ nhỉ, tự bảo là sẽ không đặt bút, vì đã có nhiều người viết đến, mà lại viết thật hay, thật thấm thía, từ cái ông Thạch Lam qua ông Nguyễn Tuân đến ông Vũ Bằng...
Nhưng mà không viết lại không chịu được, nhất là những ngày cuối năm đi trong nhạc điệu mùa Đông buồn se sắt, với không khí tha hương lạnh lùng sương rơi heo may buồn ngơ ngác bóng chim bay mây tím giăng sầu đó đây và còn tại cái hệ thống sưởi trong nhà bỗng dưng dở chứng không chịu chạy, thì cái lạnh lại như cắt vào lòng, như muốn chui vào tận trong xương trong tủy, lạnh từ trong đầu trong óc mà lạnh ra, cứ muốn trùm tấm chăn bông mà ấp ủ... Thế, chao ôi, thèm ơi là thèm hương vị rừng rực nồng nàn, muôn thuở ấm áp của một bát phở.
Đấy, thì đã bảo, "người ta" viết về phở đã hay lắm rồi, đâu đến phiên mình!
Này nhé, giá mà cứ đưa vào tay bác Tô Vũ nhà ta, để bác ta ngoáy lên đôi dòng "cà kê", thì cũng đã nên khuôn vàng thước ngọc. Còn mình, cũng vì chỉ thèm ăn phở, thôi thì xin lạm bàn vài ba hàng, cho đỡ... cơn thèm.
Vẽ chuyện! Có thèm thì đi ra quận 13, hay đi Belleville, mà ăn một bát cho xong, bày đặt làm chi vẽ vời viết lách! 
Ấy vậy, thưa anh, nếu có đi ra quận 13, hay đi Belleville, cũng không thể nào nguôi ngoai được, cũng như khi ta ngồi buồn, mở nhạc nghe, vô tình lại trúng vào bài "Buồn tàn thu" của nhạc sĩ Văn Cao, nhạc dẫn dìu dặt, rồi giọng Thái Thanh trỗi lên,...ai lướt đi ngoài sương gió không dừng chân đến tôi bẽ bàng..., ôi, cái chữ "lướt" ấy, qua tiếng hát vượt thời gian Thái Thanh, bỗng trở thành bất diệt. Bài nhạc đã hát xong rồi, con tim vẫn còn nao nao, thì anh ơi, cũng như mùi hương phở ngạt ngào một lần đâu đây, thấm vào da vào thịt, vào lục phủ ngũ tạng, nhớ muôn đời không quên...
Vâng, thưa ông thưa bà, thưa anh thưa chị, không thể nào nguôi ngoai...
Lại nhớ hôm nọ, năm ngoái hay năm kia nhỉ, ghé sang nhà ông bà Tào văn Trạch, được bác Tuyết Anh đãi ăn một bữa phở bò, trời ơi, bỏ... bùa bỏ ngãi gì trong ấy mà sao lại ngon không... chịu được, ngon đến nỗi đã ăn hai bát, bụng không còn chỗ chứa, nhưng cứ muốn ăn thêm, sợ... phí của giời! Ra về, lại ỉ ôi với hai bác, còn tí nước dùng trong nồi trên bếp, bác cho cháu, bác nhé!
Thì cũng ngần ấy thứ thôi, có phải nêm thêm... vàng thêm ngọc gì vào trong ấy đâu, thế mà bát phở của bác Tuyết Anh phải như sơn hào hải vị, có khi còn hơn thế nữa, không chừng.
Dạ thưa quý vị, cái chữ "phở" nhỏ tí tị tì ti ấy, xem ra cũng còn nhiều bàn cãi.
"Phương xa" - siêu mẫu nội y châu Âu
Trong "An Nam tự vị latin" của Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc) viết vào khoảng giữa thế kỷ thứ 18 không có chữ "phở". Trong "Đại Nam quấc âm tự vị" của Huỳnh Tịnh Paulus Của, nhà xuất bản Rey, Curiol & Cie, năm 1896, có chữ "phở" nhưng không... ăn nhằm gì đến phở mà chúng ta đang nói (Phở: Nổi tiếng tăm. Mầng phở lỡ: Mầng lắm, tome II, trang 200). Cũng như quyển "Việt  -Pháp tự điển" của J.F.M. Génibrel, nhà xuất bản De la Mission à Tân Định, tái bản lần thứ hai năm 1898, có chữ "phở" đồng nghĩa với Paulus Của (phở lỡ: Bruyamment, trang 614). Trong "Việt Nam tự điển" của Hội Khai Trí Tiến Đức, xuất bản năm 1931, tra thấy có chữ "phở" như mình muốn nói, mừng ơi là mừng ("mầng phở lỡ"), và được giải nghĩa như sau: "Phở do chữ phấn mà ra. Món đó ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò: phở xào, phở tái" . 
Đọc "Sài Gòn tạp pín lù" của cụ Vương Hồng Sển:
..."hủ tíu", theo ông bạn quá cố Lê Ngọc Trụ là "hủ mộc phấn thổ", người Quảng Đông cũng gọi là "phảnh", và danh từ này, khi lọt vào tay đồng bào Bắc Việt, "ngầu dục phảnh" (ngưu nhục phấn), tao không thèm gọi như chúng mi nữa, và biến ra "ngưu nhục phở", kêu tắt "phở" lại càng thêm gọn. Từ cái mùi "Ba Tàu" hủ tíu, ba xu xưa một tô nhỏ, sáu xu một tô trộng trộng, vừa có ít sợi mì vàng, ít sợi bún "phảnh", bước một bước qua ranh Bắc Việt "phở" đã mất mùi "chệc", thơm ngon béo bổ hơn "hủ tíu Tàu" nhiều, phở nấu với nước cốt thịt bò, vi ta min giàu hơn, nhứt là cách nay mấy tháng, khi phở Huỳnh Phú Nhuận còn mở cửa, trời sáng lạnh lạnh, tô phở bay hơi nghi ngút, tay cầm đũa, vít miếng thịt mềm nhừ, hay miếng "mỡ gầu" vừa giòn vừa dai, gion gion giòn giòn, chấm một chút tương cay, mắt liếc tay ngọc bưng tô cho bàn bên cạnh, tưởng đâu chừng mình đã theo Lưu Nguyễn lạc lối thiên thai, với mười bảy đồng hay hai chục đồng mà nếm tô phở Huỳnh buổi ấy, hơn Lưu Nguyễn bội phần vì hai chàng lạc lối cảnh ăn đào thiếu bổ! 
Cũng cụ Vương Hồng Sển, "Tự vị tiếng nói miền Nam", đọc thấy "Phở: phảnh, 'phấn' đọc giọng Tàu. Bột gạo mịn như phấn nấu trong nước cốt gà, heo... Phở là món ăn quốc túy, do đồng bào Bắc chế biến, được dân trong Nam hoan nghinh nhứt và đánh đổ thay thế tô hủ tíu Tàu: phở tái, phở áp chảo...".
Ấy mà cũng có người đặt giả thiết rằng phở có... bố mẹ là người Tây, do chữ "Pot-au-feu" mà ra, vì "Pot-au-feu" có mùi vị "hơi hơi" giống phở của chúng ta, và vì họ nhấn mạnh chữ "feu" riết nên thành chữ "phở"! Hỡi ôi, có cha mẹ Tây là thế, tại sao mấy năm trước đây, đâu có xa xôi gì lắm đâu, cũng chỉ chừng mươi năm trở lại mà thôi, người Tây gọi phở là soupe chinoise, phải chăng cha mẹ không biết mặt con cái, cứ thấy "da vàng mũi tẹt" thì sắp loại phở cùng là anh chị em với hủ tíu hay vằn-thắn ? Chán ơi là chán! Chắc có lẽ bị mắng quá, bị sửa lưng nhiều quá, ông Tây bà Đầm ngày nay... khôn ra, không còn dịch bừa bãi phở là soupe chinoise nữa, mà dạ thưa quí vị, là soupe tonkinoise , nếu dịch cho có căn có kệ, có phân định biên giới hẳn hoi, còn không, gọi chung chung là soupe vietnamienne, đấy ạ. Nhưng dịch thế nào thì dịch, cũng không thể làm sao lột tả được chính xác hương vị phở của chúng ta, xin đề nghị gọi là "le phở", như "le áo dài" hoặc "le nước mắm"..., tiện hơn không?
Đà Nẵng - ảnh Việt Nam xưa
Trở lại chữ "ngưu nhục phấn" (níu ròu fen), trong "Tự điển Hán - Việt" của Đào Duy Anh, nhà xuất bản Minh Tân, năm 1931, "ngưu nhục" chính là thịt bò, nhưng nhấn mạnh một điều rằng chữ "ngưu" không nên lầm là trâu, vì Trâu là "thủy ngưu". Riêng chữ "phấn" (?): Vật nghiền ra rất nhỏ (quyển hạ, trang 108), chứ Đào tiên sinh không nói gì đến "phở" cả. 
Trong "Tự điển Hán - Việt" của nhóm Hầu Hàn Giang, Mạch Vĩ Lương..., trang 189, tra chữ "phấn" (fen) thì đọc được: Bún, bánh phở, miến. 
Trong "Dictionnaire français-chinois" (Tự điển Pháp - Hoa) của Thượng Hải Dịch văn Xuất bản xã, 1979, trang 1337, tra chữ "Vermicelle", cũng ra chữ (...?)
Như vậy, chữ "Phở" từ chữ "Phấn" mà ra có thể tin cậy được. 
Chúng tôi có ý muốn biết hoàn cảnh ra đời của món phở, nhưng không tìm được tài liệu nào. Trong quyển gia chánh "Nữ công thắng lãm" của Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác, 1720-1791), viết vào năm 1760, không có nói đến phở. 
Trong hành trình đến Việt Nam từ 11-1-1884 đến 19-4-1886 của bác sĩ Hocquard, tường thuật lại rất cặn kẽ cách ăn nếp ở của người dân ta trong "Une campagne au Tonkin", nhắc đến cả mắm tôm, nhưng chẳng có một lời nói đến món ăn có tên là phở cả. 
Theo thứ tự thời gian xuất hiện chữ "phở" trong các tự điển nói ở trên, chúng ta có thể đặt giả thiết rằng món phở chỉ có thể sinh ra đời khoảng đầu thế kỷ XX, tức là lúc có người ăn quà ngoài đường phố, tiếp theo đó, bắt đầu thịnh hành vào thập niên 20, và theo nhà văn Vũ Bằng, "đến năm 1952, công việc chế biến món phở đã đến chỗ tuyệt đỉnh, nghĩa là không thể thêm hoặc bớt một món gì nữa". Dân Hà thành thuở đó đã "bầu" phở Tráng ở phố hàng Than là "Vua phở".
Năm nọ, ăn bát phở tại nhà bác Tuyết Anh ngon quá đỗi, nay xin bác viết cho một bài "Khéo tay làm lấy", chỉ cách nấu phở, vì dù sao phở cũng là một món ăn truyền thống của dân tộc ta. Thử hỏi có người Việt Nam nào chưa từng ăn phở không? Nhà văn Vũ Bằng quả quyết rằng không. Có nghĩa hể là người Việt Nam, từ Bắc chí Nam, thế nào cũng có lần ăn phở.
Nhưng xin bác đừng quên các bí quyết để có một nồi phở ngon, bác nhé, vì tiệm phở nào cũng dấu rất kỹ ngón nghề. Ai cũng cho rằng cái "bí mật" của mình là hơn thiên hạ, không thể nào... dại dột tiết lộ ra ngoài cho mọi người nghe. Đồng bào ơi, tôi dơ tay lên xin phát biểu ý kiến, rằng nếu chúng ta biết trao đổi kinh nghiệm nấu phở với nhau, tìm ra một phương pháp hoàn thiện thì chúng tôi chắc chắn rằng món Phở của người Việt Nam ta sẽ được bầu là món ăn ngon nhất... thế giới.
"Mái cổ" - Hot girl Nhật Bản
Mà không hiểu các tiệm phở dấu nghề làm gì nhỉ, vì ít khi người ta nấu phở ở nhà. Kéo nhau ra tiệm, xì xụp ăn bát phở, cảm thấy ngon hơn nhiều, làm như phở ngon cần có không khí của tiệm ăn. Nấu phở ở nhà phải có chục người ăn, mới bõ, dăm ba người, nấu một nồi phở to tướng, dọn ra bàn, lơ láo nhìn nhau, mất ngon.
Chúng ta đều biết điều quan trọng nhất làm cho phở ngon là nước dùng (nước lèo) ngon ngọt độc đáo, kế tiếp mới đến bánh phở trắng ngà, dẻo dai.
Phần thịt trong nước dùng, ngoài thịt bò, xương bò, xương heo, người ta còn cho đuôi bò. Điều này, cuối chợ, khi sắp đóng cửa hàng, phần "xí quách" ấy là một món ăn còn có thể nói là hơn lương trân, dành riêng cho các ông thích nhậu. Hỡi ôi, gặm cục xương đã mềm nhừ hay ăn cái đuôi bò thấm đượm, chiêu một ngụm rượu cay nồng, giữa cái lạnh lùng giá buốt của mùa Đông, tưởng chừng như Thiên đàng cũng không bằng!
Có người cầu kỳ, cho thêm tôm khô hay đầu mực, bảo rằng như thế thì nước đậm hơn. Chúng tôi không dám có ý kiến, ấy là tùy bàn tay người nội trợ, phải không... cô Hai? Điều cần phải nhớ là không được bỏ đường, nhưng chắc rằng phải có một chút bột ngọt (mì chính), chỉ một chút thôi, như một thoáng nghi ngờ (un soupçon), chứ cho nhiều bột ngọt thì ăn lợm giọng mà còn hại cho sức khỏe. 
Muốn cho nước trong, khi nồi nước bắt đầu sôi thì phải hớt bọt, có nhiều chỗ trả tiền cho một đứa trẻ, bắt nó đứng cạnh nồi để hớt bọt, hớt cho tới bao giờ kiệt hết bọt thì thôi. Này, tôi bảo cho một bí quyết, gia truyền đấy nhé, nhưng phải hứa với tôi là không được nói lại với ai, kê lỗ tai vào đây nào, để tôi nói nho nhỏ cho mà nghe, kẻo "con mẹ" hàng xóm nó... rình, xuỵt xuỵt... muốn cho nước dùng trong hơn, sau khi hớt bọt rồi, cho vào nồi củ cà rốt và củ cải trắng, vừa thêm ngọt nước nữa đấy, nhưng sau đó thì không được ăn mà phải vứt các củ ấy đi, nhớ nhé (!?)
Đến đây thì phải nói tới phần chính để làm cho nước phở trở thành một... bài thơ tao nhã, danh bất hư truyền, đó là gia vị. Trong nồi nước dùng, ngoài mắm muối ra, phải nướng hành củ và nướng gừng, cho vào nồi cùng với đinh hương, quế và hồi hương. Có nơi còn cho thảo quả.
Đinh hương hay đinh tử hương , tên khoa-học Syzygium aromaticum, thuộc họ Sim (Myrtaceae). Vì có hình dáng như cây đinh, lại tỏa mùi thơm nên có tên là đinh hương (?). Khi chúng ta ngửi thấy mùi hương này, sẽ liên tưởng ngay đến phòng... Nha khoa, vì đinh hương có công dụng phổ biến là dùng để cất lấy tinh dầu, có tính sát trùng mạnh nên sử dụng để làm thuốc tê và diệt tủy răng. Những người hay bị đau răng, thường gói theo mình một ít đinh hương, khi răng... dở chứng, bỏ một nụ vào chỗ đau, ngậm một chút thì cơn đau sẽ qua đi. Trong những khi bị nạn dịch, người ta có thể nhai đinh hương để phòng bị truyền nhiễm. Đinh hương là vị thuốc có tính ôn, vị cay, tác dụng vào 4 kinh (phế, tỳ, vị, thận), dùng chữa các chứng đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa... Ngoài việc làm gia vị cho nước phở, đinh hương có công dụng phổ biến là để chế bột cà ry.
Đầu của một con côn trùng.
Quế, còn gọi là ngọc quế (?), có rất nhiều loại mà thông dụng chia ra ba loại là quế Thanh Hóa, quế Quan (quế Xri Lanca) và quế Trung Quốc, tên khoa học gọi chung là Cinnamomum, thuộc họ long não (Lauraceae). Nhớ khi chúng tôi còn nhỏ, khoảng 4-5 tuổi, sau khi ăn quít thường để dành vỏ phơi khô, được nhiều nhiều thì chạy ra tiệm thuốc Bắc đổi lấy vài miếng quế đem về... ngậm chơi. Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, ngay câu đầu tiên ta đã đọc được "trải vách quế gió vàng hiu hắt", có nhiều người cho rằng vách quế do chữ quế dịch mà ra, nghĩa là vách tường có hồ trộn mạt cưa cây quế, nơi ở của cung tần phi nữ, quế làm cho ấm, khỏi cần... sưởi. Theo Huỳnh Khắc Dụng, phải là phách quế, có nghĩa là trăng sáng, thì đúng hơn . Quế có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, tác dụng vào 2 kinh (can, thận), bổ mệnh môn tướng hỏa, trị cố lãnh trầm hàn, chữa chân tay co quắp, chồn chân mỏi gối, bụng quặn đau, kinh nguyệt bế, ung thư... Ngoài ra, quế còn dùng để cất rượu hay trong công nghệ kẹo bánh.
Hồi hương hay bác giác hồi hương, đại hồi hương (?), tên khoa học Illicium, thuộc họ hồi (Illiciaceae). Hồi là trở về, hương là thơm, thịt thiu hay tương thối cho ít đại hồi vào nấu thì mùi thơm lại trở về, vì vậy nên đặt tên ấy. Thật sự, phải gọi là hồi quả chứ không phải hồi hoa, vì quả có ngôi sao 6-8 cánh đẹp như một bông hoa nên ta vẫn gọi lầm. Nhiều quả có đến 12-13 cánh. Hỡi các anh thích... nhậu, ngửi mùi hồi thì anh liên tưởng ngay đến rượu... Pastis hay Ricard, là rượu khai vị, cất từ tinh dầu cây hồi, rượu thường là 45 độ, có màu trắng trong, pha với nước sẽ chuyển sang màu vàng đục, một phần rượu năm phần nước, uống lạnh với đá, rất được ưa chuộng tại các tỉnh miền Nam nước Pháp. Vào quán, khách hàng thường gọi một cách thân thiết "ông chủ, làm ơn cho một cái... vàng" (un jaune, s'il vous plait), làm người Á Đông da vàng mình nghe cũng... chột dạ. Đại hồi có vị cay, tính ôn, tác dụng vào 4 kinh (can, thận, tỳ, vị), dùng chữa các chứng đau bụng, khó tiêu, nôn mửa, đau nhức, tê thấp... Ngoài việc làm gia vị cho nước phở, hồi còn dùng làm thơm thuốc đánh răng, kẹo bánh, hay bỏ vào nồi ra gu bò thì cũng... ác liệt lắm.
Thảo quả (?), còn gọi là quả tò ho, tên khoa học Amomum aromaticum, thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo quả chủ yếu dùng làm gia vị, khi dùng, bóc quả đã xấy khô lấy hạt ở trong, người miền Bắc hay cho vào chè lam hay chè kho. Thảo quả là vị thuốc có tính ôn, vị cay, chát, tác dụng vào 2 kinh (tỳ, vị), có năng lực khử đờm, chữa sốt rét, đau bụng...
Bốn gia vị kể ở trên đây, không ôn thì nhiệt, bởi thế nhiều người cho rằng ăn phở thì trong người cứ bị nóng, nổi mụn (?), ấy là còn chưa nói đến gừng. 
Gừng còn gọi là khương (?), có tên khoa học Zingiber officinale, thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Ngày Tết, chúng ta thường hay ăn mứt gừng, nhưng người Anh và Mỹ thì dùng gừng làm nguyên liệu để chế... rượu bia. Củ gừng (sinh khương) có vị cay, tính hơi ôn, vào 3 kinh (phế, tỳ, vị), trong nhân dân dùng chữa tiêu đờm, giải độc, cảm mạo, phong hàn, khó tiêu, ho... Nhiều người còn cho rằng gừng có tính... cường dương (?).
"Phớt hồng" - thiếu nữ châu Á
Úi giời, thế thì phở quả nhiên "nhiệt" thật, toàn là thứ để làm thành rượu thì ăn phở đâm ra... nghiện cũng đúng thôi (?). Đã vậy, khi ăn, nước dùng phải thật nóng, bỏng lưỡi bỏng miệng, phải cho thêm tiêu vào, nóng đến nước mắt nước mũi dàn dụa ra thì mới ngon. Phải như cụ Nguyễn Tuân, vục mặt xông vào trong làn khói nghi ngút của bát phở nóng có nhiều hành hoa..., xì xà xì xụp, phải ăn cho hết bát phở, húp hết cả nước dùng. Có nhiều người làm ra vẻ thanh cảnh, chỉ ăn thịt và bánh phở, uốn éo ỏng eo bỏ bê nước dùng, ăn như thế thì nào đâu biết ăn phở là gì. Thật là phí của giời. Nhiều người còn tệ hơn nữa, đập quả trứng vào, vừa làm đục nước dùng trong tô phở, vừa có cái mùi tanh tanh của trứng, át cả hương vị thanh tao của món ăn quốc hồn quốc túy. Ôi, bày chi cảnh hoa hòe hoa sói, ăn vào... phí cả mồm! Ăn thế, với phở gà thì mồm đã phí rồi, lại còn ăn với phở bò nữa, trời ạ!
Khi... Nam tiến, phở đã thay đổi đôi chút trong cách ăn. Người trong Nam cho thêm giá sống, ngò (rau mùi)... Sang bên đất Tây này, chúng tôi còn thấy nhiều người bỏ cả rau bạc hà (menthe). Phở chính hiệu... "con nai vàng ngơ ngác" thì không có các thứ ấy, chỉ là chế biến thêm vào sau này mà thôi, và theo ý riêng của chúng tôi, những thứ ấy có hay không, không ảnh hưởng đến hương vị của phở, cũng không làm phở ngon hơn. Nhưng ăn phở mà thiếu vị này thì không còn là phở, đó là ngò gai. Có tên khoa học là Eryngium foetidum, ngò gai xuất xứ từ Trung Mỹ, nhưng ta lại gọi là rau mùi tàu, thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Ngò gai chữa được cảm mạo, sốt, khó tiêu... Dân ta còn dùng ngò gai nấu với bồ kết để gội đầu. Ngoài ra, ăn phở còn phải có rau húng quế (Ocimum basilicum), trong Nam gọi là rau é, và dĩ nhiên phải có hành hoa.
Hành còn gọi thông hoa (?), thông bạch..., tên khoa học là Allium fistulosum, thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Thông là rỗng, dọc lá hành thì rỗng, bạch là trắng, củ (dò) hành có màu trắng, vì vậy nên đặt tên ấy. Hành là vị thuốc rất công dụng từ thời cổ xưa, tính ôn, vị cay, vào 2 kinh (phế, vị), chữa sốt rét, cảm, nhức đầu, phù thủng, khó tiêu... Tinh dầu hành có tính sát khuẩn mạnh, chữa mụn nhọt, mưng mũ, ngạt mũi... Hiện nay, nhiều nước dùng hành tây, còn gọi là dương thông (Allium cepa), tuy có nguồn gốc tại châu Á nhưng vì củ to (!) nên gọi là... tây.
Em yêu dấu, khi ánh chiêu dương chiếu rực rỡ trên những chùm hoa tuyết đang bay phất phới ở ngoài song cửa, thì anh xin được thì thầm vào tai em rằng Đông sẽ qua và Xuân lại về, cái lạnh ấy thế nào rồi cũng phải nhường chỗ cho muôn vàn ấp áp, đó là lẽ vô thường của trời đất. Hôm nay, nhìn những trắng xóa lạnh lùng mênh mang ngoài trời kia, thì em yêu, hãy ngồi xuống bên anh, chỉ xin chút mộng mơ về quê cũ, có mặt trời ngậm non đoài, có ánh kim quang ngời sáng, ta cùng nhau thưởng thức mùi hương của phở như vừa theo con gió lạ nào vừa đưa tới, đó là mùi vị quê hương trong ngạt ngào, say đắm, để bừng lên đôi má em nét hồng mây sớm, để đôi môi kia run lên như nhịp đàn, và để anh bànghoàng thốt lên:
...Cuồng loạn âm giai má hải đường
gọi nhau say chết giữa mùi hương
khi ăn niệm bóng sang ngồi cạnh
đưa tình thương tới gặp tình thương...
Club50.vn
(Một số ảnh không liên quan đến nội dung bài viết)
Đây là một tác phẩm nổi tiếng của bảo tàng Lourve, có tên Artemis và con hươu, niên đại khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét