Đức Phật Thích Ca vì lòng từ bi vô bờ vô bến đối với chúng sanh mà xuất gia tìm đạo, bởi thế cho nên sau khi giác ngộ, là Ngài nghĩ ngay đến sứ mạng cao cả, đó là: "Thay thế chư Phật đời trước mà tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người".
Sứ mạng nầy Ngài biết trước không phải là một việc dễ dàng vì cái đạo của Ngài thì cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn cơ lại không đều, và từ muôn kiếp đã lặn hụp trong si mê lầm lạc do đó khó có thể nhận hiểu ngay ý nghĩa cao thâm của giáo lý Ngài. Chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp đã quen sống trong bóng tối của si mê do đó khi Ngài đem ánh sáng của trí tuệ đến cho họ thì chắc chắn họ sẽ bị chóang mắt. Nhưng Ngài hiểu rằng mặc dù sống trong tăm tối, nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh, như hoa sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn luôn luôn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Đó là ý chí và lòng cương quyết của Ngài phải cố gắng thực hiện để hoàn thành trách nhiệm của mình. Với trí tuệ sáng suốt và lòng từ bi vô bờ bến cộng với tinh thần bình đẳng và một ý chí dủng mãnh, Đức Phật đã hoàn thành sứ mạng của mình một cách viên mãn.
Tạo lập Tăng đoàn
Việc đầu tiên mà Đức Phật muốn thực hiện là phải hóa độ và kết nạp đệ tử. Những người đệ tử đầu tiên này phải có kiến thức để thấu hiểu giáo lý của Ngài rồi sau đó mới nới rộng đến tất cả mọi người. Ngài thiết lập Tỳ kheo (nam phái) trước rồi Tỳ kheo ni (nữ phái) sau.
Việc làm đầu tiên của Ngài là muốn đem giáo lý ấy truyền cho hai vị thiền sư Alara Kalama và Uddaka Ramaputta đã dạy cho Ngài lúc ban đầu, nhưng tiếc thay hai ông nầy đều đã qua đời cách đây không lâu.
Ngài liền tìm đến vườn Lộc uyển (Deer Park) để thuyết pháp cho năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia. Đó là các ông: Kiều Trần Như, Ác Bê, Thập Lực, Ma Ha Nam, và Bạc Đề.
Bài thuyết pháp đầu tiên của Ngài nói về Tứ Diệu Đế mà đầu đề bài kinh là Dhamacakkappavattana, có nghĩa là "Chuyển bánh xe Pháp". Trong bài kinh nầy, Đức Phật mở đầu bằng lời khuyên các tu sĩ không nên theo hai cực đoan: cực đoan thứ nhất là đam
mê thú vui nhục dục thế gian, thực ra chỉ là những cái vui tầm thường, nhất thời và ngăn cản mọi tiến bộ tâm linh. Còn cực đoan thứ hai là khổ hạnh, ép xác chỉ làm mệt mỏi tinh thần và mê mờ trí tuệ. Vì thế cả hai đều có hại và vô ích. Con đường mà Đức Phật muốn nói ở đây chính là con đường trung đạo dẫn tới cuộc sống thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt và sau cùng sẽ được giải thoát. Con đường trung đạo nầy chính là Bát Chánh Đạo.
Bát Chánh Đạo bao gồm:
1) Chánh kiến: Thấy biết chân chánh.
2) Chánh tư duy: Suy nghĩ chân chánh.
3) Chánh ngữ: Nói năng chân chánh, không nói dối, không nói ác, không nói chia rẽ và không nói lời vô nghĩa.
4) Chánh nghiệp: Hành động chân chánh: không được sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục và không rượu chè.
5) Chánh mạng: Sinh sống bằng nghề lương thiện.
6) Chánh tinh tấn: Siêng năng, cần mẫn làm lành tránh dữ.
7) Cháh niệm: Nghĩ nhớ những việc chân chính: không nghĩ nhớ điều tà bậy, ác xấu, mê lầm.
8) Chánh định: Tập trung tư tưởng chân chánh. Đừng để tư tưởng tán loạn để chạy theo dục vọng.
Sau đó, Đức Phật thuyết pháp cho họ bài kệ thứ hai với tựa đề "Anttlakkana Sutta". Đây là nói về thuyết vô ngã (không có cái Ta). Năm vị tu sĩ ở vườn Lộc Uyển được giác ngộ và không bao lâu đều trở thành A la Hán và họ là năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Sự kiện lịch sử này diễn ra vào một ngày trăng rằm vừa đúng hai tháng sau ngày Đức Phật thành đạo.
Gần Benares, có người con trai của nhà triệu phú tên là Da Xá (Yasa). Mặc dầu sống trong nhung lụa nhưng ông ta lại chán cảnh sống thế gian tầm thường vô vị. Ông tìm đến Đức Phật và được Ngài thuyết giảng về hạnh Bố thí, về nếp sống đạo đức, về các cõi trời, về nguy hại của dục lạc thế gian và sau cùng là về hạnh phúc của nếp sống Thánh thiện, lòng từ bi hỷ xả và không tham cầu ái dục. Kế đến, Đức Phật thuyết giảng cho ông về chân lý Tứ Diệu Đế để tận diệt mọi nỗi khổ đau ngõ hầu đạt đến Niết bàn. Đức Phật đã thuyết pháp liên tiếp trong 3 tháng cho tất cả mọi người trong gia đình của Da Xá. Toàn bộ gia đình 55 người đều qui y theo Phật.
Bấy giờ, Đức Phật có sáu mươi đệ tử đều là A La Hán, Ngài dạy họ phải giữ đúng giới luật và sau đó thọ ký cho họ đi truyền đạo khắp nơi.
Phật dạy:"Hỡi các Tỳ kheo, Ta đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc của thế gian và xuất thế gian. Các người cũng vậy, cũng đã được giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian và xuất thế gian".
Tỳ kheo (Bhikkhu) có nghĩa là "Người Khất thực". Đức Phật lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, với 60 người học trò vừa chứng được quả vị A la hán, đã tổ chức thành một tăng đoàn những tu sĩ khuất thực. Họ không nhà ở cố định, không có của cải vật chất nào khác ngoài tấm áo vàng che thân và bình bát để xin ăn. Họ thuyết giảng về đạo lý cứu khổ và cuộc sống thánh hạnh bằng cách tự mình nêu gương sáng về cuộc sống đó. Họ chỉ có hai điều là lòng Từ Bi và Trí Tuệ. Nhưng với hai thứ vũ khí nầy, họ đã chinh phục biết bao con tim và khối óc trên đường hành đạo.
Sau khi chia tay với những đệ tử đầu tiên nầy, Đức Phật đi về phía Nam gần vùng Uruvela. Nơi đây có ba vị tu khổ hạnh là ba anh em ông Ma-ha Ca-Diếp (Uruvela Kassapa), Nadi Kassapa và Gaya Kassapa. Ông Ca-Diếp thờ thần lửa và tự cho mình đã chứng quả A la hán. Ba anh em ông ta đều là những đạo sĩ có danh vọng lớn ở xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) nầy. Đức Phật đến gặp ông lần đầu tiên và xin được phép ngủ qua đêm. Ông nầy có thờ một con rắn thiên rất độc. Ông Ca-Diếp tưởng rằng Đức Phật thế nào củng bị con rắn thiên nầy cắn chết, nào ngờ chính con rắn lại bị Đức Phật hàng phục bằng sức thần thông của Ngài. Cả ba anh em ông Ca Diếp hết sức ngạc nhiên và họ đem toàn thể 500 đệ tử xin qui y theo Phật.
Gần thành Vương Xá (Rajagaha), tại Upatisa có một thanh niên rất thông minh tên là Xá Lợi Phất (Sariputta). Gia đình ông thuộc loại giàu có và danh tiếng nhất làng. Tuy sống trong giàu sang quyền quý, nhưng ông cảm thấy cuộc sống trống rỗng và vô vị. Ông có người bạn thân là Mục Kiền Liên (Moggalana) ở vùng Kokita thường xuyên đi khắp nơi để tìm thầy học đạo. Nghe danh Đức Phật đang thuyết pháp tại tu viện Veluvana, hai vị liền tìm vào yết kiến. Đức Phật thâu nhận hai ông vào tăng đoàn với câu nói đơn giản:"Etha Bhikkhave!" (Hãy đến đây! Các Tỳ Kheo). Mười lăm ngày sau đó, Xá Lợi Phất chứng quả A la hán và Mục Kiền Liên thì chứng sau một tuần. Đức Phật triệu tập Tăng chúng lại và tuyên bố hai ngài là hai vị thượng thủ của Tăng đoàn.
Sau đó Đức Phật về lại thành Ca-tỳ-la-vệ để thăm lại phụ vương và gia đình. Mặc dầu Ngài chỉ ở lại có bảy ngày, nhưng Ngài đã cảm hóa tất cả những người trong dòng họ Thích, và ai ai cũng muốn xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan Đà, A Nan Da, A nâu Lâu Đà, La hầu La (con của Phật). Khi về thăm quê hương và gia đình xong, Đức Phật cùng chư đệ tử lại tiếp tục đi truyền đạo.
Mặc dù Đức Phật đã cảm hóa cả gia đình để họ noi gương Ngài mà xuất gia, tu học, để rồi được giải thoát cũng như Ngài, nhưng lúc bây giờ trong tăng đoàn của Ngài chưa hề có ni cô, bởi vì Ngài nghĩ rằng thu nhập ni cô có thể tạo ra sự hiểu lầm cho chúng sanh vì con gái họ hơặc vợ họ một khi đã quy y theo Ngài thì gia đình họ có thể tạo nên sự bất ổn và dĩ nhiên họ sẽ gây rắc rối cho tăng đoàn, cho dù Ngài lúc nào cũng quan niệm và chủ trương nam nữ bình đẳng. Hiểu rõ tâm trạng đó, bà kế mẫu Ma-Ha-Ba-Xa-Ba kết hợp một nhóm mệnh phụ phu nhân khoảng 50 người trong đó có cả Công chúa Da Du Đà La. Bà yêu cầu mọi người cạo đầu, từ bỏ những áo quần cao sang lòe loẹt, vứt bỏ hết những nữ trang và thay vào đó bằng những chiếc áo cà sa. Họ đi bộ từ kinh thành Ca-tỳ-la-vệ đến chỗ Đức Phật đang truyền đạo (Versali), đoạn đường dài trên trăm dặm với thiện tâm được Phật thâu nhập vào Tăng đoàn. Đoàn người đi tới đâu thì khất thực tới đó và cuộc hành trình đầy thử thách nầy của họ phải mất 15 ngày mới đến được Versali. Khi họ đến nơi, chính Tôn giả A Nan không khỏi bàng hoàng xúc động khi thấy hai bàn chân của họ đều sưng lên và chảy máu trông rất thảm thiết. Đức Phật đưa ra 8 điều kiện trước khi cho phép họ gia nhập Tăng đoàn và tất cả đều chấp nhận 8 điều kiện của Đức Chí Tôn. Làm sao Đức Phật có thể chối từ lời thỉnh cầu của họ cho được bởi vì họ đã chứng minh cho Ngài thấy là họ, cũng như Ngài khi xưa, có thể lìa xa cung vàng điện ngọc, giàu sang phú quý, để chấp nhận một cuộc sống đơn giản, thanh nhàn, có cơ hội học hỏi từ Đức Chí Tôn và tìm đường giải thoát cho bản thân họ. Đây là những ni cô đầu tiên trong tăng đoàn của Đức Phật.
Mặc dầu chấp nhận như vậy, nhưng Đức Phật vẫn than thở với Đại đức A Nan rằng:"Chánh pháp của Ta có thể duy trì một ngàn năm, nhưng vì phụ nữ được phép xuất gia, cuộc sống Thánh của các đệ tử Ta sẽ không duy trì lâu dài và từ nay Chánh pháp cao cả của Ta chỉ còn tồn tại 500 năm nữa mà thôi".
Có thể nói Đức Phật là vị giáo chủ đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã cho thành lập một Ni đoàn với đầy đủ giới luật và uy nghi.
Riêng Công chúa Da Du Đà La (đồng tuổi với Đức Phật) xuất gia không bao lâu thì chứng được quả A la hán và bà ta là người giỏi phép thần thông nhất trong giới Tỳ kheo ni. Công chúa nhập diệt năm 78 tuổi.
Còn La Hầu La (con trai Phật) thì được giao cho ngài Xá Lợi Phất trực tiếp dạy dỗ. Chính Đức Phật đích thân giảng cho La Hầu La kinh Ambalatthika Rahulovada Sutta, trong đó Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của tánh trung trực, của sự phản tỉnh để diệt trừ mọi ý niệm, lời nói và hành vi bất thiện, bất chánh. Sau khi nghe kinh Cula Rahulavada, ngài La Hầu La chứng được quả A-La-Hán. Ngài qua đời trước Đức Phật.
Tôn giả A Nan là anh em cô cậu với Đức Phật. Ông là con của Amitodana, em vua Tịnh Phạn. Vì ngày ông sinh ra đem lại niềm hoan hỷ nên được đặt tên là Khánh Hỷ (A Nan). A Nan xuất gia theo Phật lúc còn trẻ cùng với bảy vị vương tử khác và ông là người luôn luôn ở bên cạnh Đức Phật trong suốt 25 năm trời cho đến khi Đức Phật nhập diệt. Đức Phật tán thán ông là người học rộng uyên bác, có trí nhớ tốt, tính kiên định, săn sóc chu đáo và ứng xử tốt. Ông là người duy nhất có thể nhớ tất cả 84,000 bài kinh mà trước đây Đức Phật đã thuyết giảng. Mãi một thời gian lâu sau khi Đức Phật nhập diệt thì ông mới chứng được quả A la hán. Ngài nhập diệt vào năm 120 tuổi.
Một thời gian sau, khi nghe tin vua Tịnh Phạn bị đau nặng sắp băng hà, Đức Phật vội vã về thăm cha lần cuối. Thấy phụ vương buồn rầu trên giường bệnh, Ngài giảng giải về lẽ vô thường, nguồn căn của nổi khổ, ý nghĩa chữ không, và luật vô ngã cho vua cha nghe. Nghe xong, nhà vua liền dứt hết phiền não, gương mặt bổng vui tươi, cất tiếng niệm Phật A Di Đà rồi băng hà một cách êm ái.
An cư Kiết hạ và những tịnh xá
Ở Ấn Độ thì mùa mưa thường xảy ra giữa tháng 7 và tháng 11. Trong khoảng thời gian nầy Đức Phật không đi thuyết pháp từ nơi nầy đền nơi khác mà Ngài cùng chư Tăng tề tựu trong các tu viện để thuyết pháp và tham thiền. Thời gian nầy được gọi là mùa an cư kiết hạ. Đây chính là thời gian mà chư Tăng có cơ hội học hỏi từ Đức Chí Tôn trong suốt 49 năm hành đạo của Ngài. Bao nhiêu bộ kinh hay nhất đã được giảng dạy trong lúc nầy. Khi mùa mưa dứt thì chính Đức Phật cùng tất cả chư Tăng lên đường đi khắp mọi nơi trong nước Ấn độ và Tây Tạng để hoằng dương đạo pháp và họ chỉ trở lại đây vào mùa mưa năm tới mà thôi.
1) Tịnh xá Kỳ Viên (Jatavana):
Trưởng giả Cấp Cô Độc (Anàthapindika) tên thật là Tu Đạt Đa là đại thần của vua Ba-Tư-Nặc và là vị thí chủ lớn nhất ủng hộ Đức Phật và Tăng chúng. Ông là một người trí tuệ sáng suốt, học hành cao siêu, nhà cửa giàu sang, lòng dạ nhơn đức, thường hay cứu giúp kẻ nghèo hèn cơ khổ, kẻ mồ côi mồ cút nên ai cũng kính mến và ngợi khen mà đặt cho ông danh hiệu là “Cấp Cô Độc”. Truyện kể rằng, vì quá quý mến Đức Phật, ông bèn bạch Phật rằng:”Xin Đức Thế Tôn mở lòng từ bi, dời gót sen đến nước Xá Vệ là chỗ xứ sở của con đặng nhờ Ngài truyền pháp chơn chánh để mà dìu dắt chúng sanh ra khỏi đường mê lối vọng.
Xin Ngài chuẩn lời thỉnh thì con trở về lập nhà tịnh xá liền”.Phật nhận lời và sai ông Xá Lợi Phất đi trước với ông Tu Đạt Đa đến nước Xá Vệ mà lựa một chỗ đất cao ráo để cất nhà Tịnh xá. Hai ông đi tìm khắp nơi mà chưa được chỗ nào xứng đáng. Sau cùng họ gặp được một miếng đất rộng rãi, cao ráo và mát mẻ, có cây cổ thọ, có suối cam tuyền, cảnh trí thanh tịch, phong quang đẹp đẻ, đáng là một chỗ danh thắng dà lam. Ông Tu Đạt Đa hỏi thăm mới biết miếng đất ấy là vườn của Thái tử Kỳ Đà (Jeta), nên ông đến để bày tỏ lòng sở nguyện của mình. Thái tử Kỳ Đà trả lời rằng:”Như khanh muốn mua vườn của ta thì về chở vàng đến lót khắp cả trên mặt đất, rồi ta sẽ bán cho”. Ông Tu Đạt Đa nghe nói như vậy thì hết sức vui mừng, tức thì trở về sai người chở vàng đến mà trải lót trong nữa ngày thì đầy, chỉ còn mấy chỗ có cây choán, thì không thể trải được mà thôi.
Thấy ông đang tư lự suy nghĩ thì Thái tử Kỳ Đà bèn hỏi:”Nếu khanh thấy giá quá cao thì thôi, chớ ta không ép. Vì muốn chìu lòng khanh, ta mới hứa bán, chớ ta là con vua thì đâu có cần tiền mà phải bán vườn”.Ông bèn tâu:”Tâu Điện Hạ! Chẳng phải tôi có lòng nghĩ sự mắc rẽ, mà tôi đang suy tính không biết sai người về lấy vàng trong cái kho nào nữa mà chở đến trải cho đầy những chỗ đất chưa lót vàng đó, chớ không phải tôi tiếc của đâu! Cúi xin Điện Hạ hoan h.Thái tử nghe nói thì tự nghĩ :”Thật rất ít người trọng đạo mà khinh tài như ông nầy; vì phần nhiều trong nhân gian ai ai cũng muốn tiền bạc sung túc để tiêu xài cho sung sướng, chớ ai lại đem của ra mà mong cầu lấy phước quả về sau như ông nầy”. Thái tử bèn nói với ông Tu Đạt Đa:”Khanh đã có lòng tác phước, ta há không dạ làm lành! Thôi! Bây giờ nếu chỗ đất nào đã trải vàng rồi thì thuộc về phần của khanh, còn mấy chỗ có trồng cây mà không thể tri vàng được tức là của ta, thì ta cũng nguyện dâng cúng luôn cho Phật”. Từ đó công viên có tên là : ” Cấp cô độc viên Kỳ đà thụ” hay Tịnh xá Kỳ Viên.
Đức Phật đã giảng nhiều kinh và lưu lại 19 mùa mưa tại Tịnh xá nầy.Khi thuyết pháp cho ông Trưởng giả Cấp Cô Độc về hạnh Bố thí của người Phật tử tại gia thì Đức Phật dạy rằng:”Sự cúng dường cho Phật cùng chư Tăng là công đức rất lớn. Nhưng công đức lớn hơn là phải quy y và thọ trì giới. Nhưng công đức lớn nhất là người Phật tử tại gia cần phải phát triển trí tuệ để thấy được chân tướng của sự vật và hiểu được tánh vô thường vô ngã của sự vật để được giải thoát, tự tại”.Khi ông Cấp Cô Độc lâm bịnh nặng, ông mời Tôn giả Xá lợi Phất đến giảng kinh tại nhà. Sau đó, ông qua đời và sanh lên cõi Trời Đầu Suất (Tushita).2) Tịnh xá Rajakarama: Cũng tại kinh thành Savathi của xứ Kosala nầy, ngoài Trưởng giả Cấp Cô Độc thì vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) cũng là một thí chủ lớn của Đức Phật cùng chư Tăng. Để tỏ lòng kính mến Đức Phật, nhà vua cho xây tu viện Rajakarama để cúng dường cho Phật trong mùa an cư kiết hạ. Trong cuộc chiến tranh giữa hai nước Kosala và Ma Kiệt Đà mà nhà vua của nước Ma Kiệt Đ là A Xà Thế cũng chính là cháu của nhà vua Ba Tư Nặc. Khi nghe tin vua Ba Tư Nặc thua trận, Đức Phật dạy rằng:
“Thắng trận sinh thù oán
Bại trận nếm khổ đau
Ai bỏ thắng bỏ bại
Tịch tịnh hưởng an lạc”.
3) Tịnh xá Pubbarama:
Trong kinh thành Savathi, còn có nữ thí chủ tên là Visakha. Bà xuất thân trong gia đình triệu phú và lấy chồng cũng là triệu phú. Khi bà lên 7 tuổi thì bà may mắn gặp được Đức Phật tại nơi sinh quán của bà, từ đó bà rất kính phục Đức Phật. Biết Đức Phật thường thuyết giảng tại kinh thành Savathi, bà nguyện xây Tịnh xá Pubbarama để cúng dường cho Phật. Chính Đức Phật cùng chư Tăng đả trải qua 6 mùa kiết hạ tại Tịnh xá nầy. Bà Visakha là nữ thí chủ lớn nhất của Đức Phật và Tăng chúng cũng như ông Trưởng giả Cấp Cô Độc là nam thí chủ lớn nhất.
4) Tịnh xá Trúc Lâm:
Vua Tân Bà Xa La (Bimbisara) của nước Ma kiệt Đà, có kinh đô là thành Vương Xá, từng gặp Đức Phật khi Ngài mới xuất gia và yêu cầu Đức Phật trở lại thăm vua sau khi Phật thành đạo. Khi Đức Phật đến, nhà vua cho xây cất Tịnh xá Trúc Lâm để cúng dường cho Đức Phật. Đức Phật đã trải qua 6 mùa an cư kiết hạ tại nơi đây. Bà vợ thứ của vua là Khema sau nầy cũng xuất gia cùng bà kế mẫu của Phật để lãnh đạo Ni chúng. Còn con vua Tân Bà Xa La là A Xà Thế (Ajatasattu) sau nầy cướp ngôi và giết vua cha. Đó là do nghiệp quá khứ của nhà vua quá nặng nề, nhưng nhờ công đức mà ông đã tạo dựng nhà vua vẫn được sanh lên cõi trời Lummaharajika với cái tên là thiên chủ Janavasabba. Cũng nên nói thêm là vua A Xà Thế sau khi cùng Đề Bà Đạt Ma (Devadatta) âm mưu giết Phật không thành, biết ăn năn hối lỗi, xin Phật cho quy y và trở thành Phật tử tại gia hàng đầu của Đức Phật. Nhưng bởi do nghiệp quá khứ nặng nề, cho nên đến lượt ông, ông cũng bị con ông giết và cướp ngôi.
5) Tịnh xá vườn xoài:
Kỹ nữ nổi danh tài sắc Ambapali của thành phố Versali là người mà một thời là ái thiếp của vua Tân Bà Xa la của xứ Ma Kiệt Đà. Ambapali sinh cho vua Tân Bà Xa la một người con. Người con nầy được sinh ra từ những đam mê trụy lạc của một quân vương và một kỹ nữ. Nhưng, đó sẽ là một đóa sen từ bùn lầy tanh hôi mà vươn lên với hương sắc thuần tịnh. Họ đặt tên cho đứa bé là Vimala, có nghĩa là không ô nhiễm, hay sẽ dứt sạch ô nhiễm. Quả nhiên, về sau Vimala xuất gia theo Phật rồi chứng đắc quả A La Hán. Trên đường đến Câu Thi Na trước khi Đức Phật nhập diệt thì Ngài có dừng lại Vesali và nghĩ tại vườn xoài của Ambapali. Được tin, Ambapali đến chào Đức Phật và trân trọng mời Đức Phật cùng chư Tăng ở lại dùng tiệc trai. Sau đó bà kính tặng Đức Phật và chúng Tăng vườn xoài to lớn của bà để làm Tịnh xá. Sau nầy, Ambapali cũng xuất gia và chứng quả A la Hán.
Pháp nạn
Mặc dù Phật giáo dựa trên căn bản từ bi và trí tuệ, nhưng trong suốt cuộc đời hành đạo, Đức Phật cũng gặp biết bao nhiêu điều cay đắng phát sinh từ lòng đố kỵ của ngoại đạo, tà giáo và lòng ganh ghét của con người.
1) Âm mưu hại Phật của Đề Bà Đạt Đa:
Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) là con vua Suppabuddha và hoàng hậu Pamita mà Pamita là bà cô của Đức Phật. Ông cũng xuất gia theo Phật cùng một lượt với tôn giả A Nan và những thanh niên khác của giòng họ Thích Ca. Mặc dầu đi tu, nhưng ông ta không chứng được quả vị nào. Ông chỉ giỏi về một số phép thần thông mà thôi và được vua A Xa Thế (Ajattasattu) của xứ Ma Kiệt Đà ủng hộ. Mặc dù lối sống hư hỏng, tin theo tà kiến và tà hạnh, ông ta vẫn được một số khá đông người tán thành và phục tùng. Khi Đức Phật về già thì ông yêu cầu Phật trao quyền lãnh đạo Tăng già cho ông, nhưng Đức Phật kiên quyết không chấp nhận vì biết ông là người không đủ tư cách.
Quyết định của Đức Phật làm cho ông hết sức căm hận. Ông cùng với vua A Xà Thế âm mưu hại Phật. Họ thuê những tay xạ thủ để thủ tiêu Phật, nhưng tất cả đều bị Phật cảm giáo và trở thành đệ tử của Ngài. Thấy kế nầy không thành, một ngày kia khi thấy Đức Phật đang đi dọc theo bờ núi Linh Thứu (Gijjhakuta) thì Đề Bà Đạt Đa đẩy xuống một tảng đá lớn từ trên đỉnh núi để giết Phật. May thay tảng đá nầy lăn đụng vào một tảng đá khác và bị vở nát vì thế Đức Phật chỉ bị xây xát và chảy máu ở chân mà thôi. Đề Bà Đạt Đa chưa chịu thua nên một ngày kia ông cho một con voi điên uống thật nhiều rượu, rồi xua voi húc Phật. Khi con voi chạy đến gần tới Phật thì bỗng nhiên đứng lại và bị Phật cảm hóa. Thấy bao kế hoạch hại Phật đều thất bại, ông bèn nuôi một âm mưu khác, xảo quyệt hơn, là kết hợp với một số Tỳ kheo xấu như Kokàlika để cố tình chia rẽ tăng đoàn.
Ông đề nghị với Đức Phật 5 điều luật mới như sau:
1. Tăng sĩ phải sống suốt đời ở trong rừng.
2. Chỉ được khất thực để ăn.
3. Chỉ được mặc áo làm bằng giẻ rách lượm ở nghĩa địa.
4. Chỉ được sống dưới gốc cây.
5. Suốt đời không được ăn thịt cá.
Đức Phật chỉ trả lời là tùy ý Tăng sĩ chứ Ngài không ép buộc họ. Ông lợi dụng sự từ chối của Phật để lôi kéo theo một số tăng sĩ trẻ, thiếu học thức và không có căn bản giáo lý đi theo mình đến Gayasina. Đức Phật chỉ thị hai vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đi theo và thuyết pháp để dẫn họ về với chánh pháp.
Sau đó, Đề Bà Đạt Đa mặc bệnh nan y, nhưng trước khi chết ông ăn năn hối lỗi và tỏ ý muốn gặp Đức Phật. Nhưng vì nghiệp ác quá nặng cho nên ông chết mà không gặp được Phật và phải đọa vào địa ngục, chịu khổ bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp.
Khi nói về Đề Bà Đạt Đa, Đức Phật dạy rằng:”Vì ông ta bị chinh phục bởi các ác pháp, cho nên phải đọa địa ngục, tức là bị chinh phục bởi lợi dưỡng, danh vọng, dục vọng xấu và tà kiến”.
2) Tướng cướp Angulimala:
Tại xứ Kosala, có một tướng cướp khét tiếng hung ác tên là Angulimala. Cha của ông vốn là một quan chức trong triều vua xứ Kosala. Thủa thiếu niên, ông học rất giỏi và rất được các bạn cùng lớp thương yêu. Trong lớp học của ông có vài người ghen tỵ ông nên họ vu cáo với thầy giáo. Vị thầy nầy bắt đầu thù ghét và muốn giết ông bằng cách bắt ông trả học phí bằng 1000 ngón tay phải của con người. Ông rất khổ tâm nhưng phải vâng lời thầy. Ông vào trong rừng Jalini ở Kosala và bắt đầu giết người để có đủ số ngón tay cần thiết. Ban đầu, ông treo các ngón tay người trên cây, nhưng vì các ngón tay bị quạ mổ ăn, cho nên ông xâu ngón tay người lại thành vòng để đeo nơi cổ. Khi ông đã thu thập được 999 ngón thì Đức Phật xuất hiện. Ông rất mừng vì sắp đủ số ngón tay cần thiết để nộp cho thầy giáo ác độc. Thấy Đức Phật, ông liền rút gươm và chạy đuổi theo Phật. Vì Phật dùng phép thần thông nên ông càng đuổi thì càng không bắt kịp được Phật, mặc dầu Phật vẫn đi khoan thai từ từ.
Cuối cùng, mồ hôi dầm dề và mệt lã, ông dừng lại và gọi :”Này Tu sĩ, hãy dừng chân”. Đức Phật nói từ tốn:”Mặc dầu ta đang đi, nhưng ta đã dừng chân. Còn nhà ngươi đã dừng chân hay chưa?”. Ông không hiểu ý của Phật bởi vì Đức phật đang đi mà lại nói đã dừng chân. Còn ông thì đã dừng chân mà Phật bảo là hãy dừng chân. Thấy ông thắc mắc, Phật dạy:“Đúng là ta đã dừng mãi mãi bởi vì Ta không bao giờ ta dùng bạo lực đối với chúng sinh. Còn nhà ngươi, hãy dừng tay chớ giết hại đồng loại. Vì vậy mà Ta nói rằng, Ta đã dừng và bảo ngươi cũng hãy dừng tay”.
Nghiệp thiện ngày xưa tác động vào tư tưởng của ông khiến ông vứt gươm xuống đất, quỳ xuống và xin quy y theo Phật. Phật chỉ nói một câu đơn giản:”Ehi Bikkhu” (Hãy đến! Tỳ kheo).
Dựa trên hai thí dụ trên thì Đức Phật chính là một ông lương y đại tài vì Ngài tùy theo hoàn cảnh mà hóa độ chứ nhất thiết không theo một đường lối cố định nào. Ngài có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài cho dù là kẻ thân, người thù, người thông minh hay kẻ đần độn, kẻ giàu sang hay là người nghèo khổ.
Phát huy tinh thần bình đẳng
Ngoài lòng từ bi vô bờ bến, tinh thần bình đẳng là một đức tính cao quý khác mà Đức Phật đã phát huy ngay từ khi còn thơ ấu. Đối với Ngài thì không có sự khác nhau giữa người nghèo với kẻ sang hoặc người thông minh với kẻ chậm tiến. Nhắc lại thời bấy giờ trong xã hội Ấn Độ, sự phân
chia giai cấp được coi là rất thịnh hành. Bất cứ nơi nào cũng có mấy chục giai cấp khác nhau từ hạ tiện đến giàu sang. Người hạ tiện thì không được phép giao du với cấp cao hơn và ngược lại kẻ giàu sang thì càng không muốn gần gủi kẻ khốn cùng.
Điển hình là khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn độ, người nầy sợ làm ô uế cho Ngài, thì Ngài bảo:”Không có giai cấp, vì mọi người trong máu đều đỏ như nhau và trong nước mắt của ai cũng mặn cả. Mọi người sanh ra đều có Phật tánh và có thể thành Phật”.
Ngay cả trong giáo hội của Ngài, Ngài đã thu nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Chẳng hạn như ông Ưu Bà Ly, một người thuộc giai cấp hạ tiện, làm nghề gánh phân, nhưng sau đó trở thành một đệ tử rất nổi tiếng về phương diện giới luật của Phật giáo. Sự thâu nhận nầy đã làm cho một số vua chúa bất mãn. Điển hình là vua Ba Tư Nặc đã bạch Phật rằng:”Ngài thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng tông đồ như vậy, không sợ rằng đá sỏi lẫn lộn với châu ngọc làm mất giá trị của chúng Tăng sao?
Phật dạy rằng:” Người hèn hạ mà biết Phật tâm Bồ đề, xuất gia tu hạnh, chứng được chánh quả, thì quý báu vô cùng, chẳng khác gì hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho”.
Ánh Đạo Vàng

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét