Trận địa phòng ngự biển đảo thông thường có cấu trúc tương tự như các trận địa phòng ngự bờ biển khác, bao gồm trận địa của các thê đội phòng ngự, các tuyến phòng ngự…
Hệ thống phòng ngự đảo được xây dựng trên các khu vực đối phương có khả năng đổ bộ lực lượng lính thủy đánh bộ và được phòng ngự, theo nguyên tắc chiến thuật chung, bởi các đơn vị bộ binh. Khi xây dựng trận địa phòng ngự, cần tính toán đến lực lượng thực tế thường trực chiến đấu trên đảo, điều kiện địa hình và ý nghĩa thực tế của khu vực xây dựng trận địa phòng ngự.
Trận địa phòng ngự các mục tiêu quan trọng như (hải cảng, căn cứ hải quân, sân bay, tuyến đường giao thông (thông thường hay chạy vòng quanh vành đai địa hình của đảo) và các giao lộ được tổ chức theo nguyên tắc của các trận địa phòng ngự, thành các tuyến phòng ngự và các thê đội phòng ngự ( tuyến tiền duyên, tuyến phòng ngự tiếp theo…) trận địa phòng ngự của thê đội 1, trận địa phòng ngự thê đội 2, khu vực thê đội dự bị….
Tuyến tiền duyên, trận địa phòng ngự thê đội 1 thông thường được thiết kế, xây dựng như một trận địa phòng ngự trên chiến trường với tất cả các thành phần cấu thành trận địa, trong một số trường hợp được xây dựng kiên cố, vững chắc, được duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu thường xuyên bởi các đơn vị thường trực. Tuyến phòng ngự thứ 2, cấu thành từ các trận địa phòng ngự thê đội 1, thê đội 2 hoặc thê đội dự bị thông thường được xây dựng thành các công trình phòng ngự rất vững chắc, kiên cố, bao gồm cả hệ thống hầm hào giao thông, hầm ngầm, sở chỉ huy, kho tàng, khu nguồn năng lượng v.v.. bằng bê tông cốt thép, các tấm thép chống bom và tên lửa. Thông thường phía trên và phía trong sẽ là các công trình dân sự, huyện thị hoặc khu dân cư hay khu công nghiệp biển.
Phòng thủ đảo được tổ chức theo phương án chủ động và cơ động. Các khu vực quan trọng “đối tượng” của đảo được bảo vệ bằng lực lượng tại chỗ, các lực lượng chủ lực được biên chế thành những lực lượng cơ động, sẵn sàng tổ chức những đòn phản kích quyết liệt tại những điểm sơ hở của đối phương, phản kích từ sâu trong vị trí phòng thủ nhằm tiêu diệt lực lượng đổ bộ tại một khu vực đổ bộ nhất định.
Có nhiều đảo có diện tích tương đối nhỏ, tuyến phòng thủ được triển khai gần như bám sát mép biển, và lực lượng phòng ngự cũng không đông. Do đó các tuyến phòng ngự chiều sâu và lực lượng dự bị không được tổ chức, do đó sẽ tách thành các phân đội hỏa lực mạnh cơ động, sẵn sàng yểm trợ hỏa lực những nơi có nguy cơ cao nhất, còn lại các lực lượng tập trung phòng ngự tại những khu vực quan trọng.
Trong đó, lực lượng phòng ngự chủ chốt thường nằm sâu ở thê đội hai, trên các trận địa phòng ngự vững chắc. Đồng thời, khi xây dựng trận địa phòng ngự địch đổ bộ đường biển, cần xây dựng các khu vực phòng ngự địch đổ bộ đường không. Do đó, ngoài việc xây dựng các tuyến phòng thủ tại những điểm, những khu vực địch có thể đổ bộ, cần tổ chức các trận địa phòng không, lực lượng chống đổ bộ đường không cơ động với vũ khí phòng không đi cùng.
Sơ đồ hệ thống phòng ngự biển đảo, khu vực đổ bộ.
Trong phòng ngự hải đảo, vũ khí trang thiết bị quan trọng nhất để đảm bảo thành công trong chiến đấu là: Hệ thống thủy ngư lôi chống tàu, mìn chống xe thiết giáp đổ bộ và mìn chống bộ binh dưới nước và trên cạn, hàng rào vật cản chống đổ bộ.
Hệ thống hàng rào, vật cản, trận địa mìn phòng ngự.
Hệ thống hàng rào vật cản chống tăng có thể được xây dựng nhân tạo bao gồm: Mìn chống tăng, cọc chống tăng con nhím, hàng rào cọc, hào chống tăng v.v…. Các hàng rào vật cản có thể cố định hoặc tạm thời, được bố trí sao cho không ảnh hưởng đến hoạt động thường xuyên của đảo, nhưng có thể nhanh chóng ngăn chặn, phong tỏa mọi tuyến đường đổ bộ lên đảo. Hệ thống hàng rào vật cản chống lực lượng bộ binh đổ bộ (bao gồm các loại mìn, các trận địa mìn và các loại vật cản khó nhận biết.
Hệ thống hàng rào, vật cản ngăn chặn các phương tiện đổ bộ - bao gồm cả các phương tiện lưỡng cư (xuồng máy, xe lội nước đổ bộ…) là những khí tài, vũ khí đặt ngầm dưới mặt nước như thủy lôi, mìn, bộc phá mảnh, hàng rào cột, lưới và các loại vật cản khác. Hệ thống hàng rào vật cản chống đổ bộ đường không có thể là các trận địa cột chống đổ bộ trực thăng bằng bê tông, thép, các loại mìn chống trực thăng và chống đổ bộ, trong giai đoạn hiện nay, thường ưu tiên các loại mìn chống trực thăng và chống đổ bộ nhờ giá thành và tính tiện dụng của nó.
Sơ đồ vật cản của quân đội Đức chống đổ bộ khi thủy triều xuống.
Hệ thống phòng ngự dưới nước thường được sử dụng là các loại thủy lôi neo, bộc phá mảnh và mìn đáy, các loại vũ khí này thông thường được chế tạo theo dạng containers kín, được điều khiển từ xa. Các khí tài gây nổ được bố trí thông thường ở độ sâu nổ là 2,5m. Song song cùng với các loại khí tài gây nổ là các vật cản như chùm thanh sắt hàn con nhím chống đổ bộ, cột bê tông cốt thép chống đổ bộ. Các cụm vật cản này thường bố tri ở độ sâu đến 3 m khi triều lên, xen lẫn với khí tài gây nổ và thường có chiều ngang đến 10 m.
Ngư lôi neo đáy chống tàu.
Mìn chống đổ bộ đáy biển.
Hệ thống phòng ngự chống đổ bộ trên bãi biển bao gồm các trận địa hỗn hơp mìn chống tăng, chống bộ binh và hàng rào vật cản – hàng rào dây thép gai. Trên bãi biển từ độ sâu 1m lên trên bờ, đặc biệt những nơi có địa hình sỏi đá, phức tạp thường hay đặt các vật cản khó nhận biết (lưới thép gai bùng nhùng xen lẫn với các loại bẫy thủ công tinh vi…).
Để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ động và phòng ngự, giữa các trận địa vật cản khó nhận biệt cần chuẩn bị các tuyến đường cơ động thuận lợi, cũng như các công sự chắc chắn được chuẩn bị sẵn sàng và phải được ngụy trang kín đáo..
Hệ thống trận địa hàng rào, vật cản và mìn được bảo vệ và yểm trợ bằng hỏa lực pháo binh, và các phân đội bộ binh cùng với hỏa khí đi cùng, trong điều kiện giới hạn về tầm nhìn có thể được canh gác bởi những phân đội được giao nhiêm vụ canh gác thường xuyên.
Hệ thống chống lực lượng đổ bộ trong nước ở điều kiện thời bình thường có thể không được đặt sẵn, do điều kiện ngập mặn của nước và tình hình thủy văn có thể phá hủy, làm hỏng hoặc gây nguy hiểm cho các hoạt động thường xuyên. Đồng thời việc xây dựng, bảo dưỡng, bảo trì các công trình này đòi hỏi nhiều sức người và thời gian. Thông thường, công nghiệp quốc phòng sẽ chế tạo các loại vũ khí chống đổ bộ (các thùng mìn thông minh, các hệ thống vật cản bùng nhùng ….) được đóng gói trong các thùng containers kín, chống được sự tác động của nước biển và đặt ngầm, neo chặt dưới đáy biển, được quản lý bằng các sensors cảm biến thông báo tình trạng kỹ thuật.
Phân đội hỏa lực phòng thủ đảo ở Trường Sa.
Trong tình huống chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu khẩn cấp, các bộ khí tài này sẽ được khởi động trong thời gian ngắn. Đồng thời các bộ trang bị hàng rào vật cản chống đổ bộ thông thường cũng được chuẩn bị sẵn sàng và có chế độ bảo quản, trong điều kiện căng thẳng, có nguy cơ xung đột hoặc khả năng xâm lược, các khí tài trên sẽ được đưa vào sử dụng. Riêng hệ thống chống đổ bộ đường không và đường biển, các hệ thống hàng rào vật cản và trận địa mìn trên bờ trong mọi điều kiện thời bình hay thời chiến đều phải lắp đặt sẵn sàng..
Trong điều kiện phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ điện tử, truyền thông. Các loại khí tài, vũ khí gây nổ sẽ được lắp đặt các bộ phận kích nổ thông minh, trong điều kiện thời bình có thể sẽ là các bộ cảm biển duy trì năng lượng ở mức độ thấp, nhằm phát hiện đối tượng xâm nhập và quản lý trận địa. Khi chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu sẽ được kích hoạt, trở thành các trận địa mìn thông minh, có thể độc lập bảo vệ một khu vực lớn trên đảo hoặc toàn bộ đảo nhỏ.
Trận địa phòng ngự biển đảo thông thường có cấu trúc tương tự như các trận địa phòng ngự bờ biển khác, bao gồm trận địa của các thê đội phòng ngự, trận địa thê đội 1, trận địa thê đội 2. Tuyến phòng ngự thứ nhất, tuyến phòng ngự thứ 3… Do điều kiện thực tế xa với đất liền, khả năng yểm trợ hỏa lực hoặc lực lượng dự bị từ hậu phương không có. Do đó, các tuyến phòng ngự và các trận địa phòng ngự phải được xây dựng kiên cố vững chắc, có khả năng chịu đựng được những đòn tấn công với hỏa lực tập trung và mạnh hơn gấp nhiều lần.
Lính đảo Trường Sa tập luyện, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.
Hào giao thông, các hỏa điểm và các hầm trú ẩn phải đảm bảo chịu được hỏa lực của pháo hạm, tên lửa chống tăng – phá bê tông và vũ khí nhiệt áp. Các hỏa điểm phải đảm bảo sử dụng các loại vũ khí có uy lực lớn, (súng máy từ 7,62mm đến 20 mm, súng phóng lựu ( B-41 RPG -7, súng phóng lựu nhiệt áp RPO, các loại súng phóng lựu như B-10, RPG-9…). Kinh nghiệm chiến tranh bảo vệ biển đảo cho thấy, những loại khí tài đã lỗi thời như xe tăng T-34, SU–80, T-54 A,B khi được đưa vào phòng ngự, xe được hạ xuống hầm và có những thiết kế đặc thù cho phòng ngự, vẫn là các loại vũ khí nguy hiểm cho lực lượng đối phương.
Do yếu tố đặc thù của phòng ngự hải đảo, địch có thể sử dụng các loại vũ khí có tính hủy diệt lớn hoặc sát thương cao. Sẽ không loại trừ khả năng đối phương sử dụng bom, đạn hóa học, bom nhiệt áp có sức công phá lớn, bom bi, bom chùm hoặc đạn pháo đinh. Do đó, hệ thống hầm hào phòng ngự và trang bị quân nhân phải được đảm bảo chống được hoặc giảm thiểu tối đa tác nhân của loại vũ khí này. Đồng thời, các lực lượng chủ yếu, các trung tâm chỉ huy, điều hành tác chiến phải được đưa vào sâu trong đảo, trong các công trình vững chắc và có khả năng chống được vũ khí hóa học hoặc nhiệt áp, bom – tên lửa khoan xuyên có sức công phá lớn nhằm bảo toàn lực lượng.
Sơ đồ phản kích đánh địch đổ bộ đường biển.
Sơ đồ phân bổ lực lượng, sẵn sàng chiếm lĩnh khu vực phòng ngự trong tình huống địch đổ bộ có sử dụng vũ khí hủy diệt lớn.
Theo góc nhìn của các chuyên gia quân sự nước ngoài trên phương diện phòng thủ hải đảo, các đòn phản kích phải được giáng trả từ trong chiều sâu phòng ngự, lực lượng dự bị để phản kích phải chiếm tỷ lệ 7:11. Lực lượng phòng ngự tại chỗ chiếm tỷ lệ quân số là 2:11.
Các lực lượng cơ động mạnh ( thường là các đơn vị xe tăng – bộ binh cơ giới), được bố trí ở những hướng chủ yếu, có khả năng đổ bộ cao nhất. Lực lượng dự bị của Lữ đoàn (trung đoàn) được bố trí ở những hướng chủ yếu trên khoảng cách 10 – 15 km so với đường giao thông hào của tuyến 1, thê đội một. Tuyến triển khai đội hình chiến đấu thông thường được xác định là cách từ 4-6 km so với mép nước biển, các đòn phản kích được triển khai trong khoảng thời gian từ 30 -40 phút sau khi đối phương đổ bộ.
Trong khoảng thời gian đã nêu, lực lượng đổ bộ của đối phương, với tốc độ tấn công là 3 – 4 km/h, sẽ thọc sâu được khoảng từ 1,5 đến 3 km. Điều này cho phép lực lượng phòng ngự sử dụng nguyên tắc tác chiến của lực lượng cơ động, dồn địch vào những vùng lõm hỏa lực, vô hiệu hóa lực lượng đổ bộ bằng hỏa lực chính diện và bên sườn, đối phương khó sử dụng pháo hạm và không quân để yểm trợ tầm xa, sau đó tấn công phản kích tiêu diệt địch hoặc hất địch xuống biển.
Trong tình huống địa hình đảo nhỏ hẹp, các lực lượng cơ động mạnh sẽ nằm ở tuyến thứ hai, thê đội 1 của hệ thống phòng ngự, được phân tán và bố trí trong các hầm, công sự được xây dựng vững chắc và ngụy trang tốt. Khi tiến hành các hoạt động phản kích, các lực lượng (xe tăng, thiết giáp, bộ binh cơ giới cơ động mạnh) sẽ đột ngột từ nơi trú ẩn phản kích địch theo tình huống.
Địch nhiều khả năng sẽ dùng tàu đổ bộ đệm khí cỡ lớn tấn công chiếm đảo sau khi đã dùng hỏa lực bắn phá cấp tập hòng đè bẹp lực lượng phòng thủ.
Trong điều kiện tác chiến ở đảo lớn, địa hình cho phép thì các tiểu đoàn pháo binh được bố trí trận địa ở khoảng cách từ 4 – 8 km so với mép nước, pháo binh bờ biển ở khoảng cách từ 1 -2 km so với mép nước, các hệ thống pháo phản lực, tên lửa chiến trường ở khoảng cách từ 6 -12 km so với mép nước. Ở những đảo có diện tích nhỏ, các hệ thống pháo binh sẽ được bố trí trong các công sự vững chắc, tùy theo yêu cầu nhiệm vụ thực tế để bố trí trận địa. Thông thường tránh đưa các phương tiện hỏa lực lớn ra sát mép nước hoặc ở những khoảng cách không an toàn, dễ bị đối phương sử dụng hỏa lực của máy bay, tên lửa hoặc pháo binh đối phương công kích gây thiệt hại lớn.
Các trận địa pháo binh – tên lửa phải được xây dựng kiên cố, có khả năng bảo vệ cao và tối ưu hóa khả năng phát huy hỏa lực gần mép nước, nơi sẽ tập trung nhiều binh lực và phương tiện, khí tài đổ bộ của đối phương. Pháo binh - tên lửa chiến trường được bố trí trận địa hỏa lực nằm trong khu vực phòng ngự phía sau trận địa của tuyến 2. Pháo binh – hỏa khí đi cùng của tiểu đoàn bộ binh phòng ngự được bố trí trong trận địa phòng ngự của tiểu đoàn, các trang bị - hỏa khí đi cùng như (tổ hợp tên lửa chống tăng, súng cối các cỡ nòng, súng phóng lựu) được bố trí trong đội hình phòng ngự của đại đội, chính diện hoặc bên sườn.
Để quan sát, kiểm soát không gian mặt biển, các đảo hoặc quần đảo tổ chức các trạm quan sát đa khí tài, bao gồm: khí tài quan trắc thông thường (ống nhòm, camera kỹ thuật số..) khí tài quan sát ban đêm (ống nhòm hồng ngoại, camera hồng ngoại…), các đài radar trinh sát mặt biển. Với các đài radar hiện nay, có khả năng quan sát và phát hiện các hạm tàu trong khoảng cách đến 20 km. Đồng thời, trong điều kiện hiện đại hóa lực lượng phòng thủ bờ biển, hải đảo, còn có thể trang bị các đài sonar chống ngầm, nhằm mục đích chống đổ bộ bằng tàu ngầm hoặc các phương tiện cơ động ngầm khác.
Các xuồng đổ bộ tiếp cận bờ biển.
Xe thiết giáp vượt biển đổ bộ.
Sở chỉ huy tác chiến cấp tiểu đoàn được bố trí phía ngoài khu vực phòng thủ chính, bên sườn trái hoặc phải đội hình theo hướng đổ bộ chính của lực lượng đối phương. Các trạm quan sát khác cùng với sở chỉ huy đại đội và trung đội – tại các vị trí thuận lợi của khu vực phòng ngự đơn vị.
Các chuyên gia quân sự phương Tây khẳng định: Để bảo vệ đảo và quần đảo hiệu quả. Các hoạt động tác chiến chống đổ bộ phải được tiến hành ngay từ khi đối phương chuẩn bị cho hoạt động vận chuyển cơ động vào khu vực đổ bộ - bàn đạp tấn công. Có nghĩa là khi đối phương bắt đầu tập trung lực lượng và tổ chức đội hình các phương tiện đổ bộ. Để tiêu diệt lực lượng đổ bộ địch ở khu vực tập kết và hành lang vượt biển cập bãi đổ bộ, cần tấn công bằng các phương tiện chiến đầu đường không (không quân, không quân hải quân) và các chiến hạm tên lửa, tàu ngầm.
Các đơn vị phòng ngự trên đảo bắt đầu trận đánh với lực lượng đổ bộ, khi các phương tiện đổ bộ tiếp cận khu vực hỏa lực của pháo binh bờ biển. Hỏa lực pháo binh bờ biển bắn tập trung ngăn chặn địch trong vùng hỏa lực. Pháo các loại, các cỡ nòng của xe tăng, tên lửa, pháo binh, súng tự động tầm xa hỏa lực bắn thẳng xạ kích vào các phương tiện cơ động chở bộ binh mặt nước như các xe bọc thép, các xe tăng lội nước, các xuồng cao tốc, một phần hỏa lực pháo binh được sử dụng theo mệnh lệnh cấp trên xạ kích trực tiếp vào các tàu khinh hạm, các xuồng phóng tên lửa các các pháo hạm tiếp cận gần để yểm trợ hỏa lực. Hỏa lực bắn thẳng của bộ binh bắt đầu khi các phương tiện vận tải đối phương tiếp cận khu vực 400 m so với mép chiến hào, tuyến phòng ngự thứ I và tăng đến mức độ cực đại khi đối phương bắt đầu tiếp cận bãi đổ bộ và đổ quân...
Khu vực hỏa lực pháo binh trên bãi đổ bộ.
Để đổ bộ thành công, đối phương sẽ sử dụng hỏa lực rất mạnh ở tiền duyên nhằm dọn bãi đổ bộ, phá hủy hàng rào, vật cản và các trận địa mìn, đồng thời trong điều kiện thuận lợi về khí hậu và thời tiết, có thể sử dụng cả vũ khí hủy diệt như hóa học, nhiệt áp. Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự phương Tây, lực lượng phản kích từ tuyến phòng ngự thứ 2 hoặc thê đội dự bị khi phản kích sẽ cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng đồng thời sẵn sàng cho chiến đấu trong hành tiến trong môi trường nhiễm độc.
Trong điều kiện tác chiến hiện đại, có thể sử dụng các phương tiện bay như máy bay trực thăng mang súng máy hạng nặng hoặc rockets làm nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực. Trong trường hợp lực lượng không quân hải quân của đối phương mạnh, lực lượng phòng ngự không có các phương tiện bay, phải sử dụng hỏa lực pháo phản lực như BM-21, H-12 bắn dồn dập với mục đích mở đường tác chiến phản kích và giảm bớt nồng độ chất độc. Đồng thời ngăn chặn và chế áp lực lượng đối phương.
Với sự phát triển của các phương tiện mang (tàu ngầm, tàu tàng hình, máy bay tàng hình) đổ bộ đánh chiếm đảo (có diện tích không lớn – hoặc phòng thủ vững chắc) có thể được thực hiện bởi lực lượng đặc nhiệm lính thủy đánh bộ với phương tiện đổ bộ là tàu ngầm nguyên tử, các phương tiện đổ bộ ngầm và xuồng cao tốc. Tính khả thi của phương pháp này phụ thuộc vào lực lượng đồn trú bảo vệ đảo có duy trì được chế độ cảnh giới, sẵn sàng chiến đấu và khả năng phản ứng nhanh hay không.
Đổ bộ bằng phương tiện bơi ngầm dưới mặt nước.
Lực lượng người nhái đổ bộ.
Lực lượng đặc nhiệm đối phương có thể thực hiện toàn bộ nhiệm vụ đánh chiếm đảo, hoặc thực hiện một phần của trận đánh đổ bộ.
Để ngăn chặn khả năng đổ bộ bí mật, ngoài việc duy trì chế độ tuần tra canh gác và quan sát cảnh giới thường xuyên. Trong giai đoạn ngày nay, các nước tiên tiến thường áp dụng bổ sung các phương tiện hiện đại quản lý khu vực phòng thủ. Hàn quốc cũng đã chế tạo một thiết bị robor SGR-1 canh phòng và cảnh giới rất hiệu quả, đây thật sự cũng là một mô hình ứng dụng công nghệ hiện đại phòng ngự đảo. Trong điều kiện đơn giản hơn, cần có một hệ thống camera và cảm biến âm thanh, quang ảnh nhiệt hoặc hồng ngoại được lắp đặt cùng với các hệ thống báo động, hệ thống phòng ngự hàng rào vật cản trên toàn khu vực đường biên mép đảo nhằm nhanh chóng phát hiện mục tiêu tiềm nhập, triển khai lực lượng tiêu diệt.
Trường hợp địch tiến hành đổ bộ ban dêm, khi thời tiết xấu và tầm nhìn kém. Phương pháp tổ chức trận đánh cũng tương tự như tác chiến ban ngày, nhưng đồng thời phải tính đến yêu cầu phải chiếu sáng chiến trường, đặc biệt là hướng đổ bộ, các chủng loại đạn gây cháy, đạn pháo sáng phải được chuẩn bị kỹ càng và có thể khai hỏa chiếu sáng được ngay. Chiếu sáng và gây cháy trên chiến trường – khu vực đổ bộ sẽ làm mất đi ưu thế bí mật bất ngờ, đồng thời vô hiệu hóa các phương tiện nhìn đêm của đối phương, tạo điều kiện thuận lợi cho hỏa lực bắn thẳng xạ kích chính xác hơn.
Lực lượng cơ động từ thê đội dự bị lên phản kích vẫn là đòn đánh chủ lực ngăn chặn đối phương đổ bộ. Nhưng vai trò của lực lượng trinh sát, cảnh giới vô cùng quan trọng, cùng lúc phải quan sát, theo dõi và bảo vệ chắc chắn hai bên sườn trận địa tránh bị đánh vu hồi, tập hậu của lực lượng đặc nhiệm đổ bộ bí mật đường biển hoặc đường không. Đường cơ động phản kích của lực lượng chủ lực phải được đánh dấu rõ ràng bằng ký tín hiệu đặc thù.
Vũ khí, phương tiện phòng ngự hải đảo
Một số loại vũ khí, phương tiện bảo vệ đảo, bao gồm cả các phương tiện hiện đại, và tương đối hiện đại, hoặc đã được nâng cấp.
Robot SRG-1 Khí tài phòng ngự đảo, các mục tiêu quan trọng chống đột kích bí mật đường biển, đường không. Hệ thống này có thể được lắp đặt tại những điểm xung yếu, đồng thời kết nối với các phương tiện trinh sát khác như camera kỹ thuật số, camera hồng ngoại, các thiết bị cảm biến âm thanh nhằm nhanh chóng phát hiện đối tượng thâm nhập. Trong một số trường hợp đặc biệt, robots có thể khai hỏa diệt mục tiêu. .
Súng phóng lựu nhiệt áp RPO là loại vũ khí cá nhân sử dụng 1 lần có sức sát thương, phá hủy rất mạnh. Đắc biệt trong chiến đấu phòng ngự chống đổ bộ. Hai đầu đạn tên lửa nhiệt áp có khả năng phá hủy tất cả các loại phương tiện cơ động đổ bộ, từ xe tăng hạng nhẹ đến xuồng, phà, tàu đổ bộ chạy trên đệm khí đồng thời gây cháy toàn bộ phương tiện. Súng có thể được sử dụng để ngăn chặn các đợt tấn công ồ ạt của lực lượng bộ binh địch chỉ trong một phát bắn và gây tổn thất nặng nề về sinh lực đối phương.
Chống máy bay trực thăng PVM. Hiệu ứng nổ lõm, được lắp đặt bộ phận kích nổ bằng âm thanh, hồng ngoại các tần số , có khả năng phát hiện mục tiêu cách 1 km. Được sử dụng để chống đổ bộ bằng máy bay trực thăng hoặc các phương tiện đổ bộ đường không hạ cánh thẳng đứng. Sử dụng hiệu ứng nổ lõm và mảnh, các loại mìn này được cài đặt thủ công hoặc bằng máy phóng, nhằm tiêu diệt các máy bay bay treo, bay thấp hoặc hạ cánh trong vùng hỏa lực..
Mìn chống đổ bộ đường biển PMD-1M, được đặt dưới mực nước biển khu vực đổ bộ, mìn được kích nổ bằng va chạm hoặc do điều khiển. Sử dụng để chống các loại xe lội nước, xe tăng lội nước, xe bộ binh cơ giới lội nước. Mìn thường được cài đặt trong trường hợp có nguy cơ đổ bộ đường biển bằng các phương tiện cơ động lưỡng cư: xe tăng bơi, xe lội nước, xe thiết giáp lội nước. Có thể lắp đặt cơ chế điều khiển từ xa và tự hủy. .
Mìn Claymore, một loại mìn thông dụng dùng để chống lực lượng bộ binh, kích nổ có điều khiển. Phiên bản nâng cấp ngòi nổ có thể kích nổ từ xa hoặc làm mìn bẫy. Mìn được bố trí trong điều kiện chống bộ binh đổ bộ đường biển và đường không, có uy lực sát thương rất mạnh và độ an toàn sử dụng cao, thuận tiện trong tác chiến phòng ngự biển đảo..
Mìn bươm bướm PFM-1C, được phóng rải bằng các ống phóng mìn cơ động, dùng để chống bộ binh, lực lượng đổ bộ đường biển hoặc đường không, mìn có cơ chế tự hủy từ 1 đến 40h, tùy theo nhiệt độ môi trường, đây là loại vũ khí hữu hiệu để ngăn cản các cuộc tấn công ồ ạt với quân số đông, chiến sĩ phòng thủ có thể bắn một ống mìn và trong diện tích 40 x 40 m2 đối phương không thể vượt qua vùng đất dày đặc bom bươm bướm. Mìn sẽ tự hủy sau một thời gian nhất định.
Theo Trịnh Thái
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét