Thứ Tư, 18 tháng 9, 2013

Diệu dụng của duyên khởi

Đức Thế Tôn nhờ quán nghiệm đạo lý duyên khởi mà giác ngộ bản thể của vạn hữu, chứng đạt quả vị Phật đà tối thượng. Nội dung giác ngộ mà đức Phật đã chứng nhập ấy bao gồm trí giác quán chiếu vào cội nguồn vô minh hành nghiệp và vòng tử sinh bất tận mà chúng sinh bị trói buộc. Nội dung giác ngộ ấy cũng là ánh sáng trí tuệ siêu việt rọi chiếu vào tận căn nguyên của nhận thức, vũ trụ, nhân sinh và đặc biệt mở ra con đường giải thoát khổ đau cho tất cả muôn loài.
1. Nhận thức:
Nhận thức là cánh cửa mà con người mở ra để nhìn vào khung trời thế giới chung quanh, cho nên, giới hạn của nhận thức cũng chính là giới hạn của thế giới. Qua tầm nhìn của một con ếch ở đáy giếng thì vũ trụ không lớn hơn cái miệng giếng là bao Nihau. Cũng vậy, thế giới mà một hữu tình chúng sinh có thể nhận thức được không vượt quá mấy khung cửa của sáu căn trông ra cảnh giới của sáu trần. Hành nghiệp của tri giác ấy huân tập từ đời này sang đời khác, từ kiếp này sang kiêáp khác, từ cảnh giới này sang cảnh giới khác đã tích tụ thành tập khí tiên thiên tiêm nhiễm vào tận đáy sâu của tâm thức, ươm mầm cho vô lượng chủng tử hữu lậu phát sinh. Chính vì vậy, dưới nhận thức của hữu tình chúng sinh các pháp vốn là hữu ngã, nghĩa là thật có, thật hữu, thật tánh. 
Nhưng đó chỉ là nhận thức bị chi phối bởi vô minh và hành nghiệp lâu đời lâu kiếp khiến cho chúng sinh khó có thể trực nhận được chân tánh của các pháp là gì mà chỉ chấp vào giả tướng hư vọng cho là thật. Sự thực thì các pháp do duyên mà khởi sinh, cho nên không một pháp nào có thật tánh, có thật ngã. Nhận thức được các pháp do duyên khởi, không có tự tánh là một bước thay đổi lớn lao trong tiến trình chuyển hóa tâm thức và khai mở trí tuệ của một chúng sinh. Trên nền tảng quán chiếu của trí tuệ y tha khởi này, chúng sinh đã có thể liễu ngộ được hai mặt của thực tại: Mặt thứ nhất, nhìn thấu suốt bản chất của các pháp thuộc thế giới tục đế chỉ là do duyên mà giả hữu, không thật có tự tánh, cho nên có thể trút bỏ mọi biến kế chấp, mọi tham đắm, mọi triền phược và giải thoát mọi khổ não. Mặt thứ hai, giải ngộ từng phần (phần chứng) hay toàn phần (toàn phần chứng) cảnh giới của đệ nhất nghĩa đế cho nên có thể cảm nghiệm được bóng dáng viên thành thật của vạn pháp vốn nằm ngay trong cái vô tự tánh của vạn hữu, vô tánh chính là thật tánh. Cho nên trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa, đức Phật dạy:
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.
Dịch: Nếu thấy được bản thể vô tướng của các pháp, tức là thấy được Như Lai.
2. Vũ trụ:
Với duyên khởi, các pháp không tồn tại độc lập, không thể tự hữu mà không nương vào các pháp khác. Do vậy, không thể có một nguyên nhân độc nhất nào, một năng lực siêu nhiên duy nhất nào có khả năng tác tạo ra vũ trụ. Thế giới mà con người đang sống không phải là thế giới duy nhất mà chỉ là một hạt bụi nhỏ trong vũ trụ rộng lớn bao la không ngằn mé. Trong vũ trụ bao la ấy, sự sinh khởi, tồn tại và hoại diệt của thế giới này chính là nhân, là duyên cho sự sinh khởi, tồn tại và hoại diệt của những thế giới khác. Sự hiện hữu của một thế giới hay rộng hơn nữa một Phật sát là mối tương quan tương duyên vô cùng của hành nghiệp và thệ nguyện của tất cả vô tình và hữu tình chúng sinh trong thế giới ấy hay trong Phật sát ấy. Trong vũ trụ vô biên kia hiện có biết bao nhiêu thế giới đang sinh và diệt. Trong vô số thế giới ấy có biết bao nhiêu chủng loại chúng sinh đang ra đời hoặc già chết. Nhưng trong số những chúng sinh đó cũng có những chúng sinh đang thành tựu mục đích tối thượng của cuộc tồn sinh, đó là phá tan xiềng xích của vô minh phiền não để giác ngộ chân tánh và giải thoát mọi khổ đau.
Qua ánh sáng của duyên khởi, chúng sinh không chỉ nhìn thấy mối tương quan tương duyên trong phạm vi một thế giới nhỏ mà mình đang có mặt, nó còn nhìn thấy được mối tương quan tương duyên rộng khắp trong vũ trụ. Từ đó, chúng sinh ấy mở tâm và trí ra bên ngoài vũ trụ bao la, quan tâm, cảm nhận và chia sẻ những đổi thay của vũ trụ, những khổ vui của vô lượng chúng sinh khác. Tâm ấy là tâm đại từ bi. Trí ấy là trí đại giác ngộ. Phật sát hình thành khi một chúng sinh hưng phát và thành tựu đại Bồ đề tâm. 
Trong phạm vi của thế giới mà con người đang sống mỗi hành nghiệp của mỗi người đều có mối tương quan tương duyên với khắp cả cộng đồng nhân loại. Một người tác nghiệp bất thiện sẽ gây ra bao nhiêu bất an cho thế giới, ngược lại một người thực hiện thiện nghiệp sẽ mang lại vô số điều lợi lạc cho nhân quần. Một quốc gia không thể tồn tại và phát triển nếu tách rời khỏi phần còn lại của thế giới. Cộng đồng nhân loại ngày nay đang cùng nhau chia xẻ những vấn đề của thời đại không còn mang tính đặc dị hay địa phương mà hoàn toàn có tính phổ quát qua các lãnh vực văn hóa, giáo dục, đạo đức, tôn giáo, kinh tế, chính trị, v.v..
3. Nhân sinh:
Trong vũ trụ, mọi sự mọi vật đều do duyên mà sinh thì con người cũng vậy do duyên mà có mặt. Duyên gần có thêå thấy trong đời này là ông bà cha mẹ, duyên xa trong qúa khứ là những hành nghiệp bị chi phối bởi vô minh và ái dục. Vì thế, sự có mặt của con người là do chính nhân duyên mà con người tạo ra chứ không phải do bất cứ một quyền năng siêu nhiên nào khác tác tạo. Con người vây kết ái nghiệp cho nên bị trói buộc trong vòng tử sinh. Con người tự tạo ác nghiệp cho nên phải chiêu cảm quả báo khổ não. Như vậy, con người nếu không gây kết ái nghiệp, không tạo ra điều bất thiện thì chắc chắn chấm dứt vòng sinh tử và thoát ly mọi đau khổ. Duyên tự nó vốn không có tự tánh, cho nên, con người có thể chuyển hóa các duyên để điều hướng lộ trình thăng hoa của đời sống. Khi liễu giải được ý nghĩa đó, con người cũng đồng lúc hiểu rõ rằng những gì mà con người đang thọ nhận, dù hạnh phúc hay khổ đau, chỉ là những giả hợp của các duyên do chính mình tạo ra, chúng là pháp vô thường, sinh rồi diệt, quan trọng hơn nữa là chúng có thể được chuyển hóa.
Nhưng trong ý nghĩa duyên khởi, con người không thể tự tồn nếu không có mối tương quan tương duyên với cộng đồng nhân loại: thức ăn, nước uống, y phục để mặc, nhà cửa để ở, trường ốc sách vở thầy bạn để học, công tư sở để làm kiếm tiền, xe để di chuyển, chợ quán để mua sắm vật dụng, cơ chế nhà nước để chăm lo phúc lợi cho người dân, truyền thống văn hóa, giáo dục, đạo đức, luân lý, tôn giáo để hun đúc cho con người trưởng thành, v.v.. Không làm sao có thể tính đếm được hết những duyên mà con người phải nương tựa để sinh tồn. 
Trong mối tương quan duyên khởi từ bình diện cá nhân đến bình diện cộng đồng, bao giờ cũng có mối tương hệ tương tức, nghĩa là cá nhân vừa là một tập hợp của nhiều duyên trong chính nó, vừa là yếu tố duyên cho cộng đồng xã hội. Ngược lại, xã hội tự nó cũng là một tập hợp của vô số duyên, vừa là cái duyên cho từng cá nhân hiện hữu trong nó. Từ đó, con người có thể vừa chuyển hóa duyên để hoàn thiện cuộc đời mình mà cũng là góp phần chuyển hóa xã hội. Tương tự như vậy, cộng đồng xã hội nhờ sự chuyển hóa duyên của từng cá nhân mà được hoàn thiện và khi xã hội cải thiện cũng sẽ góp phần to lớn để chuyển hóa duyên cho mỗi cá nhân. Chính trong ý nghĩa này đã khẳng định khả tính và vai trò chuyển hóa duyên của cá nhân và cộng đồng xã hội hướng đến mục tiêu cao cả mang lại sự giác ngộ và giải thoát cho tất cả mọi người. 
Dựa trên khả tính chuyển hóa các duyên ấy, con người có thể tích cực đóng góp vào việc kiến tạo một xã hội nhân sinh bình đẳng, khai phóng, tiến bộ, phú cường và an lạc trong những lãnh vực sinh hoạt hằng ngày như văn hóa, giáo dục, tôn giáo, chính trị, bang giao, kinh tế, v.v.. Ở đây chúng ta thấy có hai nguyên lý nền tảng để từ đó sự kiến tạo xã hội nhân sinh được thực hiện một cách hữu hiệu:
A. Trong tinh thần của đạo lý duyên khởi mục tiêu tối hậu là làm sao đạt đến cảnh giới tự chứng đệ nhất nghĩa đế, tức là dẫn dắt chúng sinh thành tựu mục đích cứu cánh giác ngộ và giải thoát. Với mục đích ấy, kiến tạo xã hội nhân sinh trong ý nghĩa duyên khởi tức là thực hiện các phương tiện thiện xảo bằng trí tuệ và từ bi hướng dẫn con người thực nghiệm đời sống qua những nấc thang chuyển hóa từ nhân thừa, thiên thừa đến Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa. Mọi giai đoạn thực hiện việc kiến tạo xã hội đều nhắm đến việc thăng hoa đời sống trong cả lãnh vực vật chất và tâm linh. 
B. Trong tinh thần của đạo lý duyên khởi mọi công cuộc chuyển hóa xã hội nhân sinh đều xây dựng trên mô thức tương quan tương duyên của tất cả mọi thành tố từ đối tượng là con người đến các phương thức thực hiện. Với đối tượng là con người, việc kiến tạo xã hội nhân sinh phải dựa trên mối tương quan tương duyên và bình đẳng giữa tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giai cấp. Với các phương thức thực hiện, việc kiến tạo xã hội nhân sinh phải được quan tâm, nghiên cứu và thực thi trong mối tương quan tương duyên thực tế của từng lãnh vực cũng như của mọi lãnh vực có quan hệ duyên khởi nhau. Thí dụ, việc kiến tạo xã hội nhân sinh qua lãnh vực giáo dục cần phải quan tâm, nghiên cứu và thực hiện trong mối tương quan tương duyên với tất cả mọi lãnh vực có mối tương hệ đến, chẳng hạn cơ chế chính trị điều hành quốc gia, bối cảnh truyền thống văn hóa, đạo đức, tôn giáo, thực trạng của nền kinh tế quốc dân, chiều hướng đang diễn ra và sẽ tiến tới của nền giáo dục toàn cầu, những yếu tố then chốt để thực hiện nền giáo dục thành tựu như chương trình giảng dạy, nội dung các môn giảng dạy, phong cách đạo đức, phẩm chất kiến thức và khả năng chuyên môn của các giáo sư, phương thức giảng dạy phù hợp với từng đối tượng là những học sinh, mối tương quan tương duyên không thể thiếu giữa học đường, gia đình, học sinh và xã hội, v.v..
4. Giải thoát:
Đức Phật do quán nghiệm duyên khởi mà thành đạt mục tiêu giác ngộ và giải thoát tối thượng. Cho nên, đức Phật khai thị giáo nghĩa duyên khởi với một ý chỉ rõ ràng là mở ra con đường giác ngộ và giải thoát cho chúng sinh. Đức Phật không dạy giáo nghĩa duyên khởi chỉ để giải thích về căn nguyên của nhận thức, vũ trụ và nhân sinh hầu thỏa mãn những nhu cầu của kiến thức duy lý và siêu hình. Đức Phật không bao giờ tiêu phí thì giờ quý báu của sự nghiệp tu tập và hoằng pháp lợi sinh vào những vấn đề hý luận như vậy. Con người có được bao nhiêu thời gian bảo đảm là mình còn tồn tại trong thân xác ngũ uẩn này? Không ai có thể xác quyết được điều ấy, bởi vì thân này là vô thường, sự chết có thể đến bất cứ lúc nào, chỉ trong một hơi thở là mạng người đã thay đổi. Vậy hơi thở nào là hơi thở cuối cùng? Tất cả mỗi một hơi thở đều có thể là hơi thở cuối cùng. Như thế làm sao còn có thể chờ đợi để đùa giỡn với sinh tử, để chạy theo con đường quanh co của hý luận? 
Các pháp do duyên tụ hợp mà sinh khởi, do duyên ly tán mà hoại diệt, cho nên, không có tự tánh, không thật có. Khi đạo lý duyên khởi khai thị về điều này đã mở ra cho chúng sinh mấy lộ trình giác ngộ và giải thoát như sau: 
A. Trên vận đồ tử sinh bất tận của chúng sinh, khổ não đi theo như bóng với hình. Khổ não vì sự thọ sinh, vì bệnh tật, vì già, vì chết, vì thương yêu mà xa lìa, vì oán ghét mà chung đụng, vì mưu cầu mà chẳng được, vì sự bất an thường trực của năm uẩn. Căn nguyên của mọi khổ não chính là lòng tham lam, sự sân hận, sự si mê, lòng kiêu mạn, sự nghi kỵ, kiến chấp về tự ngã của thân, kiến chấp sai lầm một chiều, tính cố chấp vào quan điểm nhận thức của mình, sự cuồng tín vào giới điều mà mình đã thọ nhâän, quan điểm sai lầm về nhân quả, nghiệp báo, v.v... Nhưng các pháp do duyên mà sinh, cho nên không thường hằng, không cố định, không có tự tánh, vì vậy, chúng sinh có thể thực hiện công cuộc chuyển hóa đời mình để giác ngộ vô minh và giải thoát mọi khổ đau hầu đạt đến niết bàn tịch tịnh. Con đường dẫn đến niết bàn tịch tịnh chính là con đường mà thánh giả đã, đang và sẽ thể nghiệm. Con đường ấy là con đường của ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo, mà tiêu biểu nhất là con đường Tám Thánh Đạo. 
B. Duyên nơi sự sinh ra đời mà có già chết ưu bi khổ não, duyên nơi thọ thai mà có sự sinh, duyên nơi đắm trước sắc dục mà có thọ thai, duyên nơi cảm thọ mà có đáém trước sắc dục, duyên nơi xúc chạm mà có cảm thọ, duyên nơi sáu căn mà có xúc chạm với sáu trần, duyên nơi danh sắc của thân ngũ uẩn mà có sáu căn, duyên nơi thức mà có danh sắc, duyên nơi hành nghiệp mà có thức, duyên nơi vô minh mà có hành nghiệp. Vì thế, chiếu phá vô minh thì hết hành nghiệp, hết hành nghiệp thì không có thức, không có thức thì không có danh sắc, không có danh sắc thì không có sáu căn, không có sáu căn thì không có xúc chạm, không có xúc chạm thì không cảm thọ, không có cảm thọ thì không có ái dục, không ái dục thì không có đắm trước, không có đắm trước thì không có thọ thai, không có thọ thai thì không sinh ra, không sinh ra thì không già chết ưu bi khổ não. Nói tóm lại, diệt trừ được vô minh và ái dục thì chấm dứt con đường sinh tử và khổ não. Muốn phá vô minh và diệt trừ ái dục thì phải thực nghiệm giới-định-tuệ và quán nghiệm đạo lý Mười hai nhân duyên mỗi ngày mỗi giờ mỗi giây phút trong đời sống, tinh tấn không giãi đãi, không buông lung.
C. Các pháp do duyên hợp mà có cho nên, không thật có, là giả có như lông rùa, sừng thỏ, chỉ là mộng tưởng điên đảo của tâm vô minh vọng động của chúng sinh. Như thế vô minh cũng không thật có, ngũ uẩn cũng không thật có, khổ vui cũng không thật có. Vấn đề còn lại đối với chúng sinh là làm sao liễu ngộ được diệu nghĩa của duyên khởi giả danh này để khai phát năng lực vi diệu của trí tuệ bát nhã nhờ đó mà siêu việt lên trên mọi vọng niệm, mọi triền phược để thể nhập vào cảnh giới tự chứng của Thánh trí, đó là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. 
Trong ý nghĩa duyên khởi, các pháp vốn không tự hữu mà là tương quan tương duyên nhau, cũng vậy, con người không thể an hưởng sự giải thoát cho chính mình trong khi muôn vạn chúng sinh đang sống đau khổ chung quanh. Sự giải thóat toàn vẹn không thể thành đạt một cách rốt ráo nếu như con người không đồng lúc nổ lực giải thoát những khổ não chung quanh. Bồ tát đạo là lý tưởng chăm lo sự giác ngộ và giải thoát cho mọi người đồng lúc với sự thực nghiệm ở tự thân. Hình ảnh của chư Bồ tát là biểu tượng cao vời cho mục đích giác tha ấy. Đó cũng chính là thệ nguyện ra đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới này, cũng như chư Phật trong mười phương thế giới, như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm Phương Tiện thứ hai đức Phật dạy:
"Chư Phật vị nhất đại sự nhân duyên xuất hiện ư thế, dục linh chúng sinh khai, thị, ngộ, nhập Phật chi tri kiến".
Dịch: "Chư Phật vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, đó là muốn khiến cho chúng sinh được khai mở, chỉ bày, liễu ngộ và chứng nhập vào tri kiến của Phật".
Tâm Huy - Huỳnh Kim Quang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét