Thứ Hai, 3 tháng 12, 2012

Im lặng sấm sét

Mohandas Gandhi
Thánh Gandhi là một nhân vật lỗi lạc của thế kỷ 20 và của nhân loại. Ngài là người duy nhất áp dụng phương pháp ôn hòa bất bạo động đương đầu với bạo lực súng đạn của thực dân Anh và đã thành công mang lại tự do cho đất nước Ấn Độ rộng lớn.
Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ trên diễn đàn điện tử, chúng tôi chỉ có thể khai lược một vài nét về Người. Ước mong sẽ có dịp trở lại đề tài này đầy đủ hơn khi điều kiện cho phép.
Thánh Gandhi tên gọi đủ là Mohandas Karamchand Gandhi. Gandhi là họ và cũng là tên gia đình. Khi còn trẻ nhiều người gọi ngài là Manu, Moniya, Mohan và Mohandas. Ở Nam Phi, nhiều đồng nghiệp gọi là "Bhai" hay anh. Khi trở về cố hương Ấn Độ được người dân thương mến kính trọng gọi là "Mahatma" tức - Great Soul - Người có trái tim rộng lớn hay Đại Bồ Tát. Người Việt ta gọi ngài là Thánh Gandhi. Giản dị hơn nữa dân chúng Ấn gọi ngài là Bapu tức là vị cha kính mến.
Thánh Gandhi đản sanh ngày 2-10-1869 tại thành phố Porbandar thuộc Kathiawar hay Saurashtra. Ngài trưởng thành và theo đuổi con đường học vấn, năm 30 tuổi lập gia đình với Kasturba.
Năm 1888, ngài đến Luân Đôn để học Luật. Với nỗ lực phi thường, ngài đã trở thành một vị luật sư năm 1891. Năm 1893 đến Nam Phi hành nghề Luật sư. Năm 1915 trở về Ấn cùng với gia đình cư trú tại Kochrab, sau đó là Sabarmati. Cũng trong thời gian này Gandhi đã có nhiều ưu tư trên các vấn nạn mà nước Ấn đang phải chịu đựng, đó là sự đô hộ của thực dân Anh.
Bức xúc trước sự nghèo khổ của dân chúng Ấn Độ dưới sự cai trị hà khắc của thực dân Anh, Ngài ủng hộ sự đình công của nông nhân nghèo tỉnh Champaran thuộc Bihar và Kheda thuộc Gujarat và đồng thời cùng hàng ngàn công nhân hầm mỏ xuống đường đấu tranh đòi công bằng luật pháp ở Ahmedabad.
Đứng trước guồng máy đàn áp thô bạo của thực dân Anh, ngài chỉ có một chủ trương duy nhất để tiến hành đấu tranh. Đó là thực hành phương pháp không bạo động và không hợp tác với nhà cầm quyền thuộc địa. Chủ trương này đã được đại đa số tầng lớp dân chúng hưởng ứng, và cái tên Bapu đã thực sự khắc ghi vào lòng dân tộc Ấn cho mãi đến ngày hôm nay.
Cụ thể của chủ trương đó là các phong trào như không hợp tác với chính quyền bảo hộ và từ chối hiến pháp nước Anh năm 1920-1921; Satyagraha năm 1930-1932; chống chiến tranh 1940-1941 đồng thời đòi hỏi thực dân Anh trao trả độc lập và rời khỏi Ấn Độ. Lo sợ trước uy tín ngày càng lan rộng của ngài, thực dân Anh đã bắt giam Thánh Gandhi vào ngày 9-8-1942.
Trước phong trào đấu tranh ngày càng lan rộng, thực dân Anh bắt buộc phải trao trả độc lập cho Ấn Độ vào 15-8-1947.
Mahatma Gandhi đã bị ám sát bởi một kẻ hindou quá khích vào ngày 30-1-1948 để lại biết bao thương kính cho dân tộc Ấn Độ. Từ bấy lâu nay nhiều người trong chúng ta cho rằng Gandhi bị ám sát bởi những kẻ cô đơn không có tổ chức, tuy nhiên theo Yann Forget thì ngài đã bị cả một nhóm hindou quá khích có tinh thần quốc gia cực đoan ám sát. Căn nguyên chỉ vì Gandhi chủ trương hòa đồng tôn giáo, chung sống hòa bình giữa các dân tộc. Jahawarlal Nehru ngậm ngùi than rằng: "…ngọn đèn trí tuệ đã rời khỏi chúng ta".
Vừa là một luật sư, triết gia vốn có đủ điều kiện để kiến tạo cho bản thân và gia đình một cuộc sống an nhàn hạnh phúc ở Vương quốc Anh. Nhưng với tấm lòng yêu nước thương dân nồng nàn, ngài đã rời bỏ tất cả để trở về tổ quốc, chỉ với quần thô áo vải dấn thân cùng với những người nông dân nghèo khổ để tranh đấu đòi quyền sống, bình đẳng và độc lập cho tổ quốc. Phương pháp đấu tranh bất bạo động và bất hợp tác với chính quyền bảo hộ đã đưa tới thắng lợi sau cùng cho dân tộc Ấn Độ. Đó là thực dân Anh đã trao trả độc lập cho nước Ấn và toàn dân xứ này đã khắc ghi ân đức của Mahatma Gandhi.
Đấu tranh phương pháp bất bạo động và bất hợp tác chống lại sự cai trị của thực dân Anh, Mahatma Gandhi đã biểu lộ được sức mạnh tâm linh vô cùng mãnh liệt. Sự mãnh liệt này chỉ có bốn chữ Im Lặng Sấm Sét mới tạm nói lên được một phần nào ý nghĩa của nó. Với sức mạnh tâm linh mãnh liệt như vừa trình bày, ngài và dân tộc Ấn Độ đã dành lại độc lập cho xứ sở vào năm 1947.
Nói tóm lại, những gì chúng tôi vừa trình bày chỉ có tính cách tóm tắt sơ lược về Thánh Gandhi, không nói được đầy đủ cuộc đời thánh thiện thật sự của ngài. Ngoài ra chúng tôi có thể đồng ý với JAWAHARLAL NEHRU về điểm "Không ai có thể viết về cuộc đời của Thánh Gandhi một cách đầy đủ trừ khi cá thể người ấy có cuộc sống và tâm hồn rộng lớn như Gandhi".
Trúc Lâm - Lê An Bình
"Ham học" - người đẹp Tăng Thanh Hà
Lược khảo tư tưởng của Gandhi
Mohandas Karamchand “Mahatma” (“Thánh nhân”) Gandhi đi vào lịch sử bằng cuộc đấu tranh chống lại chính quyền Anh Quốc ở Nam Phi và kế tiếp là vai trò lãnh đạo của ngài trong phong trào đòi độc lập cho Ấn Độ. Bất bạo động là nền tảng cho tất cả các chiến dịch vận động đấu tranh của ngài, điều đó thể hiện các chiều sâu đạo đức trong hoạt động chính trị của Gandhi. Hoạt động chính trị của Gandhi chỉ đơn thuần là sự áp dụng các ý tưởng xã hội và đạo đức vào trong hành động, và các ý tưởng này mới chính là mối quan tâm thực sự của ngài. Trên thực tế, ngài đã từng bị quy kết là “một vị thánh có quan tâm hời hợt tới chính trị.” Trong sâu thẳm trái tim ngài, Gandhi là một nhà cải cách chính trị và tôn giáo, người đã chọn lựa và sử dụng lĩnh vực chính trị như là một vũ đài để làm nơi đưa các “trải nghiệm với chân lý” của ngài vào cuộc sống.
Trong bài khảo lược ngắn này, tác giả tổng hợp, dịch và giới thiệu ba triết lý nền tảng trong tư tưởng của Gandhi là Ahimsa, Satya và Satyagraha.
Bất bạo động và Ahimsa (tính bất hại)
“Tín điều của ta là bất bạo động trong mọi trường hợp. Phương pháp của ta là cải biến tâm tính con người chứ không dùng sự áp chế; là tự chịu khổ nạn chứ không phải gây khổ nạn cho kẻ nắm bạo quyền”. Tuyên cáo này của Gandhi kết tinh các nguyên tắc căn bản nhất của triết lý bất bạo động. Triết lý bất bạo động là một trong những di sản quan trọng nhất trong tư tưởng của Gandhi, và nó là nền tảng cho nhiều di sản tư tưởng khác của ngài, đặc biệt là Satyagraha (sức mạnh của chân lý). Tính kiên định của Gandhi đối với nguyên tắc bất bạo động trong lĩnh vực chính trị là biểu hiện về sự hiến thân của ngài cho một nguyên tắc tinh thần sâu sắc hơn thế và hướng đến việc cải đổi cuộc sống của từng con người. Theo Gandhi, bất bạo động là một hành vi “tẩy uế bản thân mình”. Khái niệm “bất bạo động” thực ra là một từ Sanskrit, ahimsa (tính bất hại). Ahimsa nghĩa đen là sự thương yêu hoặc sự thống nhất trọn vẹn của bất bạo động trong cả ý nghĩ và hành động. Gandhi nói rằng “không có gì mới về tính bất hại cả. Triết lý này cổ xưa như núi đồi”. Điều này khá chính xác vì triết lý về tính bất hại là trung tâm của nhiều tôn giáo gốc Ấn Độ, thí dụ như đạo Giai-na, đạo Hindu và đạo Phật. Gandhi định nghĩa tinh tuý của tính bất hại là: “bất hại đích thực phải có nghĩa là sự tự do hoàn toàn khỏi tất cả các ý muốn tối tăm, sự giận dữ và bao gồm một tấm lòng yêu thương đích thực chảy mênh mang đối với mọi loài". Triết lý của Gandhi về “tính bất hại tích cực” (active ahimsa) bao gồm không chỉ việc xa lánh tất cả các hình thức bạo lực, mà còn dành tình yêu thương đến ngay cả kẻ thù của mình. Nó đòi hỏi “sự tự chịu khổ nạn một cách có chủ tâm” và vì thế “cần đến đức vô uý (không khiếp nhược)”. Một tông đồ của thuyết bất hại “dùng tâm linh của mình đối chọi với nhục thể [của đối phương]”. Cuối cùng, sự tự chịu đựng của một người đi theo thuyết bất hại là nhằm đánh thức và lay chuyển tâm tính của kẻ thù, người này sau đó sẽ bị chế ngự bởi lòng trắc ẩn và tình thương yêu.
Satya (Đạo/chân lý)
Gandhi đặt ngang hàng Satya (Đạo) với Đức Chúa Trời. Ngài nói rằng “Chân lý là Đức Chúa Trời của ta. Bất bạo động là phương tiện để đạt được ngài”. Gandhi giới thiệu cuốn tự truyện của mình bằng “ta chỉ muốn kể lại câu chuyện về những trải nghiệm của đời mình với chân lý, vì cuộc sống này của ta không có gì khác hơn ngoài những trải nghiệm đó.” Với việc theo đuổi Chân lý như là “mục đích duy nhất”, Gandhi đã tiến hành các thí-nghiệm-suốt-đời này trong tiểu thế giới là cuộc đời ngài và đại thế giới là cả xã hội nói chung. Dựa trên những huấn dụ trong Chí tôn ca (Bhagavad Gita), Gandhi xác quyết rằng Chân lý chỉ có thể đạt được qua bất bạo động. Không thể ngộ ra Chân lý đích thực và nó chỉ được dùng như một thứ vũ khí thay vì một nguồn gốc của tri thức, trừ phí Chân lý được tách khỏi những động cơ ích kỷ. Cuộc kiếm tìm Chân lý của Gandhi đòi hỏi những thử thách liên tiếp về các động cơ cá nhân của ngài. Qua những cuộc thử thách như thế, ngài đã thể nghiệm một cách sâu sắc đức hi sinh cá nhân và quên mình. Gandhi nhận ra rằng Chân lý có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngài tin rằng một khi ngộ ra tính đa nghĩa của Chân lý, tất cả các động cơ ích kỷ sẽ biến mất. Chúng sẽ được thế chỗ bởi lòng trắc ẩn, sự dấn thân cho triết lý bất bạo động, và khả năng tự hi sinh cá nhân vô hạn. Gandhi cũng tin rằng trong khi mưu cầu Chân lý, phải thường xuyên từ bỏ những tà tín (conviction), cũng như thường phải từ bỏ các điều phi lý. Ngài nói: “Nếu nhãn quan của ta được minh định là lầm lạc, ta sẽ sẵn sàng từ bỏ chúng”.
Satyagraha (Sức mạnh chân lý)
Satyagraha có nghĩa đen là “bám vững vào Chân lý”. Cũng có thể giải nghĩa từ này là “sức mạnh của lòng thương yêu, sức mạnh của tâm linh, và được biết đến nhiều hơn nhưng kém chính xác hơn, là phản kháng thụ động”. Gandhi mô tả khởi nguyên của khái niệm này khi còn ở Nam Phi: “Shri Maganlal Gandhi gợi ý … “Sadagrah” có nghĩa là “kiên định với lý tưởng chính đáng.” Ta thích từ này nhưng nó không diễn đạt hoàn toàn chính xác những gì ta muốn nói đến. Vì thế, ta hiệu chỉnh lại thành “Satyagraha.” Đạo hay Chân lý (Satya) hàm ý Tình yêu thương, và Sự kiên định (Agraha) sinh ra-và vì thế được dùng làm từ đồng nghĩa cho-sức mạnh… nói thế tức là, Sức mạnh được sinh ra bởi Chân lý và Tình yêu thương hoặc Bất bạo động”.
Với Gandhi, Sức mạnh chân lý là “con đường duy nhất” để đạt được swaraj (tự trị). Nó liên quan mật thiết đến tính bất hại (ahimsa) vì Sức mạnh chân lý bản chất là tính bất hại “trong hành động”. Sức mạnh chân lý dẫn đến bất bạo động, bất hợp tác (với cái ác) và tự hi sinh. Tấm lòng sẵn sàng hi sinh và chịu khổ nạn tràn đầy yêu thương của một tông đồ của Sức mạnh chân lý là nhằm khơi dậy giao cảm và đánh thức tính bất hại trong tâm (heart) và thức (mind) của đối phương. Gandhi giải thích rằng “tính tự chịu khổ nạn, được sinh ra bởi lòng can đảm, có thể làm tan chảy ngay cả trái tim của đá… đó là chìa khoá dẫn tới Sức mạnh chân lý”. Nói cách khác, “hành vi bất bạo động có nghĩa là việc chịu khổ nạn tự nguyện… chống đối phải được chuyển thành đồng cảm, vì trong sâu thẳm mỗi người, cho dù bị che giấu thế nào, vẫn ẩn chứa sự giác ngộ về tính thiện của con người”. Sức mạnh chân lý phải được thực hành không chỉ đơn thuần bằng tính bất hại và tự hi sinh; chúng phải luôn tuân thủ “đức thanh tịnh tuyệt đối, chấp nhận sự nghèo túng, đi theo Chân lý, và gieo trồng đức vô uý”.
Trong khi tính bất hại là động lực dẫn đường, bất hợp tác (với cái ác) là hành vi chủ yếu của phong trào Sức mạnh chân lý. Phần tinh tuý của “bám vững vào Chân lý là nhằm từ bỏ việc tiếp tay cho những điều phi lý. Nếu có đủ số người làm như vậy -nếu… thậm chí chỉ có một người làm như vậy với công phu đủ thâm sâu - cái ác sẽ phải sụp đổ vì không còn chỗ nương tựa”. Như Gandhi đã từng khẳng định, “Khi ta từ chối không thực hiện một việc làm trái với lương tri của mình, ta sử dụng sức mạnh của tâm”. Gandhi đưa ra ngụ ý chính trị của nguyên tắc này khi ngài nói rằng “Chính quyền sẽ không thể điều khiển chúng ta nếu chúng ta bất hợp tác”. Lúc ngài còn sinh thời, người ta thường lẫn lộn giữa Sức mạnh chân lý với phản kháng thụ động. Gandhi đã làm sáng tỏ sự khác biệt này:
“Có sự khác biệt rất lớn và căn bản giữa phản kháng thụ động và Sức mạnh chân lý… Nếu ta tiếp tục tin, và để người khác cũng tin, rằng ta yếu đuối và tuyệt vọng, và vì thế phản kháng một cách thụ động, sự phản kháng này sẽ không khi nào làm chúng ta mạnh lên được, và khi bất cứ cơ hội nào khác xuất hiện, ta sẽ chụp lấy nó và từ bỏ phản kháng thụ động vì nó là vũ khí của kẻ yếu. Mặt khác, nếu chúng ta là những người có sức mạnh của Chân lý, và vì thế, thực hiện Sức mạnh chân lý, tin tưởng rằng chúng ta có sức mạnh… [thì] chúng ta sẽ mạnh lên từng ngày… Phản kháng thụ động thường được nhìn nhận như là một sự chuẩn bị để sử dụng vũ lực, trong khi Sức mạnh chân lý không bao giờ được sử dụng theo cách ấy… Sức mạnh chân lý hàm ý việc chinh phục đối phương được thực hiện bởi sự tự chịu khổ nạn của bản thân”.
Dầu thế, Gandhi vẫn thường dùng hai khái niệm này thay thế cho nhau: “Phản kháng thụ động, đó là sử dụng tâm lực, là [phương pháp] không có đối thủ”. Gandhi nhìn nhận Sức mạnh chân lý không chỉ là một sức mạnh hơn hẳn sức mạnh của súng đạn, mà ngài còn coi đó là sức mạnh dẫn dắt cả vũ trụ. Gandhi nói, “sức mạnh của tình yêu cũng giống như sức mạnh của tâm hồn hoặc chân lý… Vũ trụ sẽ chẳng còn nếu không có sức mạnh ấy”. Tương tự, ngài tuyên bố rằng “ví dụ rõ ràng nhất và không thể chối cãi được về sức mạnh này (của chân lý hoặc tình yêu) sẽ được tìm thấy trong sự thật là, mặc cho đã trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh trên thế giới này, sức mạnh ấy vẫn còn sống mãi”.
Vì Gandhi nhìn nhận Sức mạnh chân lý là sức mạnh dẫn dắt của tình yêu và chân lý trong vũ trụ, tầm nhìn của Gandhi khi lãnh đạo các phong trào Sức mạnh chân lý không chỉ hướng tới sự thay đổi chính trị, mà còn hướng tới sự thay đổi đạo đức và tâm hồn của từng cá nhân. Ngài khẳng định “sự kết thúc của phong trào Sức mạnh chân lý chỉ có ý nghĩa khi nó khiến những tông đồ của Sức mạnh chân lý trở nên mạnh mẽ hơn so với lúc ban đầu”. Người soạn tiểu sử cho Gandhi đã nắm bắt được tinh tuý trong các phong trào Sức mạnh chân lý:
“Sức mạnh chân lý không nhằm ‘đoạt’ lấy một đối tượng nào, cũng không nhằm ‘nghiền nát’ một đối thủ nào, mà để kích hoạt các sức mạnh có thể dẫn tới sự cải biến tâm tính; bằng chiến lược này, hoàn toàn có thể thua ở tất cả các trận đánh nhưng vẫn là người chiến thắng trong cuộc chiến. Thực ra, chiến thắng hoặc thua cuộc không mô tả chính xác mục đích của phong trào Sức mạnh chân lý: một nền hoà bình đáng trân kính cho cả hai bên”.
Lâm Yến
"Vàng" - Thiếu nữ Ấn Độ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét