Phật mới bảo rõ-ràng căn-cội,
Rằng: "Mẹ ông gốc tội rất sâu.Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.Ta từng nghe nói lời tạc như vầy:
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ
Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung.
Mục-liên mới đặng lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả,
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng huệ-nhãn dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm.
La phẩm-vật đem dâng từ-mẫu,
Đặng đỡ lòng cực-khổ bấy lâu.
Thấy cơm, mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp giựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu!
Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-kiền-liên bi cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải-nàn.
Phật mới bảo rõ-ràng căn-cội,
Rằng: "Mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu.
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến Cửu-thiên
Cùng là các bậc Thần-kỳ
Tà, ma ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương
Cộng ba cõi sáu phương tu-tập,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mẹ người.
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu-tế ta toan giải nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn!"
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân cần thiết thi:
"Rằm tháng bảy là ngày tự-tứ
Mười phương tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm-sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh-sạch báu mầu
Đựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng
Chư Đại-đức mười phương thọ-thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thiên
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền
Đặng nhờ phước lực tiêu-khiên ác-nàn
Vì ngày ấy Thánh-tăng đầy đủ
Dầu ở đâu cũng tụ hội về.
Như người thiền-định sơn-khê
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành-nguyện thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ kinh-hành
Chẳng ham quyền-qúy ẩn danh lâm-tòng
Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh
Đạo-đức dày chánh-định chơn-tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát-cơm lục-hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Đặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời
Hiện-tiền phụ mẫu của ngươi
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền
Đó nhờ cũng đặng bá niên thọ-trường
Như cha mẹ bảy đời quá-vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn-tú hình-dung
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân!"
Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng
Phải tuân theo thể-thức sau nầy:
"Trước khi thọ-thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín-gia.
Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ
Định tâm-thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý định hành-thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dưng.
Khi thọ dụng, nên an vật-thực.
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung:
Chư tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ cùng bữa trưa".
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục-liên cùng Bồ-tát chư tăng
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn
Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ-quỉ được tan
Mục-liên bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia
Vu-lan-Bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không?"
Phật rằng: "Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo
Thiện-nam tử, tỳ-kheo nam nữ
Cùng Quốc-vương, Thái-tử, Đại-thần
Tam-công, tể-tướng, bá-quan
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất-thế tình thâm
Đến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật-đà hoan-hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh,
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường
Đặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất-thế đồng thì
Lìa nơi ngạ-qủy sanh về nhơn, thiên
Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn-sanh Phật-tử ân cần
Hạnh tu hiều-thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung-huyên an-hảo
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu-thảo ơn-thâm phải đền
Lễ cứu-tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng-dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp, thù ân
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu
Đệ-tử Phật, lo âu gìn-giữ
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn!"
Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn
Môn sanh tứ-chúng thảy đồng hỷ-hoan
Mục-liên với bốn ban Phật-tử
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành.
Nam-mô đại hiếu Mục kiền liên Bồ-tát!
PHẬT THUYẾT KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU ÂN
Một thuở nọ, Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra tới số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ-tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường.
Bây giờ, Phật mới lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành.
Đáo bán lộ, đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.
Ðức A Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ Phụ ba phương, bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: Trong các môn đồ,
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi, ta tỏ đuôi đầu:
Ðống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước thi hài còn đây
Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Ðức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo: A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng hoằng
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi, ta sẽ phân trần, khá nghe!
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường.
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng.
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn.
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau, sự khổ, khôn cùng tỏ phân
Khi sản xuất muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc, được vàng.
Thế Tôn lại bảo A Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin.
Ðiều thứ nhứt: giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề.
Thứ hai: sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.
Ðiều thứ ba: thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay.
Thứ tư: ăn đắng uống cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con.
Ðiều thứ năm: lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con.
Thứ sáu : bú sữa nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.
Ðiều thứ bảy: không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.
Thứ tám: chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền, mẹ lo.
Ðiều thứ chín: miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam, bị cầm.
Ðiều thứ mười: chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.
Phật lại bảo: A Nan nên biết,
Trong chúng-sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân.
Chẳng kính mến quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mạc giao
Vì những người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy.
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan.
Con còn nhỏ phải lo săn sóc
Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ dáy, mẹ không ngại gì.
Nằm phía ướt, con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng.
Cho đi học mở thông trí huệ
Dựng vợ chồng có thế làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang.
Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ, lễ nghi chẳng tường.
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên.
Vì lỗ mãng tánh quen càn bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn, lại càng hành hung.
Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ
Nết tập quen, làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân, tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công.
Vì ràng buộc đồn công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quên xứ, quên sở, lâu năm không về.
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.
Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù rạc phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng.
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc âu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn vương.
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du.
Cứ mải miết với đồng bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng, bỏ liều chẳng thương.
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai, dễ khiến hơn là nam nhi.
Song đến lúc, tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhàn.
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay!
Nếu cha mẹ la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay.
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Ðập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân.
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
Bọn con quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ, không hơn người mù.
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu.
Trước Phật tiền, ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Phật bèn dùng phạm thanh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lắng nghe:
Ân cha, nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp Tu Di núi chẳng sai
Ðến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa.
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.
Ví có người vì công dưỡng dục
Tự treo mình, cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan, thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràn khó nỗi cấm ngăn
Ðồng thanh bạch Phật lời rằng:
Làm sao trả đặng ân thâm song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử:
Phải lắng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải nên biên chép Kinh đây lưu truyền.
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.
Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh Ðộ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.
Mình cần phải tụng Kinh lạy Phật
Pháp Tam Quy, bậc nhất giới trai
Những lời ta dạy hôm nay
Các ngươi nhớ lấy từ đây phụng hành.
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay.
Sau khi chết, bị đày vào ngục
Ngũ Vô Gián cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.
Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội cang hành hình.
Vì bất hiếu nên mình thọ khổ
Lột thịt ra máu đổ tràn lan
Lại có chó sắt cắn gan
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân.
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt phao.
Móc bằng sắt thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương.
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi lê.
Nếu mà đặng chết liền đã đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.
Sự hành phạt tại A Tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên.
Nhứt là phải Kinh nầy in chép
Truyền bá ra cho khắp Ðông Tây
Như ai chép một quyển nầy
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.
Nếu in được ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền.
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cõi thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho kéo lưỡi trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên.
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phanh thây
Hoặc như lưỡi trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai.
Dẫu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Đến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên.
Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh
Ngày sau truyền bá chúng-sanh
Dễ bề phúng tụng kiên tinh tu hành
Phật mới bảo: A Nan nên biết
Quyển Kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên "BÁO HIẾU MẸ CHA"
Cùng là "ÂN TRỌNG" thật là chơn kinh.
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Ðặng đời sau, y giáo phụng hành.
Sau khi Phật dạy đành rành
Bốn hàng Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn tuyền
Ðồng nhau trở lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ, rồi liền lui ra.
HT Thích Huệ Duyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét