Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2012

Tổng hợp: Ông Phan Huy Lê đứng đầu Hội Khoa học Lịch sử coi thường công luận về cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan

GS sử học Phan Huy Lê.
"Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - lầm lẫn kéo dài: Hội Khoa học lịch sử do ông Phan Huy Lê đứng đầu coi thường công luận, giữ im lặng lâu dài". 
Bài này đã đăng trên Tuần báo Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh số 64 và 65, ngày 28-5 và 4-6-2009. Từ đó đến nay chưa nhận dược một lời phản biện nào từ phía GS Phan Huy Lê hoặc của độc giả. Nay chúng tôi biên tập lại và công bố trên mạng Internet.
PHẦN THỨ NHẤT
Đầu năm 2003, trong bài Phải chăng “nạn cống vải“ là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai thúc loan năm 722 đăng liên tiếp ba kỳ trên tạp chí Thế Giới Mới, tác giả Lê Mạnh Chiến (LMC) đã bác bỏ mọi luận cứ của giới sử học cho rằng “nạn cống vải” (nghĩa là ách lao dịch nặng nề, mà theo các nhà sử học thì mỗi năm, hàng ngàn nông dân phải gánh quả vải tươi sang kinh đô Tràng An để cống nạp cho nhà Đường) là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan.
Trong suốt 6 năm qua, Hội Khoa học Lịch sử không biểu lộ một phản ứng nào. Gần đây (tháng 3 -2009), GS Phan Huy Lê (PHL) công bố những bài viết mới về Khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Trong bài này, chúng tôi bày tỏ một phần cảm tưởng sau khi đọc các bài của GS Phan Huy Lê. Tuy chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử không trực tiếp phản bác các luận cứ của LMC nhưng ông đã tự bào chữa một cách gián tiếp, nhiều khi rắc rối và xuyên tạc, khiến độc giả bị lạc hướng, tưởng như LMC đã phạm nhiều sai lầm và PHL đúng từ đầu đến cuối mặc dầu ông ta là người chịu trách nhiệm chính của câu chuyện hoang đường về ”nạn cống vải”. Vì vây, trước khi thảo luân về các bài của PHL, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin về bối cảnh ra đời của chúng.
I. Những bài báo đáng chú ý của Lê Mạnh Chiến viết về “nạn cống vải”
Từ trước năm 1970 đến nay, các sách lịch sử mới biên soạn đều khẳng định rằng, “nạn cống vải” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Theo các nhà sử học, điều này đươc ghi trong thư tịch Trung Quốc, và họ còn trưng dẫn các nguyên do và chứng cứ làm cơ sở cho “phát hiện “ của mình, đại để như sau:
1. Quả vải là một đặc sản chỉ ở Việt Nam mới có, Trung Quốc không có nên triều đình bên ấy phải lấy quả vải từ nước ta về ăn. Vùng Hoan Châu (Nghệ - Tĩnh) thời thuộc Đường là nơi có quả vải ngon nhất và nhiều nhất nên phải hứng chịu “nạn cống vải”.
2. Dương Quý Phi - người đàn bà được Đường Huyền Tông sủng ái nhất - rất thích ăn quả vải, vì vậy, ông vua này bắt nhân dân Hoan Châu phải gánh sang kinh đô Tràng An nộp cống để cung cấp cho bà ta.
3. Mai Thúc Loan là một trong hàng ngàn dân phu phải gánh vải nộp cống, và, khởi đầu từ một hành động chống đối bột phát, ông đã trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa giành độc lập hồi đầu thế kỷ 8
4. Cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan tuy bị dập tắt nhanh chóng, nhưng nó đã làm cho “nạn cống vải” phải chấm dứt.
Tháng 3 năm 2003, Lê Mạnh Chiến (LMC) đã công bố bài Phải chăng "nạn cống vải" là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (Thế Giới Mới, số 526, 527, 528) trong đó, ông đã bác bỏ mọi dẫn chứng và lý lẽ của các nhà sử học. Ví du, LMC đã chứng minh:
1. Quả vải là đặc sản của miền Nam Trung Quốc. Nước ta tuy có quả vải nhưng không ngon bằng và cũng không nhiều. Quả vải ở Hoan Châu càng ít và chua, vải thiều ở Hải Dương là giống của Trung Quốc, mới xuất hiện ở Hải Dương từ những năm cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20.
2. Dương Quý Phi thích ăn quả vải, nhưng bà này sinh năm 719, còn khởi nghĩa Mai Thúc Loan thì bị dập tắt năm 722, nên không thể có việc Mai Thúc Loan đi cống vải để phục vụ Dương Quý Phi.
3. Mai Thúc Loan và đồng bào của ông không thể gánh quả vải sang Tràng An vì đường quá xa (hơn 4000km nếu tính theo đường thẳngn trên thực tế thì còn dài hơn nhiều, không dưới 6000km), nếu đi được bộ 30km/ngày thì phải mất ít nhất là 7 tháng, mà quả vải thì chỉ sau dăm ngày đã hỏng. 
4. Sau khi khởi nghĩa Mai Thúc Loan bị dập tắt, Dương Quý Phi vẫn ăn vải, có nghĩa là “nạn cống vải” vẫn còn, chứ không phải như các nhà sử học đã nói. Tuy nhiên, vải cống này lấy từ miền nam Trung Quốc, được các kỵ sĩ chở đến lẻ tẻ, không có chuyện hàng ngàn người (dù là trên đất Trung Quốc) còng lưng gánh vải lũ lượt đi một mạch đến Trường An như các nhà sử học đã khẳng định rồi ghi hẳn vào sách giáo khoa và các sách tra cứu về lịch sử.
Như vậy, tất cả những nguyên do, những chứng cứ mà các nhà sử học đưa ra để khẳng định tính xác thực của “nạn cống vải” đều bị LMC bác bỏ hoàn toàn. Do đó, ông khẳng định là Mai Thúc Loan không hề đi phu gánh vải sang kinh đô nhà Đường, cuộc khởi nghĩa của ông chẳng liên quan gì đến “nạn cống vải”. Ngoài ra, LMC cho rằng, ngay cả nếu câu chuyện “Mai Thúc Loan làm phu cống vải” là có thật thì việc coi đó là nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa vẫn là một ý kiến sai lầm, hạ thấp tầm vóc lịch sử của Mai Thúc Loan.
Trước những chứng cứ rành rành có cơ sở thực tế và có cả cứ liệu lịch sử vững chắc của LMC, các nhà sử học giữ im lặng, không thể phản bác nhưng cũng không lên tiếng thừa nhận sai lầm.
Đến năm 2005, vì thấy các nhà sử học vẫn im hơi lặng tiếng và sách giáo khoa lịch sử vẩn tiếp tục dạy những điều sai về khởi nghĩa Mai Thúc Loan, LMC viết bài “Đừng gia hạn cho sai lầm trong sách giáo khoa”, đăng trên báo Người Đại biểu Nhân dân sô 92 và 94 (ngày 10 và 13-6-2005) nhằm kêu gọi lương tâm của các nhà sử học, đừng tiếp tục in sách và giảng dạy sai về “nạn cống vải” nữa.
Cuối năm 2005, một độc giả của báo Người Đại biểu Nhân dân đã yêu cầu LMC giải đáp một câu hỏi, đại ý là: Trong quyển Lịch sử Hà Tĩnh tập 1 (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2000), các nhà sử học hàng đầu (gồm Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trương Hữu Quýnh và 4 người nữa) đã viết rằng, sách Đường-thư có ghi: “đầu thời Khai Nguyên, vào một năm được mùa vải tươi, Mai Thúc Loan bị bắt đi làm phu gánh vải đi cống cho triều Đường”, vậy thì các nhà học đã có cứ liệu về “nạn cống vải” đấy chứ. Tác giả LMC đã trả lời trên báo Người Đại biểu Nhân dân (số 240 và 24, ngày 7, 8-12-2005), trong bài Chớ nên bịa đặt cứ liệu lịch sử. Ông LMC cho biết rằng, ông đã dùng máy tính để rà soát cả hai bộ sách về lịch sử thời nhà Đường là Cựu Đường-thư và Tân Đường-thư (có thể gọi chung là Đường-thư), tuy trong đó đã nhắc đến Dương Tư Húc và khởi nghĩa Mai Thúc Loan vài lần, nhưng hoàn toàn không có chỗ nào viết như thế, nghĩa là các nhà sử học bịa ra “cứ liệu” ấy. Hơn nữa, LMC còn chứng minh rằng, các tác giả của Lịch sử Hà Tính tập 1 chưa đụng đến Tân Đường-thư và Cựu Đường-thư, nên họ nghĩ rằng, Đường-thư, Cựu Đường-thư và Tân Đường-thư là 3 bộ sách khác nhau (nhưng sự thật thì chỉ có 2 bộ) nên trong một tác phẩm khác họ thường xuyên “trích dẫn” cả ba. Họ chỉ biết các sách ấy qua tài liệu trung gian, nghĩa là qua những đoạn trích dẫn từ các sách khác, của các tác giả khác, hoặc qua bản dịch trong kho tư liệu. Có thể coi đây là một “thành tích” rất xấu xa mà các nhà sử học của chúng ta đã dám thực hiện để “minh chứng” cho “phát hiện” của họ về “nạn cống vải”.
Trong bài đăng trên tạp chí Thế giới mới, LMC đã chứng minh rõ ràng rằng, quả vải cống cho Dương Quý Phi được hái từ các vườn vải ở vùng Quảng Đông rồi được các kỵ sĩ thay phiên nhau chuyển qua nhiều trạm đổi ngựa để mang về Trường An cho nên không thể có chuyện Mai Thúc Loan từng làm phu cống vải. Tuy nhiên, còn có người nghĩ rằng, hình hình như đã có sách nào đó viết rằng trước thời Mai Thúc Loan vẫn có “nạn cống vải” (theo kiểu từng đoàn người lũ lượt quảy hai sọt vải đi bộ).
Có lẽ vì muốn chứng minh cho thật cặn kẽ để không bị ai bắt bẻ rầy rà nữa nên đầu năm 2008, tác giả LMC đã bổ sung tài liệu và sắp xếp lại bài viết của mình về “nạn cống vải”. Ông đã lấy thêm cứ liệu từ An Nam chí lược, Hậu Hán thư, Tư trị thông giám để chứng minh rằng, nạn cống vải “theo kiểu nhỏ giọt” đã có từ thời Tây Hán, nhưng quả vải được lấy từ Lưỡng Quảng và các vùng lân cận, thuộc đất Trung Quốc hoặc cũng có cả ở Việt nam nữa rồi được vận chuyển bằng ngựa theo hệ thống dịch trạm, gồm các trạm nghỉ ngơi và các trạm đổi ngựa cách nhau 5-10 dặm (mỗi dặm bằng khoảng 500m), cũng giống như việc cống vải cho Dương Quý Phi. Như vậy, “lệ cống vải” thời Hán hoàn toàn khác xa cái “nạn cống vải” mà các sử gia của chúng ta đã tưởng tượng cho Mai Thúc Loan. Bài này đã được đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2-2008 (với tiêu đề như bài đã đăng trên Thế Giới Mới).
Tóm lại, theo kết quả chứng minh của LMC, có thể rút ra những kết luận như sau:
1) Miền Nam Trung Quốc có quả vải rất nhiều và rất ngon nên không cần lấy quả vải ở Việt Nam, xa hơn rất nhiều (Ngay cả khi quả vải ở Việt Nam rất ngon thì cũng không ai làm cái việc ngu ngốc như thế)
2) Khi vận chuyển quả vải trên đất Trung Quốc, người ta sử dụng ngựa chuyển qua từng trạm chứ không sử dụng các đoàn dân phu, cho nên nếu có lấy quả vải ở Việt Nam thì cũng phải dùng ngựa, và cũng chuyển qua nhiều trạm, số người phục dịch chỉ rải rác mỗi trạm một ít, và chỉ vất vả vài ba ngày trong mỗi đơt (cả vụ có thể gồm dăm bảy đợt)
3) Ngay cả khi ở Trung Quốc không có quả vải và cũng không có ngựa, mà chỉ ở Việt Nam mới có quả vải thì dù triều đình Trung Quốc quá thèm quả vải cũng không thể lấy từ Việt Nam về vì đường sá xa xôi, chưa đi được một phần mười quãng đường thì quả vải đã thối rữa. Giả sử quả vải không bị thối rữa mà có thể vận chuyển đi xa được thì cũng không thể có chuyện hàng ngàn dân phu lũ lượt gánh gồng đi thẳng từ Nghệ An đến kinh đô Trường An, bởi vì rất nhiều điều khó khăn phức tạp sẽ xẩy ra đồi với đoàn người lưu động nhiều tháng trên đường dài.
4) Tuy ở Trung Quốc có quả vải rất nhiều và rất ngon, triều đinh Trung Quốc có thể bắt dân ta “cống cây vải” để về trồng hoặc “cống quả vải” về ăn cho biết của lạ. Cây vải thì phải gánh và chuyển qua từng chặng, không thể gánh “môt mạch”, và cũng chỉ gánh một một ít cây cho nên số người gánh cây vải không nhiều và không phải năm nào cũng phải gánh như thế Còn nếu muốn nếm thử quả vải An Nam thì phải xử lý (ví dụ, ngâm muối, ngâm mật, sấy khô) nhưng như thế thì đâu phải là “cống quả vải tươi”, và cũng không cần người gồng gánh bộ vì có thể chở bằng thuyền bè hoặc ngựa, như mọi thứ khác vậy. Không thể dùng cách “đánh tráo khái niêm”, biến cái “lệ cống vải” nhỏ nhặt gồm một ít “quả vải ngâm mật” thành “nạn cống quả vải tươi” làm khổ sở hàng ngàn dân phu suốt hơn một năm (vừa đi vừa về), để phản bác LMC.
Cuối cùng, dù quả vải ở nước ta là ngon hay không ngon, là ít hay nhiều đều không thể có chuyện nông dân ta từng phải gánh quả vải tươi sang Trường An (hay kinh đô của các triều đại khác).
II. Hội Khoa học Lịch sử do ông Phan Huy Lê đứng đầu coi thường công luận, giữ im lặng lâu dài
Sau khi LMC công bồ bài báo trên Thế Giới Mới, mọi người nghĩ rằng, các nhà sử học sẽ lên tiếng phản bác nếu lý lẽ của LMC chứa đựng nhiều sai lầm, thiếu cơ sở khoa học; và nếu các nhà sử học không phản bác được thì chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử phải nghiêm túc cải chính và xin lỗi toàn dân cả nước, ngay cả khi vị chủ tịch này mới nhậm chức và không dính líu vào sai lầm cũng vây. Trong khoa học và cả trong mọi lĩnh vực khác, hẳn là không có ai tránh được hết mọi sai lầm, nhưng, nếu là người đứng đắn thì khi sai lầm đã được vạch rõ, người có trách nhiệm về sai lầm đó phải nhanh chóng công khai thừa nhận và xin lỗi mọi người bị ảnh hưởng của sai lầm ấy. Đó là đạo lý, là văn minh. Trong trường hợp này, nếu ý kiến của LMC là đúng thì việc Hội Khoa học Lịch sử xin lỗi toàn dân vầ cảm tạ LMC là điều phải làm để chứng tỏ cái lương tâm trong sáng và tinh thần trách nhiệm của giới sử học. Bởi vì, sai lầm đã xẩy ra không hề do “điều kiện khách quan” mà là do các nhà sử học chỉ dựa vào vài truyền thuyết cùng với bài vè lấy ý từ một bài thơ của Đỗ Mục (nhà thơ nổi tiếng thời Đường), vội vã cho đó là bằng chứng để khẳng định “nạn cống vải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan” và bịa đặt thêm những nguyên do, những “chứng cứ” hoàn toàn trái ngược với sự thật rồi ghi những điều dối trá ấy vào các sách giáo khoa của mọi cấp, vào các sách lịch sử ở mọi thể loại. Cách làm việc như vây là cẩn trọng hay cẩu thả, tỉ mỉ hay qua loa, cần mẫn hay lười biếng, độc giả dễ dàng kết luận được ngay.
Vì những lẽ vừa nêu, chúng tôi và tất cả những người quan tâm đến lịch sử đất nước, đến văn hóa, giáo dục, đạo đức, đều coi đây là một vụ “tiêu cực” trong khoa học, nên ai nấy đều mong chờ một bài cải chính và xin lỗi toàn dân do Hội Khoa học Lịch sử hoặc bộ Giáo dục công bố, và tiếp theo là sửa chữa sai lầm này trong tất cá các sách giáo khoa về lịch sử từ tiểu học, trung học đến đại học.
Hưởng ứng bài của tác giả LMC, trên báo Thể thao & Văn hóa số 33 ra ngày 25-4-2003, ông Vương Trí Nhàn có bài Gánh quả vải đi bộ 4000km mà vải không hỏng, tỏ ý khâm phục ý kiến của LMC và lo ngại cho môn học lịch sử trong nhà trường.
Giới sử học vẫn im lặng trước, hoàn toàn không có phản ứng gì.
Tháng 10 năm 2004, GS TS Kiều Thu Hoạch viết bài “Từ truyền thuyết đến lịch sử” (Trao đổi xung quanh vấn đề “nạn cống vải”), bàn về bài báo của tác giả LMC. Vị GS này chê LMC chỉ sử dụng những tài liệu gián tiếp qua một số từ điển thông dụng nên không tránh khỏi còn có những hạn chế nhất định, nhưng ông không nêu rõ đó là là nhứng hạn chế gì. Ông Kiều Thu Hoạch cho rằng, khảo cứu về cây vải thì tốt nhất là phải sử dụng sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (hoàn thành năm 1596). Theo chúng tôi, các bộ từ điển mà LMC đã sử dụng như Encyclopedia Britanicacủa Anh, Grand Larousse Encyclopédique của Pháp và Đại Bách Khoa Toàn Thư của Trung Quốc đều là những sách tra cứu đầy đủ nhất của các nước ấy, là những bộ đại từ điển lớn nhát thế giới, dung lương của mõi bộ đều lớn gấp nhiều chục lần so với 4 tập Từ điển Bách khoa Việt Nam, đó không phải là những từ điển thông dụng như ông Hoạch nói. Hiển nhiên là về sinh vật học và cả dược học, các bộ đại từ điển này phải vượt xa Bản thảo cương mục(vẫn biết, đây là một bộ sách quý của nhân loại), vì chúng được biên soạn bởi hàng ngàn học giả, trong đó có những người đạt đến tột đỉnh của trình độ thế giới hiện nay, sau Lý Thời Trân 400 năm. Vả lại, mọi điều hay và đúng của Lý Thời Trân đều được gạn lọc để đưa vào các bộ từ điển này rồi.cho nên , sự chê bai của ông Hoạch là do sự hiểu biét thiển cận của ông ấy. Tuy nhiên, điều đáng quý là ông Kiều Thu Hoạch đã sử dụng Bản thảo cương mục để ủng hộ lý lẽ của LMC, sau khi thừa nhận là bài báo của LMC “đã có công phát hiện vấn đề”.
Sau bài báo của GS TS Kiều Thu Hoạch, các nhà sử học vẫn làm ngơ.
Năm 2008, trên tạp chí Tia sáng (số 9, ngày 5-5-2008), trong bài Người trí thức trước hết phải dũng cảm, khiêm tốn và trung thực (trang 3), Giáo sư - Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Văn Chiển đã lên tiếng nhắc nhở: "...Nhưng có một câu chuyện hoang đường hay một chuyện bịa lịch sử dạy cho cấp I phổ thông: Mai Thúc Loan vì phải gánh vải tươi cống Dương Quý Phi mà cùng nông phu nổi dậy chống sự thống trị của nhà Đường. Câu chuyện phi lý đó đã được ông Lê Mạnh Chiến vạch ra từ mấy năm rồi thế mà vẩn được in trong nửa triệu SGK cấp I... Điều ngạc nhiên là câu chuyện phi lý này còn được lặp lại trong những bộ SGK lớn hơn, ví dụ, trong tập I của bộ Đại cương lịch sử Việt Nam (trang 94)”.
Các nhà sử học vẫn tiếp tục im lặng, một sự im lặng kéo dài quá lâu, tưởng như sẽ im lặng mãi mãi, để cho vụ việc này chìm vào quá khứ. 
III. Mánh khóe của các nhà ngụy biện
Khi bài báo của tác giả LMC được công bố, tuyệt đại đa số độc giả đều đồng tình ủng hộ và cho là lý lẽ rất chặt chẽ. Tuy vậy, cũng có một số người rất ít ỏi tìm mọi cách bài xích và xuyên tạc để đi đến kết luận là LMC đã nói sai và “nạn cống vải” kinh khủng ghê gớm thời Mai Thúc Loan vẫn có thật. Tất cả những người ấy, không một ai đụng đến những “nguyên do và bằng chứng” mà các nhà sử học bịa đặt ra và đã bị LMC bác bỏ hoàn toàn. Họ cố tìm cách xuyên tạc ý của LMC, lấy một ý nhỏ của ông và bẻ queo đi rồi chứng minh ràng lý lẽ của LMC là sai, là “không có cơ sở”. Phần lớn những người này chỉ phát biểu rải rác ở đâu đó, nhưng cũng có 1 trường hợp viết lên báo, đó là bài “Có hay không chuyện cống vải thời Đường” trên tạp chí Văn hóa Nghệ An (số 45, tháng 2-2004) của hai tác giả Đinh Văn Hiến và Đinh Lê Yên.
Đây là một ví dụ cụ thể về lối ngụy biện mà người ta thường dùng để “phản bác” LMC. Xin trích dẫn vài đoạn ngụy biện ấy theo bài “Đã chứng minh được sự thực về “nạn cống vải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan rồi chăng?” của LMC trên tạp chí Văn hóa Nghệ An (số 46, tháng 3-2004) để thấy rõ mặt thật của hai ông họ Đinh.
Bằng cách cắt xén và bóp méo, hai ông họ Đinh đã tóm lược ý kiến của LMC thành 3 điểm:
1. Khi Mai Thúc Loan khởi nghĩa thì Dương Quý Phi chưa vào cung (thị sinh năm 717) nên không thể cho thị là người bắt Đường Minh Hoàng kiếm quả vài châu Hoan về để thỏa mãn ham muốn của thị
2. Không thể có chuyện cống vải từ châu Hoan sang Trường Ân vì châu Hoan không có vải, cây vải có nguồn gốc từ Nam Trung Quốc. Một số nơi ở nước ta có vải là về sau này, và kể cả sau này Nghệ An cũng chẳng có loại vải ngon khả dĩ làm vật cống tiến.
3. Giả sử ở Nghệ An có quả vải ngon thì chuyên chở sang Trường An, vải thối hết!
Rồi họ lần lượt phản bác từng điểm:
Về ý thứ nhất, ông Lê hoàn toàn đúng. Chúng tôi cũng đã nêu ý kiến này trong cuốn “Mai Hắc Đế – truyền thuyết và lịch sử” khi xuất bản lần đầu (NXB Nghệ An - 1997). Lúc đó, chúng tôi tiềm ẩn một giả thiết là bà Phi thích vải không phải là Dương Quý Phi (vì cho đến khi thị vào cung với Đường Minh Hoàng thì ông đã ngồi ngai vàng được 27 năm, thời gian này còn những ái phi khác). Một giả thuyết thứ hai là Mai Thúc Loan khởi nghĩa sau năm 739 là năm Dương Quý Phi vào cung. (Khi đó chưa khẳng định năm khởi nghĩa là 713).
Ở điểm 2, sau khi nêu ra một số lý lẽ, hai ông khẳng định mà không nêu chứng cứ:
Xưa kia, trước năm - 111, cây vải là cây trồng phổ biến ở Bắc Bộ nước ta (và có thể ở Nghệ Tĩnh). Sau đó, nhờ sự ham thích của người Trung Quốc, cây vải được di thực về Trung quốc (và cũng có thể từ Giao Chỉ vào Nghệ Tĩnh ngày nay nếu như trước đây Nghệ Tĩnh chưa có vải).
Thời Đường, dù có cây vải ở Nam Trung Quốc, mà Hoan châu vẫn phải cống vải cùng với Lưỡng Quảng, có thể do vải ở đây ngon hơn nên vua Đường thích. Cũng có thể vải hai nơi ra hoa kết trái chênh vụ nhau, nên nhà Đường bắt cả hai nơi cùng cống vải để kéo dài thời gian có vải cho nhà vua dùng. Và như vậy, truyền thuyết cống vải hoàn toàn có cơ sở chứ không phải là chuyện hoang đường như ông Lê nghĩ.
Về điểm thứ 3, hai ông viết: "Còn việc không đưa vải đi xa, xin có ý kiến như sau:
Chúng tôi chưa tự tay làm, nhưng trên một bài báo đăng ở Tri thức trẻ số tháng 12-2003, KS hoá Nguyễn Văn Tuyên (nguyên giáo viên dạy hoá của Trường Đại học Nông nghiệp II, nay là giáo viên trường PTTH bán công Nam Đàn) có viết bài nói rằng, ông đã làm thí nghiệm về việc bảo quản quả cam, quả vải theo cách dân gian xưa (chứ không phải là bằng nước clo hay ôzôn bây giờ) mà cam, vải vẫn tươi 3- 4 tháng.
Đó là chuyện nay, còn xưa kia khi khai quật một ngôi mộ cổ 230 năm tuổi, các nhà khảo cổ đã thấy, bên cạnh xác ướp nguyên vẹn, có cả một túi trầu cau vẫn tươi nguyên (bài ông Đỗ Hữu Ninh đăng trên Tạp chí Khảo cổ học số 51-52, xuất bản năm 1973).
Từ đó, ta nghĩ chuyện bảo quản quả vải hàng tháng trời xưa phục vụ một vị Hoàng đế ở Thiên Triều chắc chắn sẽ làm được (tất nhiên điều này không áp dụng trong buôn bán, vì nó có thể giá thành quá đắt)".
Kết thúc bài phê phán LMC, hai ông Đinh viết (nguyên văn): "Không là nhà sử học, chỉ là những cán bộ khoa học có bỏ công nghiên cứu về Mai Hắc Đế, đọc bài viết của hai ông (ám chỉ LMC và Vương Trí Nhàn - người viết bài hưởng ứng), sau khi trao đổi với nhiều người, chúng tôi vẫn tin là: Như truyền thuyết từng kể lại, đúng là vào thời thuộc Đường, nạn cống vải đã xẩy ra (dù không liên quan đến Dương Quý Phi). Quả vải có thể được chế biến bảo quản tốt để chuyên chở vừa bằng sức ngựa để dùng trước, đồng thời cùng các cống vật khác, vải quả được chuyên chở bằng cả sức người. Đó là thứ vải đặc sản của Châu Hoan, chứ không hề có sự nhầm lẫn là vải đưa về Tràng An chỉ là vải của Quảng Đông Quảng Tây Trung Quốc. Nạn cống vải của Châu Hoan, nhờ Mai Thúc Loan khởi nghĩa mà được chấm dứt.
Sau này, khi Dương Quý Phi vào cung, vẫn có lệ cống vải vào Đường Triều, đó là lệ đặt ra cho nhân đân Lưỡng Quảng, không phải là nhân dân Châu Hoan".
Tác giả LMC đã trả lời hai nhà ngụy biện họ Đinh như sau: "Chúng tôi không bàn cãi với hai ông về việc này vì ly lẽ của hai ông rất lẩm cẩm, lại còn bịa đặt ra dẫn chứng. Hai ông họ Đinh trưng dẫn bài báo nói về ngôi mộ cổ nhưng chưa bao gìờ đọc bài đó cũng như chưa bao giờ đọc tạp chíKhảo cổ hoc. Chứng cứ là, bài báo đó, với tiêu đề Khai quật khảo cổ học một ngôi mộ hợp chất ở Vân Cát (Nam Hà) đăng trên tạp chí Khảo cổ học số 5-6, năm 1970 chứ không phải số 51-52 năm 1973 như hai ông đã chỉ dẫn. Do tình hình in ấn khó khăn trong thời gian chiến tranh nên trong hai năm 1972 và 1973 tạp chí Khảo cổ học không ra được số nào cả, đến năm 1974 mới ra tiếp số 13. Tác giả bài báo đó là nhà khảo cổ hoc Đỗ Văn Ninh chứ không phải là Đỗ Hữu Ninh. Qua đây, độc giả đủ thấy rõ đức tính trung thực của hai ông họ Đinh".
…Để phản bác LMC và ủng hộ những người khẳng đinh “nạn cống vải” khủng khiếp thời thuộc Đường mà Mai Thúc Loan là một trong hàng ngàn hàng vạn nạn nhân, người ta chỉ có một cách là bóp méo, xuyên tạc và bịa đặt. Sau bài phê phán của LMC, hai ông họ Đinh hoàn toàn im lặng.
Sau đó 5 năm, ông GS Phan Huy Lê đã tiếp bước hai nhà ngụy biện họ Đinh, xuyên tạc mọi luận cứ của tác giả Lê Mạnh Chiến ngay từ đầu để “phản biện”, chứng minh rằng lý lẽ của Lê Mạnh Chiến là “thiếu cơ sở khoa học, rồi mạo nhận rằng “theo kết quả tra cứu của tôi (tức PHL) thì vào thời thuộc Đường, không tìm thấy một tư liệu đàng tin cậy nài về chế độ cóng vải từ Giao châu hay An Nam, tức từ nước ta”.
"Lì xì" - Hot girl Nana
Thuật “phản biện” xuyên tạc, quanh co, phi khoa học, không trung thực
IV. Thuật “phản biện” xuyên tạc, quanh co, phi khoa học, không trung thực 
Trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử (NCLS) số 2-2009, nghĩa là 6 năm sau khi LMC công bố kết quả nghiên cứu của mình, chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Phan Huy Lê (PHL) đăng bài Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - những vấn đề cần xác minh. Ngay sau đó, trên tạp chí điện tử Diễn đàn của người việt ở Pháp, ngày 18-3-2009, đã xuất hiện bài Khảo cứu lại cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan cũng của PHL, rồi trên tạp chí Lịch sử quân sự (LSQS) lại có bài Những khảo cứu mới về khởi nghĩa Mai Thúc Loan (số 207, 208, tháng 3 và 4-2009) của ông ta... Nghĩ rằng, từ nhiều năm nay, GS Phan Huy Lê né tránh đề tài Mai Thúc Loan.
Sau khi đọc cả ba bài, chúng tôi thấy rằng, bài trên Diễn đàn cũng chính là bài đăng trên NCLS tuy tiêu đề hơi khác chút ít, trong đó có nói đến “nạn cống vải” và tìm cách đánh lạc hướng dư luận, đổ sai lầm cho đồng nghiệp của mình.Chúng tôi sẽ phân tích một số đoạn trong bài này, đủ để chứng minh những điều vừa kể. 
Bài Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - những vấn đề cần xác minh (trên tạp chí NCLS) gồm 6 phần:
1. Cơ sở tư liệu và những ghi chép khác nhau về khởi nghĩa Mai Thúc Loan
2. Về quê hương và gia đình Mai Thúc Loan
3. Nguyên nhân khởi nghĩa và vấn đề cống quả vải
4. Về năm khởi nghĩa
5. Quy mô và sự thành bại của cuộc khởi nghĩa
6. Nhận xét tổng hợp 
Bài trên tạp chí LSQS là một “dị bản” của bài trên NCLS, trong đó xóa bỏ hoàn toàn những câu, những chữ đụng chạm đến “nạn cống vải” vốn có khá nhiều trong bài trên NCLS. Bởi vậy, so với bài trên NCLS thì bài trên LSQS thiếu hẳn phần Nguyên nhân khởi nghĩa và vấn đề cống quả vải. Ngoài ra, vì không nói đến “nạn cống vải” nên phần 1 của bài trên NCLS có tiêu đề là Cơ sở tư liệu và những ghi chép khác nhau về khởi nghĩa Mai Thúc Loan, còn ở bài trên LSQS thì có tiêu đề là Những ghi chép về khởi nghĩa Mai Thúc Loan, lược bớt các chữ “cơ sở tư liệu”. Bài trên LSQS không nhằm mục đích bào chữa cho tác giả, mà chỉ nhằm quảng cáo tài năng và thành tích của tác giả nên nó được mang một cái tên khác, ấy là: Những khảo cứu mới về khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Trong bài này (đương nhiên là cả trong bài trên NCLS) tác giả trích dẫn khá nhiều sách, nêu lên nhiều chi tiết, nhiều sự việc mà chúng tôi đã đọc được ở đâu đó cả rồi nên thấy chẳng có gì là “khảo cứu mới” cả. Ngoài Trần Bá Chí được nhắc đến một chút, tác giả không nhắc đến nhà sử học nào khác nữa, và cũng không nói rõ phát hiện nào là của người nào, cái gì của PHL, cái gì của ai khác, cái gì là mới, cái gì là cũ, lại do cái tiêu đề của bài là “Những khảo cứu mới....”, cho nên người đọc có cảm tưởng rằng, đây là bản liệt kê những “khảo cứu mới” (nhưng không mới), là bản thành tích mới (nhưng không mới) của PHL (nhưng không phải của PHL). Giá như ông viết là “xác minh lại những khảo cứu cũ” thì chẳng ai nghĩ xấu cho ông. Phải chăng, tác giả cố ý tạo nên cảm tưởng ấy nơi người đọc?.
Ở phần 4 (Về năm khởi nghĩa), ông PHL đã đưa ra “phát hiện mới” động trời, chứng minh rằng Khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra và giành thắng lợi từ năm 713 đến năm 722, sửa chữa sai lầm suốt nhiều thế kỷ của nhiều t hé hệ sử gia từ Lê VĂn hưu thời Trần cho đến ngày nay. Chúng tôi chưa có điều kiện xem xét vấn đề đáng nghi ngờ này. 
Trong bài viết ở đây, chúng tôi xin phép nêu một số ý kiến ban đầu về bài Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - những vấn đề cần xác minh (NCLS, 2-2009) của Phan Huy Lê, mà chủ yếu là tập trung vào việc vạch rõ những dụng ý không lành mạnh của ông ta thể hiện ở phần 1 (Cơ sở tư liệu và những ghi chép khác nhau về khởi nghĩa Mai Thúc Loan) và phần 3 (Nguyên nhân khởi nghĩa và vấn đề cống vải). 
A. Cố ý bỏ quên những ghi chép sai của chính mình, sửa đổi và bẻ queo kết luận của người phản bác mình nhằm khiến độc giả lạc hướng để dễ bề xuyên tạc
Đó là nhận xét, là kết luận của chúng tôi sau khi nghiên cứu phần 1 (Cơ sở tư liệu và những ghi chép khác nhau về khởi nghĩa Mai Thúc Loan) trong bài Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - những vấn đề cần xác minh của ông Phan Huy Lê đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (NCLS).
Sau đây, xin phân tích cụ thể.
Ở phần 1 này, tác giả lần lượt kiểm điểm những ghi chép về khởi nghĩa Mai Thúc Loan trong các sách lịch sử: từ Đại Việt sử lược (hay Việt sử lược?) đầu thời Trần, Đại Việt sử ký toàn thư, phần Ngoại kỷ do Ngô Sĩ Liên biên soạn,Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thi Sĩ, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn, rồi đến Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng, Việt Nam sử lược (chép nhầm thành Việt sử lược) của Trần Trọng Kim, và cả Đại Nam nhất thống chí (bộ sách địa lý – lịch sử của Quốc sử quán triều Nguyễn) nữa. Điều đáng ngạc nhiên là, từ sau Trần Trọng Kim đến nay, tác giả viết quá sơ sài, chỉ nhắc đến Đào Duy Anh, Trần Quốc Vượng trong vài dòng cước chú, và không nhắc đến những quyển sách lịch sử chính thống được viết sau năm 1960 mà PHL đóng vai trò cốt cán, trong đó có những ghi chép khác xưa và khá chi tiết về Khởi nghĩa Mai Thúc Loan.
Tiếp đó, ông Phan Huy Lê viết: "Năm 1964 Trần Bá Chí công bố một số tư liệu khảo sát thực địa vùng Hà Tĩnh, Nghệ An gồm gia phả ở xã Đông Liệt, văn tế, hát chầu, hai bài thơ chép trong Tiên chân báo huấn tân kinh tại đền thờ Mai Hắc Đế, một số truyền thuyết dân gian... cùng một số di tích như thành Vạn An, đền thờ Mai Hắc Đế, lăng mộ mẹ và cha con vua Mai ở Nam Đàn, Nghệ An và một số di tích, truyền thuyết ở Mai Phụ, Hà Tĩnh.... Khai thác nguồn tư liệu này, một số sách sử làm rõ hơn nguồn gốc, quê hương Mai Thúc Loan, nhấn mạnh thành phần xuất thân lao động nghèo khổ, coi chuyện đi phu gánh vải cống là nguyên do trực tiếp khởi đầu cuộc khởi nghĩa, sau khi chiếm Hoan Châu xây dựng căn cứ Sa Nam, từ đó mở cuộc tiến công làm chủ cả nước, nêu cao qui mô cuộc khởi nghĩa. Năm khởi nghĩa và thất bại vẫn coi là năm 722. Nhiều nhà sử học tiếp nhận nguồn tư liệu dân gian này và bổ sung vào công trình nghiên cứu thời Bắc thuộc. Sách giáo khoa phổ thông và đại học đều viết theo nguồn tư liệu bổ sung này".
Năm 2003 trên báo Thế giới mới đăng tải một số bài của Lê Mạnh Chiến chất vấn và phê phán các nhà sử học, cho việc cống vải trong thời Bắc thuộc là không có cơ sở khoa học vì vải vùng nam Trung Quốc nổi tiếng, thời thuộc Đường việc vận chuyển quả vải tươi từ nước ta về kinh đô Trường An không thể thực hiện được, coi Mai Thúc Loan cùng đoàn phu chuyên chở vải cống bất bình nổi dậy là không đúng về nguyên nhân khởi nghĩa.
Năm 1997, Đinh Văn Hiến và Đinh Lê Viên xuất bản sách Mai Hắc Đế, truyền thuyết và lịch sử, đã có công thu thập các tư liệu liên quan trong sử sách của ta, trong Tân Đường-thư của Trung Quốc và tư liệu tại các địa phương liên quan, từ đó đặt lại một số vấn đề như năm khởi nghĩa là năm 713 chứ không phải năm 722, qui mô rất lớn của cuộc khởi nghĩa, quốc đô Vạn An, cuộc kháng chiến chống quân Đường... Cuốn sách đã thu hút được sự quan tâm của một số báo chí và một số người quan tâm đến lịch sử dân tộc,.....Năm 2007 tác giả mở trang Web về Mai Hắc Đế và khởi nghĩa Hoan Châu để vận động mở cuộc hội thảo về vấn đề này. Năm 2008 tác giả cũng đã viết thư cho Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đề nghị Hội cùng Tỉnh uỷ Nghệ An tổ chức cuộc hội thảo để xác minh và kết luận các vấn đề đã được đặt ra về cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan. Thái độ của Hội Khoa học Lịch sử là luôn luôn khuyến khích, cổ vũ mọi sự tìm tòi, khám phá nhằm làm sáng rõ các vấn đề của lịch sử dân tộc và sẵn sàng phối hợp với các tỉnh, thành phố, các cơ quan khoa học tổ chức những cuộc hội thảo khoa học để góp phần xác minh các vấn đề lịch sử khi đã hội đủ các điều kiện khoa học cần thiết. Vì vậy chúng tôi rất hoan nghênh trường Đại học Vinh cùng Viện sử học đứng ra tổ chức cuộc hội thảo về khởi nghĩa Hoan Châu ngày 8-11-2008 tại thành phố Vinh (Nghệ An). Cũng nhân cuộc hội thảo này, tôi kiểm tra lại các nguồn sử liệu đã phát hiện và cố gắng khai thác, thu thập thêm những sử liệu liên quan, nhất là trong thư tịch cổ của Trung Quốc, để góp phần xác minh lại những vấn đề đã đặt ra về cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan.
Một điều khiến chúng tôi hết sức ngạc nhiên là, trong số các nhà sử học từng coi chuyện đi phu gánh vải cống là nguyên do trực tiếp khởi đến cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan và coi điều này như một phát hiện mới, không thấy ai nhắc đến việc họ khai thác tài liệu khảo sát của ông Trần Bá Chí. Nếu đúng là do Trần Bá Chí mà một loạt sách lịch sử đã viết sai thì ảnh hưởng của ông Chí phải lớn lắm, mà qua lời kể chưa đầy đủ (vì còn những dấu chấm lửng) của PHL thì ông Chí đã làm quá nhiều việc, lẽ nào khi sự việc được coi như một phát hiện mới thì các vị khác lấy đó làm thành tích của mình, nay bị chất vấn thì mới nhắc đến ông, người đọc dễ coi ông là “chính danh thủ phạm”. Hiện tại chúng tôi chưa bàn đến kết quả khảo sát của ông Trần Bá Chí, nhưng rõ ràng là ông bị đối xử không công bằng. Chúng tôi nghĩ rằng, trong một báo cáo khảo sát thực địa thì ông Trần Bá Chí phát biểu theo nhận thức nhất thời của ông, ý kiến của ông dẫu sai thì cũng là điều hết sức bình thường. Nhưng khi người khác dựa vào kết quả khảo sát hoặc nhận định tạm thời của ông Chí, lại bịa thêm chứng cứ để biến thành “phát kiến” của mình rồi ghi vào tất cả mọi sách giáo khoa và mọi sách tra cứu, thành một vấn đề lịch sử, thì người viết sách đó phải chịu trách nhiệm, ông Trần Bá Chí hoàn toàn không có lỗi gì ở đó.
Ở đoạn nói đến Trần Bá Chí, chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử đã thừa nhận một sự thật là: “Khai thác nguồn tư liệu này (của Trần Bá Chí), một số sách sử làm rõ hơn nguồn gốc, quê hương Mai Thúc Loan... coi chuyện đi phu gánh vải cống là nguyên do trực tiếp khởi đầu cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên, chính đây là điểm mấu chốt dẫn đến sự phản bác của Lê Mạnh Chiến (LMC) mà PHL sẽ vận dụng trí lực của mình để chối cãi, cho nên không thể nói qua loa như thế. Không thể nói “một số sách sử... coi chuyện đi phu gánh vải cống là nguyên do trực tiếp khởi đầu cuộc khởi nghĩa”, vì điều này không còn là ý kiến của Trần Bá Chí hay của tác giả nào đó nữa, mà đã trở thành điều khẳng định chính thức của giới sử học, và Hội Khoa học Lịch sử phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Nếu là người đứng đắn thì ở đoạn này, dẫu không nêu nhiều dẫn chứng như LMC đã làm, ít nhất PHL cũng phải nêu vài quyển sách “cơ bản” đã có những ghi chép sai như thế, ví dụ:
1) Sách Lịch sử Việt Nam tập 1 (Ủy ban KHXH Việt Nam, NXB Khoa học Xã hôi, Hà Nội, 1971) viết: “Năm 722, Mai Thúc Loan hiệu triệu những người dân phu phải đi gánh vải quả nộp cống cho chính quyền nhà Đường nổi dậy khởi nghĩa” (trang 129). Một số cán bộ kỳ cựu ở Ủy ban KHXH Việt Nam đã cho biết rằng, ông Phan Huy Lê là người chấp bút chính của cuốn sách này, và con đường tiến thân của ông cũng rộng mở từ đó
2) Giáo trình Lịch sử Việt Nam tập 1 (Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh, NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội, 1983, 1985, 1991 do Phan Huy Lê chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn - ghi ở trang đầu tiên) viết: “Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu đã cùng ông phải đi gánh vải quả nộp cống cho chính quyền nhà Đường nổi dậy khởi nghĩa”. (trang 312)
3) Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1 (Đinh Xuân Lâm chủ biên, NXB Giáo dục, Hà Nôi, 2006) ở trang 94 cũng viết rằng, vì Mai Thúc Loan phải gánh quả vải tươi nộp cống cho Dương Quý Phi nen ông đã cùng đám nông phu nổi dậy chống ách thấong trị của nhà Đường
4) Quyển "Việt Nam - Những sự kiện lịch sử từ khởi thuỷ đến 1858" của Viên Sử học (Nxb Giáo dục, HN 2001; các tác giả: Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến) viết về cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan "Hàng năm, chúng bắt nhân dân Phong Châu phải cống loại tơ "bát tàm" (tơ của loại tằm một nám tám lứa), tàn nhẫn hơn nữa là bắt hàng ngàn nhân dân Hoan Châu phải đi cống nạp vải quả. Quả vải tươi phải gánh bộ sang kinh đô nhà Đường. Nhân dân cả nứớc căm giận, đặc biệt là nhân dân Hoan Châu, Phong Châu. Mầm khởi nghĩa của nhân dân ta bắt đầu từ những vùng này" (trang 39, cột bên phải)
5) Tất cả các sách giáo khoa lịch sử các cấp, khi viết về Khởi nghĩa Mai Thúc Loan đều viết khá dài về việc Mai Thúc Loan từng làm phu gánh quả vải đi cống, từ đó mà nổ ra cuộc khởi nghĩa do Ông lãnh đạo.
Ông PHL đã lược thuật ý kiến của LMC một cách không trung thực. Cả một bài của LMC dài mười mấy ngàn chữ, với rất nhiều cứ liệu rõ ràng và lý lẽ chặt chẽ để vạch rõ những luận cứ sai trái của các tác giả “nạn cống vải”, đã đươc PHL "đúc kết” thành một câu nhằm biến những luận cứ mạnh mẽ và chính xác của LMC thành vài ý lờ mờ, nhạt nhẽo như sau: 
“Năm 2003 trên báo Thế giới mới đăng tải một số bài của Lê Mạnh Chiến chất vấn và phê phán các nhà sử học, cho việc cống vải trong thời Bắc thuộc là không có cơ sở khoa học vì vải vùng nam Trung Quốc nổi tiếng, thời thuộc Đường việc vận chuyển quả vải tươi từ nước ta về kinh đô Trường An không thể thực hiện được, coi Mai Thúc Loan cùng đoàn phu chuyên chở vải cống bất bình nổi dậy là không đúng về nguyên nhân khởi nghĩa”
Cách lược thuật sơ sài qua loa như vậy là sự bóp méo, xuyên tạc để dọn dường cho lối bào chữa quanh co tiếp theo. Tác giả Lê Mạnh Chiến đã lần lượt chứng minh để bác bỏ từng lý lẽ, từng nguyên do, từng dẫn chứng mà các nhà sử học đưa ra, chứ không nói lờ mờ kiểu như là, coi việc cống vải trong thời Bắc thuộc là không có cơ sở khoa học...; thời thuộc Đường, việc vận chuyển quả vải tươi từ nước ta về kinh đô Trường An không thể thực hiện được... Chính là bắt đầu từ đây, PHL cứ lái dần độc giả đi chệch khỏi luận cứ của LMC rồi dùng thủ đoạn “mập mờ đánh lận con đen”, không dám trực tiếp bác bỏ kết luận của LMC mà cố làm cho độc giả hiểu ngầm rằng LMC đã phạm nhiều sai lầm khi “chất vấn” giới sử học.
Chúng ta đã biết rõ nhân cách và kiến thức Khoa học Lịch sử của Đinh Văn Hiến và Đinh Lê Yên qua việc “phản bác” tác giả Lê Mạnh Chiến. Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử mới có con mắt tinh đời, biết đây là hai vị tri kỷ, liền biểu dương những đóng góp của hai ông này cho Khoa học Lịch sử. Đối với hai ông họ Đinh, Hội Khoa học Lịch sử tỏ ra rất “thoáng”, rất cởi mở, rất “khách quan” và cố gắng tạo mọi điều kiện để xác minh, thừa nhận những thành quả nghiên cứu của họ. Tiếc rằng, ông Trần Bá Chí đã làm được rất nhiều việc nhưng không thấy Hội ghi nhận hay biểu dương.
Ngoài ra, chủ tich Hội Khoa học Lịch sử lại rất kỵ tác giả Lê Mạnh Chiến, đến nỗi phải “lặn một hơi mất tăm” suốt 6 năm không hồi âm, chờ đến khi ông ta lĩnh hội được kinh nghiệm “phản bác” của bậc thầy Đinh Văn Hiến, mới lấy lại tinh thần, tập hợp được lực lượng ủng hộ để “tổng phản bác” bằng những phương thức phi quân tử tối hạ cấp.
"Nho và táo" - tranh của họa sĩ Graaf
Bóp méo luận cứ, đánh tráo khái niệm để đánh lừa độc giả
B. Bóp méo luận cứ của người phản bác mình để đánh lừa độc giả, tự bào chữa, đánh tráo khái niệm để gián tiếp thực hiện cái gọi là “vạch rõ sai lầm” của đối phương.
Chuyển sang phần 3 (Nguyên nhân khởi nghĩa và vấn đề cống quả vải), ông Phan Huy Lê viết: "Sau khi công bố những truyền thuyết về Mai Thúc Loan phải đi phu chuyển vải cống, đã vận động đoàn phu nổi dậy chống Đường, thì nhiều sách đã bổ sung thêm tình tiết này vào lịch sử. Từ đó có người nêu lên hai vấn đề:
- Phải chăng nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ thu hẹp lại trong sự bất bình của đoàn phu cống vải?
- Chuyện nộp vải cống có đáng tin hay không khi ở vùng nam Trung Quốc có nhiều loại vải ngon nổi tiếng và ở nước ta, cây vải tập trung ở miền đông bắc đồng bằng và trung du Bắc Bộ, trong đó vải Thiều là giống nhập từ nam Trung Quốc. Còn vùng Hoan Châu (Nghệ An) thì không thể có loại vải ngon?
Về nguyên nhân khởi nghĩa, có lẽ không một nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử lại có thể nghĩ đơn giản rằng cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ xuất phát từ sự bất bình của một đoàn phu gánh vải cống và như thế thì làm sao giải thích được sự tham gia, hưởng ứng rộng rãi của các tầng lớp xã hội thời bấy giờ. Một số nhà sử học đưa thêm truyền thuyết này, trong đó có tác giả nói rõ là theo truyền thuyết, cũng chỉ bổ sung thêm một tình thế và nguyên do trực tiếp mà Mai Thúc Loan đã khai thác để phát động cuộc khởi nghĩa. Tôi lấy ví dụ, trong cuốn Lịch sử Việt Nam tập I, phần Bắc thuộc do cố GS Trần Quốc Vượng viết, chương về thời Tùy-Đường (chương 8) đã dành mục "Đất nước ta dưới ách đô hộ của Tùy Đường" để trình bày về tổ chức bộ máy đô hộ cùng các chính sách bóc lột, vơ vét nặng nề của chính quyền Tùy, Đường rồi sau đó mới đến mục "Nửa sau thế kỷ VIII: khởi nghĩa Mai Thúc Loan - Mai Hắc Đế", trong đó coi chế độ đi phu cống quả vải như nguyên do trực tiếp bùng nổ cuộc khởi nghĩa. Vì vậy nếu tác giả nào đó qui nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ vào sự bất bình, phản kháng của đoàn phu cống vải thì dĩ nhiên là một sai lầm về lý luận cũng như thực tế lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan có cội nguồn sâu xa trong chế độ bóc lột, áp bức của nhà Đường, trong tình hình kinh tế xã hội và những mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân ta với chính quyền đô hộ".
Đoạn này là lời dẫn để dắt độc giả vào chuỗi ngụy biện ở phần sau. Ngay từ mấy câu đầu tiên, chúng tôi đã thấy ngay cái mẹo Đinh Văn Hiến rồi. Chủ tịch hội Khoa học Lịch sử làm như thể LMC đã từng chất vấn truyền thuyết vậy. Nếu là người trung thực thì ba câu đầu tiên, PHL phải viết như sau: “Sau khi giới sử học khẳng định (hay phát hiện) sai rằng Mai Thúc Loan phải đi phu chuyển vảỉ cống đã vận động đoàn phu nổi dậy chống Đường , thì hầu hết mọi sách của họ đã bổ sung thêm tình tiết này vào lịch sử, trong đó có những quyển sách do tôi (tức là PHL) viết riêng hoặc chủ biên. Từ đó tất cả các trường từ tiểu học, trung học đến đại học đều đồng loạt dạy và học theo cái sai mà chúng tôi đã phạm phải. Mãi đến đầu năm 2003, có một tác giả duy nhất là Lê Mạnh Chiến đã bác bỏ mọi lý lẽ, mọi nguyên do, mọi chứng cứ của các nhà sử học mà đứng đầu là tôi (tức Phan Huy Lê), chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử. Từ đó, ông (Lê Mạnh Chiến) yêu cầu các nhà sử học trả lời trước công luận và nếu không bác bỏ được luận cứ của ông ấy thì phải xóa bỏ chi tiết “Mai Thúc Loan làm phu gánh vải...” trong mọi sách lịch sử, trước hết là sách giáo khoa, và đính chính sai lầm này... Nhưng, vì nhiều lý do rất khó nói... cho nên chúng tôi không đủ can đảm để thực hiện kiến nghị nghiêm túc của tác giả Lê Mạnh Chiến mà một số trí thức đứng đắn đã viết bài nhiệt thành ủng hộ”.
Tác giả Lê Mạnh Chiến không hề nêu câu hỏi “Phải chăng nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ thu hẹp lại trong sự bất bình của đoàn phu cống vải?” bởi vì ông đã chứng minh rõ ràng là “không có chuyện Mai Thúc Loan từng làm phu gánh vải, bởi vì “nạn cống vải” chỉ là sản phẩm bịa đặt của giới sử học, thì ông ấy có điên đâu mà nói đến “cuộc khởi nghĩa nổ ra từ đám phu cống vải”. Sau khi đã vạch rõ rất nhiều cái sai của các nhà sử học trong việc dựng nên “nạn cống vải”, ông mới vạch thêm một sai lầm nữa của họ, đại ý như sau: “Nếu câu chuyện hoang đường về “nạn cống vải” là có thật thì viêc coi đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan chỉ có tác dụng hạ thấp tầm vóc lịch sử của vị anh hùng dân tộc họ Mai”.
Tác giả Lê Mạnh Chiến cũng không hề nêu câu hỏi “Chuyện nộp vải cống có đáng tin hay không khi mà ở vùng nam Trung Quốc có nhiều loại vải ngon nổi tiếng, và ở nước ta, cây vải tập trung ở miền đông bắc đồng bằng và trung du Bắc Bộ, trong đó vải Thiều là giống nhập từ nam Trung Quốc” như PHL đã xuyên tạc. Ông LMC không bao giờ nêu câu hỏi “Chuyện nộp vải cống có đáng tin hay không...?”, bởi ông đã khẳng định là “không thể có chuyện cống vải” vì ông đã bác bỏ cái khả năng xẩy ra “nạn cống vải” ồ ạt (như giới sử học đã diễn tả), ngay cả khi Trung Quốc không hề có quả vải, còn ở Việt Nam thì quả vải rất nhiều và rất ngon. Đây là “diệu kế“ bẻ queo luận cứ của đối phương để cho mình dễ phản bác Trước đây, chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử đã tham gia vào vụ bịa đặt cứ liệu lịch sử rồi gán cho Đường-thư, nay ông lại giả mạo ý kiến của LMC nhằm đánh lừa độc giả và dễ bề “phản bác”.
Đọc đến câu hỏi của PHL “Còn vùng Hoan Châu (Nghệ An) thì không thể có loại vải ngon? “thì dù người khờ khạo đến mấy cũng đoán được cái “tối hạ sách” mà ông ta sắp đưa ra. Hẳn là ông sẽ chứng minh rằng Hoan Châu cũng rất có thể có quả vải ngon, rồi thế là coi như đã vạch được sai lầm trong mọi lý lẽ của LMC. Và như vậy là PHL đã bẻ gãy lý lẽ của LMC chứ gì? Than ôi, đó chỉ là cách tự ru ngủ, cách tự lừa dối mình của kẻ cùng đường.
Tiếp đó, ông Phan Huy Lê viết: “Về nguyên nhân khởi nghĩa, có lẽ không một nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử lại có thể nghĩ đơn giản rằng cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ xuất phát từ sự bất bình của một đoàn phu gánh vải cống và như thế thì làm sao giải thích được sự tham gia, hưởng ứng rộng rãi của các tầng lớp xã hội thời bấy giờ....”.
Tiếc thay, ông PHL lại không thuộc nhóm nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử ấy, nên đã để cho cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra do sự bất bình của một đoàn phu gánh vải ảo, như chúng ta đã thấy trong mọi quyển sách lịch sử mà ông ta có tham gia... Tiếp sau cái câu “Về nguyên nhân khởi nghĩa... PHL viết một đoạn lủng củng và sai ngữ pháp gồm hơn 240 chữ (bằng hơn 2/3 trang tiểu thuyết thông thường), trong đó chúng ta chỉ nhặt được một ý khá rõ là “cuốn Lịch sử Việt Nam tập I, phần Bắc thuộc do cố GS Trần Quốc Vượng viết..., trong đó coi chế độ đi phu cống quả vải như nguyên do trực tiếp bùng nổ cuộc khởi nghĩa”. Thật kỳ quặc khi câu tiếp theo lại là: “Vì vậy nếu tác giả nào đó qui nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ vào sự bất bình, phản kháng của đoàn phu cống vải thì dĩ nhiên là một sai lầm về lý luận cũng như thực tế lịch sử”. Hẳn là khi viết những dòng này, chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử rất bối rối, lúng túng như gà mắc tóc nên mới hạ hai chữ “vì vậy” một cách vô lý, không đúng chỗ.
Nếu còn giữ được bình tĩnh và tính trung thực, biết hối lỗi thì ở đoạn này GS Phan Huy Lê phải bỏ bớt những chữ, những ý thừa và đầy mâu thuẫn, rồi sửa lại như sau: "Về nguyên nhân khởi nghĩa, có lẽ không một nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử lại có thể nói liều rằng cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan xuất phát từ sự bất bình của một đoàn phu tưởng tượng gánh quả vải ảo đi cống, và như thế thì làm sao giải thích được sự tham gia, hưởng ứng rộng rãi của các tầng lớp xã hội thời bấy giờ. Tuy nhiên, tôi, Phan Huy Lê và một số nhà sử học khác lại không thuộc nhóm các nhà sử học hay người có hiểu biết về lịch sử nên đã coi truyền thuyết này là sử liệu chính xác rồi ghi hẳn vào sách giáo khoa và mọi sách lịch sử khác. Tôi lấy ví dụ, trong cuốn Lịch sử Việt Nam tập I (xuất bản năm 1983, 1985, 1991) do tôi (PHL) chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn, phần Bắc thuộc do cố GS Trần Quốc Vượng viết, chúng tôi đã coi chế độ đi phu cống quả vải là nguyên do trực tiếp làm bùng nổ cuộc khởi nghĩa. May mắn thay, tác giả Lê Mạnh Chiến đã vạch rõ rằng, nạn cống vải chỉ là do chúng tôi tưởng tượng ra và bịa đặt thêm các “luận cứ” mà thôi nên không thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cuộc khởi nghĩa. Nay chúng tôi đã giác ngộ ra sự thực đó và xin lỗi toàn thể đồng bào về tội xuyên tạc lịch sử. Vì vậy nếu tác giả nào đó qui nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan vào sự bất bình, phản kháng của đoàn phu cống vải ảo thì dĩ nhiên là phạm một sai lầm về lý luận cũng như thực tế lịch sử. Cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan có cội nguồn sâu xa trong chế độ bóc lột, áp bức của nhà Đường, trong tình hình kinh tế xã hội và những mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân ta với chính quyền đô hộ".
Một điều rất đáng chê trách là, ông PHL chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn giáo trình Lịch sử Việt Nam tập1 thì chính ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi sai sót trong quyển sách ấy, vì nó là phải là một giáo trình nhất quán, không phải là một sưu tập gồm các bài của các tác giả độc lập. Nhưng ông ta đã đổ lỗi cho Trần Quốc Vượng, một đồng nghiệp đã quá cố, rồi coi mình là vô can và tự cho phép mình đóng vai Bao Công để phán định lẽ phải.
Sau đoạn lời dẫn ở trên, PHL sử dụng cái vốn “thông kim bác cổ” của mình, lôi ra một đống tư liệu nhằm chứng minh rằng ở Việt Nam cũng có cây vả. Ông ta viết: "Còn việc trồng vải thời bấy giờ đã có chưa thì không nên lấy bản đồ thực vật hiện đại để áp đặt vào thời xa xưa, đã cách ngày nay hơn 12 thế kỷ. Theo kết quả khai quật khảo cổ học thì trong một số di tích văn hoá Đông Sơn đã tìm thấy hạt vải cùng hạt trám, hạt na, hạt cau... Như vậy từ thời cổ đại, vào những thế kỷ trước CN người Việt đã phát triển nghề làm vườn, trồng nhiều loại cây ăn quả, trong đó có cây vải. Đại Việt sử lược có lẽ là bộ sử đầu tiên của nước ta chép tên quả vải (lệ chi) vào năm Kiến Gia thứ 8 đời vua Lý Huệ Tông tức năm 1218: "Vua ngự đến Cựu Kinh (tức Thăng Long) ăn quả vải". Vào cuối thời Trần, trong các yêu sách của nhà Minh có đòi hỏi cống nộp các giống cây quý trong đó có cây vải. Năm 1386 "nhà Minh sai Lâm Bột sang đòi cống các loại cây cau, vải, mít, nhãn vì nội nhân Nguyễn Tông Đạo nói, hoa quả phương nam có nhiều thứ ngon. Vua sai bọn viên ngoại lang Phạm Đình đem sang, nhưng những cây ấy không chịu được rét, đi nửa đường đều chết khô cả". Chính sử cũng ghi chép vào thế kỷ XV đã có địa danh mang tên Lệ Chi viên (Vườn Vải, nay tại xã Đại Lại, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), nơi năm 1442 vua Lê Thái Tông từ trần đột ngột và bọn quyền thần đã lợi dụng dựng lên vụ án thảm khốc tru di cả nhà Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá thế giới. Trong thư tịch cổ, từ Dư địa chí của Nguyễn Trãi thế kỷ XV đã nói đến quả vải ở xã Quang Liệt, đạo Sơn Nam đến Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã khẳng định "nước Nam nhiều vải nhất", nổi tiếng là vùng An Nhân, huyện Đường Hào, Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn thế kỷ XIX cũng nói đến quả vải như một đặc sản của vùng huyện Đường Hào, Đông Triều..Như vậy cây vải đã có mặt ở nước ta từ lâu đời, ít nhất là từ thời kỳ văn hoá Đông Sơn và đi vào địa danh lịch sử, thư tịch cổ từ thế kỷ XIII, thế kỷ XV. Tất nhiên, bên cạnh cây vải bản địa, sau này dân ta còn du nhập thêm giống vải Thiều ở miền nam Trung Quốc".
Trong lịch sử, bản đồ thực vật, do thay đổi khí hậu kết hợp với điều kiện thổ nhưỡng, môi trường, sinh thái và sự thiên di của con người cùng sự di chuyển của loài chim, một số động vật ăn hoa quả, sự phân bố các giống cây thường có sự thay đổi về địa bàn theo hướng lan toả hay thu hẹp và cả sự chuyển dịch trung tâm. Biết bao dẫn chứng có thể nêu lên như cây ngô, cây khoai tây, cây mít... trong quá khứ và ngày nay thì sự mở rộng hay thay đổi địa bàn phân bố thực vật càng có nhiều chuyển biến do những tiến bộ về khoa học và công nghệ cho phép con người dễ dàng chọn và nhập giống cây trồng.
Ngày nay, tại Nghệ An, Thanh Hoá nhiều vùng vẫn còn loại vải chua hay vải rừng, nhiều nhà vẫn trồng trong vườn như một loại cây ăn quả, chứng tỏ vùng này từ xa xưa đã có cây vải, chưa kể giống vải mới đưa từ bắc vào gần đây. Cho đến nay, dân vùng Nam Đàn xứ Nghệ vẫn còn lưu truyền ba đặc sản quê hương qua câu "Nhãn lồng, vải tiến, cá rô Bàu Nón" nhưng không rõ vào thời gian nào. Như vậy trên đất nước ta thì từ thời cổ đại, người Việt đã biết trồng vải và nghề trồng vải phát triển liên tục cho đến ngày nay.
Cả một mớ dẫn liệu dài dòng như thế chỉ nhằm giúp ông đi đến kết luận: Như vậy, trên đất nước ta thì từ thời cổ đại, người Việt đã biết trồng vải và nghề trồng vải phát triển liên tục đến bây giờ.
Đây chỉ là cái mẹo tung ra “trận đồ bát quái”, làm hoa mắt người đọc, vừa để tỏ rõ rằng mình có kiến thức uyên bác, vừa làm cho những độc giả chưa đọc bài phản bác “nạn cống vải” ngỡ rằng tác giả của nó (LMC) kém đến mức không biết gì về vụ án Lệ chi viên - vụ án nhằm vu vạ và giết Nguyễn Trãi, vậy mà cũng dám viết bài bác bỏ công trình khám phá của giới sử học từng được cả nước thừa nhận từ nửa thế kỷ rồi!
Tiếp theo, để chứng mình rằng, luận điểm về “nạn cống vải” của mình vẫn đúng, ông Phan Huy Lê đã trích dẫn sách Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm thời Tây Tấn, nói về việc Hán Vũ Đế bắt người nước Nam Việt đem cây vải về trồng ở Trường An:
Trong thư tịch cổ của Trung Quốc cũng ghi nhận, trong thời Bắc thuộc, từ thời Tây Hán, vải và nhãn là những sản phẩm nổi tiếng Giao Chỉ và Cửu Chân. Sách Nam phương thảo mộc trạng do Kế Hàm soạn năm Vĩnh Hưng thứ 1 (305) đời Tây Tấn (265-317), cho biết: "Hán Vũ đế năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN) phá nước Nam Việt, xây dựng cung Phù Lệ, tên Phù lệ là lấy tên lệ chi (cây vải) đặt cho, đem chuyển 100 cây vải từ Giao Chỉ về trồng ở sân, nhưng không một cây nào sống. Sau nhiều năm liền đem cây vải về trồng, cuối cùng chỉ có một cây hơi xanh tốt nhưng không có hoa quả. Vua lấy làm tiếc vật quý và trong lúc buồn bực, sai giết người trông nom đến mấy chục, rồi không trồng nữa và bắt cống nộp hàng năm (tuế cống)".
Sau đoạn văn trích dẫn này chúng ta nhận thấy rằng PHL đã tiếp thu ý kiến của Lê Mạnh Chiến về cách hiểu địa danh Giao Chỉ (được nói rõ trong bài của LMC trong bài đăng trên Thế Giới Mới) cho nên, ông ta đã viết được một câu không sai rằng, Vấn đề gây tranh cãi là Giao Chỉ ở đây là quận Giao Chỉ miền bắc nước ta hay bộ Giao Chỉ bao gồm cả miền Lĩnh Nam ở nam Trung Quốc. Trước đây, PHL và giới sử học đã viết trong Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 2 (mà Phan Huy Lê là phó Chủ tịch chuyên trách kiêm Tổng thư ký Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn) rằng GIAO CHỈ là tên do các triều đại phong kiến Trung Quốc dùng để chỉ người và nước Việt Nam thời xư. Chính vì thế nên khi thấy sách Trung Quốc viết rằng quả vải ngon nhất chỉ ở Giao Chỉ mới có thì các nhà sử học lại hiểu là chỉ ở Việt Nam mới có, chứ họ không biết rằng Việt Nam được nhà Hán gọi là quận Giao Chỉ, có diện tích bằng khoảng ¼ của bộ Giao Chỉ, nghĩa là đại bộ phận Giao Chỉ là đất Trung Quốc.
Tiếp đó, PHL khẳng định rằng, cái tên Giao Chỉ trong sách của Kê Hàm chính là quận Giao Chỉ, tức là Việt Nam ta chứ không phải là bộ Giao chỉ mà phần lớn đất đai là thuộc Trung Quốc. Ông ta viết:
Triệu Đà sau khi đánh chiếm nước Âu Lạc, đã lập 2 quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (bắc Trung Bộ). Năm 111 TCN nhà Hán đánh chiếm nước Nam Việt, lập ra các quận Nam Hải, Thương Ngô, Quế Lâm, Hợp Phố, Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam... Quận Nhật Nam là miền bắc Lâm Ấp (khoảng trung Trung Bộ từ Hoành Sơn đến Cù Mông) do quân Hán mới chiếm thêm năm 111 TCN. Năm Nguyên Phong thứ 5 (106 TCN) nhà Hán lập Giao Chỉ bộ quản lý cả 9 quận do chức Thứ sử đứng đầu. Như vậy sự việc cống vải từ Giao Chỉ do Nam phương thảo mộc trạng chép vào năm Nguyên Đỉnh thứ 6 tức năm 111 TCN là quận Giao Chỉ thuộc miền bắc nước ta, chứ không phải là bộ Giao Chỉ bao gồm cả miền nam Trung Quốc lập sau đó 5 năm, vào năm Nguyên Phong thứ 5 tức năm 106 TCN.
Lý lẽ của PHL là, Hán Vũ Đế chiếm nước Nam Việt năm 111 trước CN rồi đem 100 cây vải về trồng ở sân, và 5 năm sau đó, tức là năm106 trước CN thì thành lập bộ Giao Chỉ mà Kê Hàm (viết sách năm 305) thì nói về việc cống quả vải thời Hán Vũ Đế, theo PHL thì ắt phải là khi chưa có bộ Giao Chỉ, do đó, địa danh Giao Chỉ chính là quận Giao Chỉ, tức là nước Việt Nam ngày nay.
Hán Vũ Đế làm vua từ năm 140 đến năm 86 trước CN, nghĩa là ông ta chết sau khi thiết lập bộ Giao Chỉ được 20 năm, và theo sách của Kê Hàm được ông PHL trích dẫn thì: “Sau nhiều năm liền đem cây vải về trồng, cuối cùng chỉ có một cây hơi xanh tốt nhưng không có hoa quả. Vua lấy làm tiếc vật quý và trong lúc buồn bực, sai giết người trông nom đến mấy chục, rồi không trồng nữa và bắt cống nộp hàng năm (tuế cống)".
Vậy thì ông PHL có biết rằng, mấy chữ sau nhiều năm liền của Kê Hàm kia có nghĩa là 3 năm, 4 năm hay 10 năm hoặc 15 năm mà nghĩ rằng chuyện cống vải phải xẩy ra trước khi có bộ Giao Chỉ? Hơn nữa, nếu Kê Hàm là sử quan bên cạnh Hán Vũ Đế và mấy dòng kia là nằm trong bản “thực lục” (tức là ghi chép ngay tại khi sự việc diễn ra) của ông ấy chép sớm hơn năm 107 trước CN thì sự suy luận của PHL mới có một chút giá trị. Nhưng Kê hàm lại sống sau Hán Vũ Đế đến 400 năm, ai bắt ông ấy không được dùng địa danh Giao Chỉ để nói về bộ Giao chỉ, khi mà địa danh ấy đã xuất hiện từ 400 năm trước?
Để củng cố lý lẽ của mình, ông PHL viết tiếp: "...Hơn nữa, Cổ kim sử văn loại tùng còn chép thêm: "Ngụy Văn đế (220-226) hạ chiếu cho quần thần rằng, quả phương nam, loại quý lạ là long nhãn, lệ chi, lệnh hàng năm nộp cống là xuất từ Giao Chỉ, Cửu Chân". Sự kiện này cũng được chép trong Nam phương thảo mộc trạng".
Ông PHL không cho biết Cổ kim sử văn loại tùng là sách gì, của ai, viết vào thời nào... Chúng tôi đã thử tìm trên mạng Internet để xem đó là sách gì, có tác giả nào viết về sách ấy không, nhưng cái tên ấy hoàn toàn không xuất hiện lần nào cả. Nếu là tên sách hay là nhân danh, địa danh nổi tiếng thì chỉ cần gõ lên máy tính một phát là sẽ biết có bao nhiêu thông tin đụng chạm đến cái tên đó. Ví dụ: vừa gõ ba chữ “Tân Đường-thư” (chữ Hán), máy tính đã báo cho biết có 11.300.000 thông tin liên quan đến tên sách ấy, hoặc vừa gõ “Tư Mã Thiên” (chữ Hán) thì máy tính cho biết có 1.150.000 thông tin liên quan đến nhà sử học này. Vậy mà khi gõ “Cổ kim sử văn loại tùng” (bằng chữ Hán) thì không thấy có thông tin nào liên quan đến cả nhóm 5 chữ ấy. Điều đó chứng tỏ rằng đây không phải là một quyển sách đáng chú ý, thậm chí, chưa chắc đã đúng tên một quyển sách, may ra chỉ là một phần, một đoạn của một bộ sách nào đó. Cũng có thể là ông PHL đã ghi không đúng, vì cái khoản chữ Hán thì ông này đã đọc sai, viết sai và công bố sai nhiều lần rồi, có nhiều tiền sự rồi, ngay cả trong bài đang được phê phán ở đây, ông cũng đọc sai (hay là chép của người khác rồi bị sai) vài chữ Hán, chúng tôi sẽ nói điều đó ở phần cuối.
Để khẳng định rằng, “nạn cống vải” là có thật và là tai họa giáng lên đầu người dân Hoan Châu (Nghệ - Tĩnh), ông PHL viết tiếp: "Như vậy cây vải không chỉ có ở Giao Chỉ mà cả ở Cửu Chân và lệ cống vải bắt đầu từ Tây Hán, tiếp tục đến Nguỵ. Tư liệu này cho biết thêm Cửu Chân tức vùng Thanh Nghệ Tĩnh hiện nay, thời đó đã có cây vải và lệ cống vải bao gồm cả vùng này. Cây vải ở vùng Thanh Hoá, Nghệ An có nguồn gốc lâu đời và sau này thoái hoá dần thành loại vải chua, vải rừng hiện nay".
Chỉ cần dựa vào Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm và vài dòng của Cổ kim sử văn loại tùng (một nguồn rất vu vơ!) ông chủ tịch Hội khoa học Lịch sử tưởng như đã chứng minh được rằng, “nạn cống vải” mà ông ta đã có công sáng tạo nên (cùng với các nhà sử học khác) là có thật, mà nhân dân Thanh Hóa, Nghệ An là nạn nhân trực tiếp.
Có một điều hết sức quan trọng mà độc giả rất dễ quên còn ông PHL có lẽ không quên nhưng rất mong độc giả quên, đó là, không phải hễ cứ chứng minh xong sự việc cống vải cho triều đình Trung Quốc là khẳng định được cái “nạn cống vải” mà các nhà sử học đã “khám phá” ra. Muốn chứng minh rằng “nạn cống vải” là có thật như các nhà sử học đã “khám phá” thì cần chứng minh được rằng, số lượng quả vải nộp cống phải do hàng ngàn người gánh bộ một mạch đến kinh đô Trung Quốc.
Nếu quả vải được vận chuyển bằng ngựa của các dịch trạm nối tiếp nhau thì chỉ còn là sự cống nạp khá bình thường, mỗi huyện hay vài huyện (của nước ta) chỉ cần vài con ngựa và vài người cưỡi ngựa giỏi, và cả nước chỉ cần vài chục cặp người – ngựa như thế kế tiếp nhau (mỗi cặp người - ngựa cả đi lẫn về trong một ngày) đưa quả vải đến ải Nam Quan là xong việc, và như thế thì hoàn toàn không phải là cái “nạn cống vải” như các nhà sử học đã mô tả.
Nếu phải gánh quả vải đi bộ qua các trạm chuyển tiếp như thế (đương nhiên, điều này không thể xẩy ra) để vận chuyển số lượng quả vải tương đương với số lượng mà các chú dịch mã phải chở cho Dương Quý Phi thì số người lao dịch trong cả nước cũng chỉ lên đến 100-200 người, và mỗi người phát mệt nhọc vất vả trong 1 ngày đi và 1 ngày về, mà như thế thì chưa có gì ghê gớm quá sức chịu đựng của cả nước và hoàn toàn không phải là cái “nạn cống vải” mà các nhà sử học đã tưởng tượng ra. 
Ông Phan Huy Lê gượng ép chứng minh là có việc cống vải cho triều đình Trung Quốc từ năm 111 trước CN (Hán Vũ Đế) đến triều Ngụy (của con cháu Tào Tháo, từ năm 220-263), và coi như thế là đủ để khẳng định “nạn cống vải”, không cần biết là có phải do hàng ngàn người còng lưng gánh gồng ngày này qua tháng khác hay không... Nhưng tác giả Lê Mạnh Chiến thì đã chứng minh được rằng, việc cống quả vải dưới thời Hán được thực hiện bằng ngựa kế tiếp nhau qua các trạm, nghĩa là giống như ở thời nhà Đường.
Trong bài “Phải chăng, nạn cống vải là nguyên nhân trực tiếp đãn đến cuộc khởi nghĩa của Mai thúc Loan” đăng trên tạp chí Thê Giới Mới (3-2003), LMC đã trích dẫn sách Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm 嵇含 (xin nhấn mạnh là Kê Hàm chứ không phải là Kế Hàm như PHL đã đọc sai) để nói về việc người Nam Việt (xứ sở do cháu chắt Triệu Đà làm chủ, trong đó gồm cả nước Âu Lạc, tức là nước ta thời đó, địa giới đến Đèo Ngang, bị Triệu Đà chiếm từ năm 208 trước CN) phải cống cây vải và quả vải từ thời Hán Vũ Đế (140-86 trước CN), mà cây vải và quả vải được lấy từ Lĩnh Nam (miền nam Trung Quốc) còn cách vận chuyển thì chưa được nói rõ. Trong bài mới soạn lại hồi đầu năm 2008 (đã nói đến ở cuối phần I của bài này), LMC không dùng đến đoạn trích từ Nam phương thảo mộc trạng, và đã viện dẫn chuyện Đường Khương dâng thư lên Hán Hòa Đế (làm vua từ năm 89 đến năm 105) xin bỏ lệ cống quả vải đối với dân 7 quận ở bộ Giao Chỉ - mà Lê Tắc có ghi lại trong An Nam chí lược. LMC còn tham khảo sách Hậu Hán thư và Tư trị thông giám để kiểm tra và bổ khuyết và đính chính cho phần ghi trong An Nam chí lược. Theo các sách này thì lệ cống vải đã có từ thời Tây Hán, quả vải được lấy từ 7 quận thuộc bộ Giao Chỉ. (gồm 6 quận ở trên đất Trung Quốc là Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô, Đạm Nhĩ và Châu Nhai, hẳn là có thêm quận Giao Chỉ là quận thứ bảy) và được vận chuyển bằng ngựa kế tiếp nhau qua các dịch trạm.
Như vậy, ngay trên đất Trung Quốc, việc cống vải được thực hiện bằng sức ngựa, kế tiếp nhau qua các trạm, Quả vải ở quận Giao Chỉ hẳn là chỉ góp một phần nhỏ mà thôi, bởi vì quận Giao Chỉ ở xa nhất (mà phẩm chất quả vải cũng kém nhất), dẫu cũng được chở bằng ngựa qua các trạm kế tiếp nhau, khi đến kinh đô hẳn cũng chẳng còn mấy giá trị, cho nên, các đời sau không dùng quả vải ở đây nữa, như chúng ta đã biết và chính ông PHL cũng phải thừa nhận.
"Lộn tùng phèo" - siêu mẫu châu Âu
Biến toàn bộ kết quả nghiên cứu của người khác thành kết quả tra cứu của mình, giẫm lên pháp luật
C. Tài liệu nào cũng được ông PHL coi là sử liệu, miễn là hợp với ý muốn của ông ta; chưa có chứng cứ xác thực đã vội vã kết luận một cách võ đoán. 
Qua sự phân tích vừa rồi, độc giả đã thấy rõ rằng, chỉ dựa vào vài chi tiết trong sách Nam phương thảo mộc trạng của Kê Hàm và Cổ kim sử văn loại tùng (không rõ là của ai, thời nào) và vài con số năm tháng rất đại khái trong đó mà ông PHL đã rút ra kết luận dứt khoát: "...Như vậy sự việc cống vải từ Giao Chỉ do Nam phương thảo mộc trạng chép vào năm Nguyên Đỉnh thứ 6 tức năm 111 TCN là quận Giao Chỉ thuộc miền bắc nước ta, chứ không phải là bộ Giao Chỉ bao gồm cả miền nam Trung Quốc lập sau đó 5 năm, vào năm Nguyên Phong thứ 5 tức năm 106 TCN...
...Như vậy cây vải không chỉ có ở Giao Chỉ mà cả ở Cửu Chân và lệ cống vải bắt đầu từ Tây Hán (từ Hán Vũ Đế, năm 111 trước CN) tiếp tục đến Nguỵ (giữa thế kỷ 3). Tư liệu này cho biết thêm Cửu Chân tức vùng Thanh Nghệ Tĩnh hiện nay, thời đó đã có cây vải và lệ cống vải bao gồm cả vùng này".
Trong khi đó, Hậu Hán thư, bộ chính sử của Trung Quốc về thời Đông Hán, qua việc chép chuyện Đường Khương dâng thư lên Hán Hòa Đế (năm 103 - theo sách Tư trị thông giám; năm 89 - theo An Nam chí lược - có lẽ nhầm) yêu cầu xóa bỏ lệ bắt dân 7 quận của bộ Giao Chỉ (chứ không phải của quận Giao Chỉ như PHL đã phán) phải dùng ngựa để vận chuyển quả vải đi cống nạp, vậy thì làm gì có “nạn cống vải” do hàng ngàn người từ Nghệ Tĩnh gồng gánh lũ lượt trên đường suốt nhiều tháng để chở quả vải đến Trường An?
Ông PHL đã nhặt nhạnh một số điều ghi chép trong Nam phương thảo mộc trạng để bảo đảm cho luận cứ của mình rồi coi chúng là sử liệu.
Nam phương thảo mộc trạng là một tác phẩm chuyên khảo về thực vật cổ đại, gồm 3 quyển, ghi chép về 80 loài thực vật của vùng Lĩnh Nam (Quảng Đông - Quảng Tây) Trung Quốc. Đây là một bộ sách rất quý, được coi là “bộ thực vật chí sớm nhất thế giới”, không những nổi tiếng ở Trung Quốc mà còn được cả thế giới chú ý. Đương nhiên, giá trị của nó là ở những khảo cứu về thực vật phương nam. Những ghi chép liên quan đến lịch sử trong đó dĩ nhiên là có giá trị tham khảo nhưng không thể coi là cứ liệu lịch sử. Hơn nữa, bản thân lai lịch của sách này vẫn còn đang phải tranh luận.Trần Chấn Tôn (?1183-?1262) thời Nam Tống (1127-1279) là người đầu tiên xác định tác giả của nó là Kê Hàm (263-306) và được mọi người tin theo. Đến thời vua Càn Long nhà Thanh, bắt đầu có nghi vấn, cho rằng sách này không phải của Kê Hàm mà là của người đời sau. Tháng 12 năm 1983, Hội nghị quốc tế thảo luận học thuật vềNam phương thảo mộc trạng lần thứ nhất đã diễn ra ở Quảng Châu có các học giả Trung Quốc, Mỹ, Nhật, Pháp... tham gia cũng định giải quyết vấn đề này nhưng cuộc tranh luận từ đó đến nay vẫn chưa ngã ngũ.
Do đó, nếu là nhà sử học nghiêm túc và cẩn trọng thì không bao giờ vồ vập ngay những ghi chép “có màu sắc lịch sử” của người xưa, dù là trong các tác phẩm nổi tiếng. Vội vã coi chúng là sử liệu thì rất có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng. Nếu ta đọc hai câu thơ trong bài Trường hận ca đại thi hào Bạch Cư Dị:
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành,
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức.
Được Tản Đà đã dịch là:
Nhà Dương có gái mới choai,
Buồng xuân khóa kín chưa ai bạn cùng.
rồi căn cứ vào đó mà khẳng định rằng, trước khi vào hậu cung của Đường Minh Hoàng thì Dương Quý Phi vẫn là con gái đồng trinh thì sai hoàn toàn. Sự thực thì bà ta đã qua mấy năm làm vợ của Lý Mạo, con trai thứ 18 của Đường Minh Hoàng. Nhưng nhà thơ sáng tác theo cảm xúc, phải chú tâm vào việc tìm lời hay, ý đẹp, có sức truyền cảm, chứ không cần làm nhiệm vụ của nhà sử học.
Đối với sách Nam phương thảo mộc trạng cũng vậy. Ông PHL lấy “cứ liệu lịch sử” từ đó để biện luận, quả nhiên là sai hoàn toàn.
Điều mấu chốt để xác định có “nạn cống vải “ hay không lat ở chỗ: phải chứng minh được rằng, đã từng có nhiều lần bọn quan lại nhà Đường bắt hàng ngàn nông dân nước ta phải gánh quả vải tươi đi một mạch đến kinh đô Trung Quốc. Phan Huy Lê không thể chứng minh điều đó, mà chỉ tìm cách chứng minh là có việc cống vải để kết luận rằng “nạn cống vải” như giới sử học tưởng tượng ra là có thật.
Ông Phan Huy Lê viết tiếp: "Chế độ cống nộp là một phương thức bóc lột mà chính quyền đô hộ đã thực hiện từ thời thuộc Hán. Cống phẩm bao gồm những loại sản vật quý như ngà voi, sừng tê, châu ngọc, hương liệu... và cả một số sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới như cam, quít, nhãn, vải... Các nguồn tư liệu thư tịch đáng tin cậy của Trung Quốc khẳng định chế độ cống nộp các loại quả trên. Còn cách bảo quản và vận chuyển như thế nào thì tư liệu không ghi lại và dĩ nhiên là cần nghiên cứu thêm, cần sự hợp tác liên ngành của nhiều ngành khoa học liên quan, trong đó khai thác kinh nghiệm cổ truyền giữ vai trò quan trọng".
Ông Phan Huy Lê chỉ nói được rằng “Các nguồn tư liệu thư tịch đáng tin cậy của Trung Quốc khẳng định chế độ cống nộp các loại quả trên (cam, quít, nhãn, vải)”. Chúng tôi nghĩ rằng, khi đất nước bị quân xâm lược chiếm đóng thì bất cứ cái gì chúng cần hay chúng muốn lấy (có thể không cần lắm) thì chúng đều bắt dân ta phải nộp. Cái danh sách “cam, quít, nhãn, vải....” nên được hiểu là mọi thứ nông sản, thổ sản, hoặc mọi thứ to nhỏ lớn bé chúng đều vơ vét, còn cụ thể cái gì thì cũng không quan trọng lắm, đừng căn cứ vào đó để rút ra kết luận rằng chúng không lấy bưởi hoặc không lấy chuối. Quy mô, mức độ vơ vét mới là điều quan trọng. Nhưng điều đó thì PHL và các nhà sử học khác không có cứ liệu nào cả. Nói đến “nạn cống vải” thì phải chứng minh được quy mô (hàng ngàn người gồng gánh hai vài con ngựa thồ) và phương thức vận chuyển (chở bằng ngựa hay bằng người, đi liền một mạch hay thay thế nhau qua các trạm) nhưng PHL bảo là cách bảo quản và vận chuyển như thế nào thì tư liệu không ghi lại và dĩ nhiên là cần nghiên cứu thêm, cần sự hợp tác liên ngành của nhiều ngành khoa học liên quan, trong đó khai thác kinh nghiệm cổ truyền giữ vai trò quan trọng.
Hóa ra là ông PHL có quyền tưởng tượng ra những điều vô căn cứ rồi yêu cầu sự hợp tác liên ngành của nhiều ngành khoa học liên quan đóng dấu bảo đảm cho sự tưởng tượng của ông ta. Tuy đã lẫn tránh điểm mấu chốt xác định có hay không có “nạn cống vải” để đánh lạc hướng độc giả nhưng thấy không ổn, cho nên để biện bạch cho sự bế tắc trong việc chứng minh “nạn cống vải”, PHL rào đón: "...Trong lịch sử biết bao vấn đề do sử sách ghi chép và có di tích còn tồn tại đến nay mà việc giải thích về kỹ thuật chế tác và công việc kiến tạo vẫn là câu hỏi đang đặt ra cho khoa học với nhiều giả thuyết được nêu lên như Kim Tự tháp ở Ai Cập, Vạn Lý trường thành ở Trung Quốc... Ngay ở nước ta như thành Tây Đô (thành Nhà Hồ ở Vĩnh Lộc, Thanh Hoá) chỉ xây trong ba tháng năm 1397 với những khối đá trên dưới 10 tấn được chế tác, vận chuyển, xây dựng như thế nào; rồi tháp Chăm ở Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) và dọc theo miền trung và nam Trung Bộ, kỹ thuật sản xuất và ghép gạch đã thực hiện thế nào..., cũng là những câu hỏi chưa có kết luận tuy một số khám phá và giả thuyết đã được nêu lên".
Bằng cách đánh lạc hướng độc giả và luồn lách từng bước, đến đây, PHL đã xếp câu chuyện “nạn cống vải” vào hàng biết bao vấn đề do sử sách ghi chép và có di tích còn tồn tại đến nay. Thử hỏi, đã có sử sách nào ghi chép và có di tích nào còn tồn tại đến nay để minh chứng cho “nạn cống vải”? Mà xin thưa với ông PHL rằng, không phải hễ có ghi chép là cứ phải thừa nhận. Chắc ông cũng biết, Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, tháng 3 năm Hội Phong thứ 5, Bính tý (1096), đời vua Lý Nhân Tông, đã xẩy ra chuyện thái sư Lê Văn Thịnh hóa thành hổ để giết vua. Ông PHL có dám khẳng định rằng đây là sự kiện có thật hay không?
Kim tự tháp Ai Cập, Vạn lý trường thành hay thành Tây Đô là những công trình kiến trúc đặc biệt mà như ông nói, việc giải thích về kỹ thuật chế tác và công việc kiến tạo vẫn là câu hỏi đang đặt ra cho khoa học..Cái câu hỏi được đặt ra ấy là sử dụng nhân lực như thế nào để tập trung được những lực lớn có thể nâng được những khối vật liệu đồ sộ hoặc hoàn thành một khối lượng công viêc lớn trong khoảng thời gian ngắn, còn về nguyên tắc thì việc thực hiện được những công việc như thế không có gì trái với quy luật tự nhiên. Để nâng một vật càng nặng thì cần một lực càng lớn. Các công trình ấy rất đòi hỏi rất nhiều công sức, nhưng số công sức ấy vẫn là hữu hạn và có thể tính toán được.
Còn cái “nạn cống vải” mà ông PHL đang ra sức biện bạch thì hoàn toàn trái với quy luật tự nhiên và quy luật xã hội. Trái với quy luật tư nhiên ở chỗ, quả vải làm sao chịu đựng được mưa nắng suốt 7-8 tháng trời mà vẫn tươi? Trái với quy luật xã hội ở chỗ, trong khi người ta đã có sẵn rất nhiều quả vải ngon và ở nơi gần, lại có cách để vận chuyển chỉ cần 100 cặp người - ngựa bố trí rải rác tại mấy chục địa điểm hợp lý cũng đủ để vận chuyển một số quả vải đủ cho nhiều người ăn, và nếu còn thèm thì làm thêm vài đợt như thế nữa, vậy thì vì cớ gì người ta phải lấy quả vải không ngon, ở nơi xa gấp đôi, và phải cần đến hàng ngàn người đi bộ hàng trăm ngày để cho quả vải thối hết đọc đường? Dù là một hoàng đế mất trí và cả một triều đình mất trí cũng không làm như vậy. Chỉ có người mất trí mới nghĩ như thế, nhất là sau khi đã có người dạy bảo.
Những điều bí ẩn trong việc xây dựng các công trình như Kim tự tháp Ai Cập, Vạn lý trường thành, thành Tây đô, tháp chàm ở Thánh địa Mỹ sơn... vẫn là những câu hỏi rất khó tìm lời giải đáp. Đúng thế. Việc tìm lại những kỹ thuât đã thất truyền thì cũng chẳng khác gì phải phát minh lại kỹ thuật đó, mà phát minh lại thì chưa chắc đã dễ hơn phát minh lúc đầu, bởi vì mọi điều kiện vậtc chất, kỹ thuật, tập quán hiện tại đã khác xa thời xưa, cho nên, chắc chắn là khó khăn và tốn nhiều công sức.
Mà phát minh nào cũng vậy, khi đã có người hoàn thành rồi rồi thì cái gì cũng đơn giản, nhưng nếu chưa ai nghĩ ra thì có khi cả hàng chục triệu người bị lừa nhiều chục năm mà chẳng mấy ai biết. Chỉ xin lấy một ví dụ ngay trước mắt đây thội. Phát kiến về “nạn cống vải” đã ra đời từ giữa những năm 60 của thế kỷ trước và được cả miền bắc rồi cả nước thừa nhận, đã có hàng vạn người rao giảng về nó nhiều lần và nhiều chục triệu học sinh học về nó mà chẳng ai có ý kiến gì. Mãi đến năm 2003 mới có ông Lê Mạnh Chiến lên tiếng phản bác. Chắc chắn là ông LMC không thể chỉ suy nghĩ trong vài ngày hay vài tuần mà phản bác được, như chúng ta thấy hiện nay. Riêng việc trình bày lý lẽ cho chặt chẽ và có sức thuyết phục, phải viết hơn một vạn chữ, ông cũng không thể viết trong vài ngày. Nhưng khi chúng ta đã đọc bài của ông thì chỉ mất vài chục phút là hiểu hết và nếu phải truyền đạt kết quả nghiên cứu của ông cho người khác thì chỉ cần tóm lại trong vài câu và diễn đạt trong 1 phút cũng đủ. Hay là, như chính cái bài của ông PHL mà chúng tôi đang phân tích ở đây, ông ta cũng phải suy nghĩ mất 6 năm mới viết được, nhưng giá trị của nó chỉ là con số âm. Nói thế để ông PHL thấy rằng, tìm ra cái mà thiên hạ chưa biết (phát minh lại cái đã thất truyền cũng vậy) là điều không đơn giản. Bởi vậy, việc đem điều bí ẩn trong “nạn cống vải” để so sánh với điều bí ẩn trong quá trình thi công Kim tự tháp Ai Cập chỉ là trò ngụy biện mà thội, chẳng có giá trị gì.
D. Biến toàn bộ kết quả nghiên cứu của người khác thành kết quả tra cứu của mình, giẫm lên pháp luật
Cách đây 6 năm, tác giả Lê Mạnh Chiến đã bác bỏ hoàn toàn mọi luận cứ của giới sử học do ông Phan Huy Lê đứng đầu, không trừ một điểm nhỏ nào. Ông LMC đã chứng minh rằng, mặc dầu Dương Quý Phi rất thích ăn quả vải và Đường Minh Hoàng đã bắt thuộc hạ phải chở quả vải từ phương xa về cho bà ta ăn, nhưng quả vải là do ngựa của hệ thống dịch trạm nối tiếp nhau ngày đêm chở từ Lĩnh Nam (có thể cả từ Tứ Xuyên, Phúc Kiến) về đến Trường An cho nên không có chuyện Mai Thúc Loan cùng hàng ngàn đồng bào của ông phải còng lưng gánh quả vải đi nộp cống trên đường dài vạn dặm. Rồi ông LMC còn vạch ra những sai lầm khác nữa, ví dụ như cánh ông PHL thì nói là Mai Thúc Loan phải gánh quả vải nộp cống do đòi hỏi của Dương Quý Phi, mà sự thực thì Dương Quý Phi ăn quả vải tàu do ngựa chở về, nhưng buồn cười nhất là, sự thực thì khi Mai Thúc Loan bại trận (chưa nói là khi Mai Thúc Loan khởi sự) thì bà ta mới 3 tuổi, vân vân.
Sau 6 năm nghiền ngẫm kỹ càng, ông chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử mới có ý kiến trả lời công luận, nhưng ông ta né tránh mọi kết luận của LMC và tóm tắt bài phản bác chừng 1 vạn chữ của tác giả này bằng 1 câu, với vài ý lơ mơ, nhạt nhẽo để phản bác những ý lơ mơ nhạt nhẽo ấy bằng những lý luận mà chúng tôi đã trích dẫn. Cứ theo sự phản bác của PHL thì độc giả nếu chưa trực tiếp đọc bài của LMC thì sẽ cảm thấy ông này hình như là một người lẩn thẩn, đần độn, dốt nát lại hay nói liều, và PHL đã hoàn toàn bác bỏ mọi của LMV (mà PHL đã cắt xén và xuyên tạc).
Vì tác giả LMC đã chứng minh được nguồn thu hái quả vải và cách vận chuyển quả vải thời Đường, PHL không thể cãi được nên phải thừa nhận rằng Mai Thúc Loan không làm phu gánh quả vải, nhưng giả vờ không biết rằng LMC đã khảo cứu “lệ cống vải” nên ông PHL vẫn lên giọng kẻ cả: "Thời thuộc Đường, thực hiện chế độ tô-dung-điệu rồi chuyển sang chế độ lưỡng thuế, nhưng chế độ lao dịch, cống nộp vẫn còn, kể cả cống quả vải. Nhưng theo kết quả tra cứu của tôi thì vào thời thuộc Đường, không tìm thấy một tư liệu đáng tin cậy nào về chế độ cống vải từ Giao Châu hay An Nam, tức từ nước ta. Còn việc tiến vải cho Dương Quý Phi xẩy ra sau khởi nghĩa Mai Thúc Loan và là quả vải cống của vùng Lĩnh Nam, từ Quảng Châu, Nam Hải của Trung Quốc. Phương thức chuyển quả vải cống thời này được ghi rõ là dùng ngựa trạm chạy khẩn cấp từ Lĩnh Nam đến Trường An làm sao bảo đảm quả vải tươi, mà theo Tư trị thông giám thì quả vải hái khỏi cây, sau 1 ngày sắc đã biến đổi, sau 2 ngày hương vị biến đổi và sau 4-5 ngày thì sắc và hương vị không còn nữa. Sau này nhà Đường dùng cách ngâm quả vải vào nước muối hay ngâm mật để bảo quản lâu hơn".
Như vậy là PHL lúc nào cũng muốn ngồi trên đầu mọi người. Suốt mấy chục năm, ông là người có “công” lớn nhất, hăng hái nhất trong việc quảng bá câu chuyện hoang đường về “nạn cống vải”. Đến khi cái “luận điểm” lố bịch ấy bị bác bỏ hoàn toàn, ông vẫn không chịu thú nhận sai lầm của mình, mãi cho đến nay đã là 6 năm. Vì thấy không thể cãi được nữa, ông phải liều một phen, lấy kết quả nghiên cứu của người phản bác mình làm cái công của mình, nói không biết ngượng rằng, theo kết quả tra cứu của tôi (tức PHL) thì vào thời thuộc Đường, không tìm thấy một tư liệu đáng tin cậy nào về chế độ cống vải từ Giao Châu hay An Nam.
Lần đầu tiên, chúng tôi được nhìn thấy hành vi cướp đoạt bản quyền một cách ngang nhiên ngay mắt mọi người.
Xin nói để ông chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử biết: ông không thể tra cứu để xác định có hay không có “nạn cống vải” với hàng ngàn người gồng gánh đi bộ quanh năm (cả đi lẫn về), bởi vì sự việc đã không có (như chính ông đã thừa nhận) thì làm gì có người ghi chép để cho ông tra cứu?. Muốn xác định được có hay không cón “nạn cống vải” như thế thì phải chứng minh. Tác giả Lê Mạnh Chiến đã chứng minh và công bồ hơn một lần rằng:
1) Hoàn toàn không thể có “nạn cống vải” như thế.
2) Thời nhà Đường, có lệ cống vải cho triều đình nhưng quả vải được vận chuyển bằng ngựa của hệ thống dịch trạm và được hái trên đất Trung Quốc.
3) Thời nhà Hán (nghĩa là từ khi Trung Quốc bắt dầu xâm lược nước ta), lệ cống quả vải cho triều đình cũng giống như thời nhà Đường, quả vải có thể lấy ở nước ta một ít và hoàn toàn không có “nạn cống vải” như ông PHL đã viết trong các giáo trình lịch sử.
Ông chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Phan Huy Lê đã rao giảng câu chuyện hoang đường về “nạn cống vải” ngót nửa thế kỷ. Bị Lê Mạnh Chiến phê phán và bác bỏ, ông PHL đã “phản bác” bằng cách bóp méo luận chứng của LMC rồi giẫm lên pháp luật, lấy luôn kết quả nghiên cứu của LMC làm thành tích của mình. Như vậy, trong bản thành tích xin nhận giải thưởng của PHL có thêm “công lao” phát hiện được sai lầm của các nhà sử hoc.
Cuối phần “Nguyên nhân khởi nghĩa và vấn đề cống quả vải” ông PHL đưa ra kết luận:
Theo kết quả kiểm tra tư liệu của tôi, trong thời Bắc thuộc chế độ cống quả vải cũng như một số quả quý của nước ta như cam, quýt, nhãn... đã có từ thời Tây Hán, nhưng đến thời thuộc Đường thì quả vải cống lấy từ vùng Lĩnh Nam. Vì vậy ý kiến của ai đó coi nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chỉ là hay chủ yếu là chế độ đi phu cống vải là không có cơ sở khoa học.
Thưa ông chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử, thời Tây Hán, quả vải cống cũng lấy từ Lĩnh Nam, và cũng được chở về Trường An bằng ngựa của hệ thống dịch trạm. Ông giả vờ quên điều đó để tỏ ra là “luận điểm” về “nạn cống vải” (với hàng ngàn dân phu quảy sọt quả vải lê bước đến Trường An) là có cơ sở, là “nói có sách, mách có chứng” đấy ư?
Tính trung thực chủ tich Hội Khoa học Lịch sử là như vậy đấy.
Xin hỏi: Ông đã tra Hậu Hán thư và Tư trị thông giám (đoạn ghi chép về Hán Hòa đế, nói đến bức thư của Đường Khương xin bỏ lệ cống quả vải hay chưa? Trong đó có nói rõ là thời nhà Hán, có lệ cống quả vải từ 7 quận thuộc bộ Giao Chỉ (6 quận nằm trên đất Trung Quốc), do ngựa của hệ thống dịch trạm chuyển đến kinh đô. Nay ông có thể chứng minh là thời đó có lấy quả vải ở nước ta rồi bắt hàng ngàn dân phu gánh một mạch về Trường An hay không? mỗi đoàn đi mất bao nhiêu thời gian, quả vải được giữ thế nào cho tươi?, vì sao đã có quả vải rất ngon, rất nhiều, cự ly vận chuyển chỉ bằng một nửa so với Hoan Châu (hay Việt Nam). lại có hệ thống dịch trạm cho phép chyên chở quả vải trong 4-5 ngày là đến nơi, mà nhà Hán lại thích ăn thứ quả vải chua đã thối mủn do người đi bộ mất vài trăm ngày mới đến?
Nếu là người trung thực, ở đoạn văn vừa nêu, ông Phan Huy Lê phải sửa lại như sau: "Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Mạnh Chiến, trong thời Bắc thuộc chế độ cống quả vải cũng như một số quả quý của nước ta như cam, quýt, nhãn... đã có từ thời Tây Hán, quả vải được vận chuyển bàng ngựa của hệ thống dịch trạm, và đại bộ phận được hái trên đất Trung Quốc, có thể hái ở Việt Nam một ít nhưng đến thời thuộc Đường thì quả vải cống lấy từ vùng Lĩnh Nam. Vì vậy ý kiến của giới sử học do tôi chủ xướng coi nguyên nhân của khởi nghĩa Mai Thúc Loan chủ yếu là chế độ đi phu cống vải ảo. Là một sự bịa đặt theo sự suy diễn dại dột của của chúng tôi".
Qua bài của Phan Huy Lê, chúng tôi thấy giữa Đinh Văn Hiến và Phan Huy Lê có quá nhiều điểm tương đồng về nhân cách và tầm hiểu biêt cũng như về phương pháp triệt hạ đối phương, “gần như hai giọt nước”. Cho nên, thật dễ hiểu khi họ tìm đến nhau, tâng bốc nhau, dựa vào nhau để “làm khoa học”.
Một điều không thể không nhắc đến ở đây là, ông Phan Huy Lê đưa ra rất nhiều tài liệu làm lóa mắt người đọc. Nhưng chúng tôi đã có đủ kinh nghiệm về ông rồi. Xem cái cách ông đổ lỗi cho ông Trần Quốc Vượng, cho ông Trần Bá Chí, cái cách ông quên hết lỗi lầm của mình để vênh mặt dạy người khác.. đã đủ cho thấy tâm địa của ông. Riêng về khoản sách vở chữ nghĩa thì khó tin ông lắm. Bởi vì, ông đã có mặt trong nhóm bịa đặt cứ liệu lịch sử mà ông Lê Mạnh Chiến đã vạch ra và đã công bố trên báo. Ngay cả trong bài “Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - Những vấn đề cần xác minh” mà chúng tôi đang xem xét ở đây, ít nhất cũng thấy vài cái sai, chứng tỏ rằng ông đã quen thói lừa bịp thiên hạ:
Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử đã sử dụng sách Nam phương thảo mộc trạng làm phao cứu sinh, mượn nó để nói lên rằng “luận điểm” về “nạn cống vải” (theo cách như các nhà sử học đã diễn tả) là “có cơ sở khoa học”, chứ không thể “sổ toẹt” như Lê Mạnh Chiến đã làm, nên ông chủ tịch “đã đọc nó” rất kỹ và trích dẫn nhiều lần. Nhưng, tên của tác giả Nam phương thảo mộc trạng là Kê Hàm 嵇含(263-306) chứ không phải là Kế Hàm như PHL đã viết nhiều lần. Kê Hàm là cháu của Kê Khang 嵇 康 (223-263), danh sĩ thời Tam Quốc, một nhân vật trong nhóm “Trúc lâm thất hiền” mà Nguyễn Du từng nhắc đến ở hai câu trong Truyện Kiều:
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
Cựu Đường-thư cũng được GS Phan Huy Lê trích dẫn nhiều lần, nhưng tác giả (người chủ biên) của sách ấy là Lưu Hú 劉 昫 (887-946) thì ông PHL viết là Lưu Hướng. Trong lịch sử Trung Quốc có tác giả Lưu Hướng 劉向(77tcn-6tcn) rất nổi tiếng, nhưng ông này đã chết được gần 1000 năm trước khi Cựu Đường-thư ra đời. Cái sai này không phải lỗi chính tả ví nó được lặp lại nhiều lần trong các cước chú. Thật đáng tiếc cho ông, từ khi bị Lê Mạnh Chiến tố cáo rằng không biết Đường-thư là sách gì mà cứ “trích dẫn” loạn xị, đến nay chỉ hơn 3 năm mà đã sớm quên cái trò nguy hiểm ấy. Nhưng cũng có thể trình độ chữ Hán của ông quá “siêu” cho nên hay đọc chữ tác thành chữ tộ, như hồi trước ông đã đọc chữ giản 暕 (trong tên ông Đặng Tiến Giản) thành “đông” để tạo nên ông Đặng Tiến Đông rồi suy luận ra thành Đô đốc Long, người đánh trận Ngọc Hồi - Đống Đa.
Tóm lại, qua các phần 1 và 3 trong bài Khởi nghĩa Mai Thúc Loan - những vấn đề cần xác minh, chúng ta thấy được một số đặc điểm của ông Phan Huy Lê như sau:
1) Ông PHL có biệt tài trong việc chiếm lĩnh kết quả nghiên cứu của người khác để “nâng cấp” và chế biến thành sản phẩm của minh, mà việc chiếm giữ bản quyền về “nạn cống vải” thời Mai Thúc Loan là một ví dụ.
2) Khi lâm sự, ông PHL biết thoát thân rất nhanh, vội vã trút trách nhiệm cho những người đã tạo nên thành tích cho ông trước đây, rồi ông nhảy tót lên ghế quan tòa để phân định phải - trái (như đối với Trần Quốc Vượng và Trần Bá Chí).
3) Ông PHL biết cách biến hóa, chuyển cái sai của minh thành cái đúng, chuyển cái đúng của người khác thành cái sai (như trong việc ông vẫn khăng khăng bảo vệ “luận điểm” về “nạn cống vải” và làm cho mọi người nghĩ rằng người phê phán ông, tức là ông Lê Mạnh Chiến phạm nhiều sai lầm).và chiếm luôn kết quả nghiên cứu của Lê Mạnh Chiến để trở thành người sáng suốt và đúng đắn từ đầu đến cuối.
4) Ông rất thành thạo cách tô vẽ cho mình, biết sử dụng tài liệu gián tiếp để tăng vẻ thông kim bác cổ, tuy cũng có khi thành công vì trót lọt nhưng cũng vài phen bại lộ vì cái khoản chữ Hán tù mù.
Trên đây chỉ mới là một số nhận xét ban đầu về nhà sử học Phan Huy Lê. Chúng tôi có nói gì sai, xin ông cứ vạch ra một cách thẳng thắn. Nếu có lỗi nặng với ông quá, ông cứ đi thưa kiện, nhưng trước hết, hãy kiện tác giả Lê Mạnh Chiến vì ông ấy đã tố cáo việc nhóm 8 nhà sử học do ông cầm đầu đã bịa đặt “cứ liệu” lịch sử, rồi công bố bài tố cáo ấy trên báo “Người Đại biểu Nhân dân”.
Lê Hà & Thái Hoàng
Bến sông Huế - ảnh Việt nam xưa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét