Nhà thơ Yến Lan |
Nhà thơ Yến Lan gửi trứng cho ác?
Con người là sự kết hợp giữa phần Con và phầnNgười. Cuộc sống là sự đấu tranh giữa hai nửa ấy. Nếu một lúc nào đó xảy ra cuộc chiến giữa hai nửa ấy trong con người chúng ta, ví dụ giết người, cướp của, tham nhũng, trù dập đối phương, bon chen tìm danh vọng… mà phần con thắng thì lúc ấy ta là con, và ngược lại, ta sẽ là người.
Thế kỷ XXI, con người được sống trong đầy đủ, hiện đại và sành điệu mà sao hiện nay, những ngày vừa qua, ở thành phố mang tên Bác, nơi trước đây được vinh danh là hòn ngọc Viễn Đông, lại mỗi ngày bọn kẻ cướp càng lộng hành, giết người cướp của một cách dã man, lạnh lùng hơn. Điều này cho thấy phần con đang ngày càng lấn át phần người trong chúng ta. Ai đó hãy làm gì để cho phần người trở lại với chúng ta! Nếu tình trạng cứ kéo dài con người sẽ mất niềm tin…
Tôi không biết câu chuyện mà tôi kể sau đây còn có tác dụng ở thế kỷ này nữa không? Kể lại chuyện này để bạn đọc thấy, ở chế độ nào cũng có kẻ cướp. Và thuở ấy kẻ cướp cũng đã có lúc chiến thắng cái phần con của mình để thành người:
Vào năm 1939-1940 thi sĩ Xuân Khai đi Sài Gòn thăm ký giả Lê Tràng Kiều. Sau đó cùng ông này lên Hà Tiên thăm vợ chồng nhà thơ Đông Hồ - Mộng Tuyết…
Ngày ấy, tình bạn của họ trong sáng, đậm tính nhân văn. Các bạn văn sẵn sàng chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ người cùng cảnh ngộ. Lâu mới có dịp gặp nhau, hai vợ chồng nhà thơ Đông Hồ Mộng Tuyết muốn giữ chàng ở lâu để bầu bạn, nhưng chàng từ chối, vì ở nhà còn cha già đau yếu. Chàng ra ga xe lửa, cạnh chợ Bến Thành để mua vé. Trong tay với chiếc va ly chứa nhiều quà của bạn và sách quí hiếm chỉ mua được ở tại Hòn ngọc Viễn Đông mới có.
Trên sân ga, người đi lại như mắc cửi. Chỗ quày bán vé đông nghịt. Người chen chúc, xô đẩy, cải nhau inh ỏi. Thi sĩ nho nhã, trí thức, không chen được, bị đẩy lùi dần ra sau; chàng nhìn quanh tìm nơi gửi va-ly. Loay hoay chưa biết thế nào, thì thấy anh cảnh sát đang đến gần. Chàng liền tới năn nỉ : “Tôi có thể nhờ anh thỉnh để ý dùm tới chiếc va ly này, tôi vào mua chiếc vé là ra ngay?” Vừa dứt lời, anh cảnh sát dãy nãy như đĩa phải vôi: “Chịu thôi, tôi không thể giúp anh được ; đây là nơi tụ tập bọn trộm cắp, lơ đễnh một tí là va ly anh đi tong, lúc đó cười trừ, anh chịu không?” Chữ trộm cắp vừa bật ra, trong đầu thi sĩ bỗng nhớ đến chuyện ngụ ngôn của La Fontaine và muốn cơ hội này, vận dụng để chứng minh cái bản năng gốc của “Con người”.
Nếu biết cách có thể biến phần “con” thành phần “người” trong tên cắp. Chính giây phút đó gợi mở ý tưởng táo bạo trong tâm hồn thi sĩ diễn ra “mình sẽ gửi va-ly cho kẻ cắp giữ dùm”. Nghĩ là làm. Một lần nữa, thi sĩ lại nhờ anh cảnh sát, chỉ dùm tên kẻ cắp chuyên nghiệp nhất, đang có mặt ở sân ga.
Nghe chàng trai nói, đưa va ly cho kẻ cắp giữ, anh cảnh sát há hốc miệng, trố mắt vẻ kinh ngạc. Anh cảnh sát nghi ngờ đưa mắt lướt khắp người chàng trai, để xác định - kẻ đang nói với mình có vấn đề gì về thần kinh hay không. Sau giây lát, anh ta thấy chàng trai không những không bị bệnh tâm thần mà rất tỉnh táo đang nhìn vào mắt anh chờ đợi. Anh miễn cưởng đưa tay chỉ một thanh niên, đầu tóc bùm xum, bẩn thỉu, mặt bặm trợn khó coi, đứng gần quày vé vẻ thách đố, nói: “Người mà cậu cần đang đứng đằng kia kìa”
Cảm ơn anh cảnh sát, chàng thi sĩ tiến đến chỗ tên kẻ cắp. Tên này đang đưa đôi mắt gian xảo đảo quanh tìm con mồi. Bỗng giật mình, quay phắt lại, hung hăng định cự nự ai đã vỗ vai mình. Cùng lúc, anh ta nghe “Bạn gì ơi, tôi nhờ bạn giữ dùm chiếc valy, để vào mua chiếc vé tàu. Được anh cảnh sát cho biết là, ở đây chỉ có anh mới giúp được tôi việc này!”.
Hai từ “cảnh sát” có tác dụng với tên cắp và những từ như “trông dùm, giúp đỡ” thật mới lạ với anh làm sao!? Bởi, từ trước đến giờ, chưa một ai dám nhờ anh ta làm cái việc trái với nghề cướp mà anh ta hành nghề ”. Chẳng nói chẳng rằng, hai tay anh khoanh trước ngực, không gật, không lắc, đưa đôi mắt mệt mỏi, thiếu ngủ nhìn ra phía trước, để chàng trai hiểu thế nào thì hiểu.
Bà con quanh đó, quá quen tài khoắn của anh; nay nghe có người nhờ giữ dùm của nả, cho là quái lạ, đưa mắt nhìn nhau, cười hô hố vẻ mỉa mai: “Trời Phật ơi! Cha này quả là điên, đem trứng giao cho ác”.
Còn thi sĩ và tên cắp, nghe nói vậy nhưng lờ đi.
Và người ta càng ngạc nhiên hơn, thi sĩ đã mua được vé; quay lại, tên cắp vẫn đứng tại chỗ, chiếc valy bên cạnh, không hề bị suy chuyển một milimét!?.
Bấy giờ, trong tâm trí thi sĩ có hai điều, làm chàng vui:
- Mua được vé mà không bị mất của.
- Sự phán đoán của chàng thật logic về gốc “Con người”. Có nghĩa là, lúc bấy giờ, tên kẻ cắp đã sắp xếp cho bản năng phần “Người” thắng phần “Con” trong anh ta.
Thi sĩ lịch sự nhận lại chiếc vali và biếu số tiền lẻ còn lại, rồi vội vã lên tàu đẻ về quê
*
Kể lại chuyện này, nhà thơ ba tôi thường trầm tư nói:
“Nếu nhận xét không đúng về một con người, sẽ hại một đời người trong tương lai”. Chẳng phải ở nước ta cũng có câu luận ngữ “Đem thử lửa mới biết vàng tốt xấu, đem tiền của mới biết sang hèn”.
Tin ở con người - là lẽ sống ở đời của ba tôi - nhà thơ Yến Lan.
Lâm Bích Thủy
Có lẽ yêu trăng quá nên đến ngày về với cõi vĩnh hằng ông vẫn “chọn” cho mình một đêm trăng quá thơ mộng để ra đi, đó là đêm rằm Trung thu năm 1998.
Yến Lan được biết đến trong “Thi nhân” Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân với 2 bài thơ “Bến My Lăng” và “Nhớ”. Là một trong “Bàn thành tứ hữu” (bốn người bạn thơ đất Bình Định gồm: Yến Lan, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Quách Tấn) nổi tiếng lúc đó, thơ Yến Lan cũng bàng bạc trăng và trăng.
“Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù… chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông…” (Hoài Thanh - Hoài Chân).
Hãy đọc lại “Bến My Lăng”, đó là cái không gian thấm đẫm trăng, huyền ảo, mơ màng, nhuốm màu không khí cổ, nhưng đọc kỹ thì… không phải thế!
Đó phải chăng cái đẹp diễm ảo, u huyền trong lòng mỗi người yêu thơ.
Đó có thể là một bến đò Trường Thi có thật nào đấy! Mà cũng có thể là một Đào Nguyên nào đấy, như một Linh Sơn nào đấy, hay thậm chí như một Lá Diêu Bông nào đấy… Nghĩa là nó chỉ có trong tưởng tượng mà thôi.
"Những ai đã có một lần đứng đợi một chuyến đò ngang... và nhất là những ai có nỗi hy vọng lớn lao phải chờ đợi... Bến My Lăng ở trong lòng tôi và có thể ở trong lòng bạn". Đó là lời tâm tình của Yến Lan.
Bàn thành tứ hữu, cũng tự ví mình như tứ linh trong mùa Trung thu, tương xứng với Lân, Long, Quy, Phụng. Trong đó Yến Lan được xem như Lân - đứng đầu trong tứ linh. Theo sách xưa, đó là con vật dũng mãnh nhưng hiền hòa, đi không làm cỏ đau. Sinh thời, Yến Lan cũng là người hết sức từ ái, khiêm tốn, nhẹ nhàng với mọi người xung quanh. Phải chăng đó là cốt cách của một nhân cách lớn!
Nói đến Yến Lan cũng phải nói đến thơ tứ tuyệt. Đó là những bài tứ tuyệt góp phần làm nên tên tuổi Yến Lan. Nhà nghiên cứu Trúc Thông đã nhận xét: “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già”. Một “bố già” hiền lành. Không cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm... Trong tứ tuyệt Yến Lan thường nén lại một nông nỗi thở dài. Có khá nhiều cám cảnh. Nhưng cốt cách nghệ sĩ, cốt cách tứ tuyệt đã gây cho người đọc một sự kính trọng”.
Chế Lan Viên thì nhận xét: “Biết bao bài tứ tuyệt trên báo hiện nay chỉ là thơ bốn câu, tứ tuyệt của Yến Lan có tình và có “thế võ” của tứ tuyệt!”
Bến My Lăng
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
Ông không muốn run người ra tiến địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền, những lá vàng qua lạnh
Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng.
Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng.
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng,
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Linh Thoại
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn, để gió lén mơn râu.
Đó là bốn câu đầu trong bài thơ "Bến My Lăng" của Yến Lan, bài thơ có thể đứng được với đời. Không một người yêu thơ nào không biết bài thơ này vì vẻ đẹp huyền ảo của cảnh cũng như vẻ diễm lệ của lời thơ. Nhưng nhiều người băn khoăn tự hỏi : bến My Lăng ở đâu? Không có ở Sông Côn Bình Định, cũng không có tại bất cứ con sông nào trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng có hề chi chuyện ấy. Nhà thơ tưởng mình có thể lên trời như Tản Đà, lên tiên như Thế Lữ, thì sao lại không thể tưởng tượng ra một bến sông huyền hoặc để gửi gắm vào đấy cõi hồn mình?
Tuy nhiên, cũng có người muốn hiểu rõ nguồn cội của cái bến sông nổi tiếng ấy nên đã tìm đến tác giả và ông đã thành thực giãi bày :
- Khi tôi chừng 6-7 tuổi thì mẹ tôi đau nặng phải nằm chữa bệnh ở quê ngoại bên kia sông. Hằng ngày tôi phải mang thức ăn cho mẹ và phải gọi đò qua sông cho đến khi mẹ tôi mất. Từ đó tiếng gọi đò cứ vang vọng trong tâm thức tôi như một nỗi ám ảnh, như tiếng gõ cửa vào một thế giới khác.
Người lái đò đưa tôi qua sông năm ấy lại chính là cậu ruột tôi. Trong bóng chiều nhập nhoạng, dáng ông phảng phất như một tráng sĩ khi chống sào qua bến vắng.
Bến sông ấy có một doi cát vàng nằm xoải ra như cái chân mày hình lưỡi mác, cha tôi gọi là My Lăng. Cả ba sự việc trên : sự chờ đợi (đợi đò), hoài niệm về một thời đã qua (tráng sĩ) và dáng dấp cao sang của một vùng văn hóa (chân mày hình lưỡi mác) trộn lẫn trong tâm thức tôi và nó cứ lớn dần theo thời gian. Chừng mười năm sau thì tôi viết được "Bến My Lăng".
Rồi ông thêm :
- Khi viết bài thơ này, tôi đặt tên "Bến My Lăng" để kỷ niệm về một bến sông đã đi sâu vào tuổi thơ. Cái tên Bến My Lăng ấy không có thật, nhưng kỷ niệm thì vẫn còn mãi trong lòng tôi.
Trong thời tiền chiến, Bình Định là một tỉnh có nhiều thi tài, mà nổi tiếng nhất là bốn người trong "xóm thơ Bình Định": Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn và Chế Lan Viên. Một bạn yêu thơ ở Bình Định là Trần Thống ở thôn Kiên Mỹ, huyện Bình Khê tặng cho bốn nhà thơ thân yêu nhau như anh em ruột ấy cái tên "Bàn thành tứ hữu" (Bốn người bạn thành Đồ Bàn). Lại cũng có người gọi bốn nhà thơ này là "Tứ linh" (Long, Lân, Qui, Phụng):
Hàn Mặc Tử là Long (Rồng)
Yến Lan là Lân (Kỳ lân)
Quách Tấn là Qui (Rùa)
Chế Lan Viên là Phụng (chim phượng)
Yến Lan là nhà thơ cuối cùng của "Xóm thơ Bình Định" rời bỏ cõi trần. Ông tên thật là Lâm Thanh Lang, sinh ngày 2 tháng 3 năm 1916 (Bính Thìn) tại làng An Ngãi, phủ An Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo ông, sở dĩ có bút hiệu Yến Lan vì thời trẻ, gần nhà ông có hai cô gái chơi thân với nhau. Hai cô đều xinh đẹp, nết na và dễ thương. Một cô tên Yến, một cô tên Lan. Hai cô cùng yêu thơ nên dễ có cảm tình với tác giả. Về sau cô Lan trở thành vợ ông, còn cô Yến thì biệt vô âm tín. Bút hiệu Yến Lan ra đời từ đó. Ngoài ra ông còn có bút hiệu Xuân Khai.
Yến Lan nổi tiếng hay thơ từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Chính Yến Lan dìu dắt Chế Lan Viên (Yến Lan lớn hơn Chế Lan Viên 4 tuổi và học trên Chế 3 lớp) rồi cùng Chế Lan Viên nắm tay nhau đi trên đường văn chương sự nghiệp.
Năm 1937, Yến Lan cùng Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên sáng lập ra "Trường thơ Loạn". Lúc ấy Chế Lan Viên đã xuất bản tập thơ "Điêu tàn", Hàn Mặc Tử đã hoàn tất tập thơ "Điên",Yến Lan đã có tập thơ "Giếng loạn" và "Bến My Lăng". Ba tập thơ Giếng loạn, Điêu tàn và Thơ điên làm nền tảng cho Trường thơ Loạn. Hai bài tựa của tập Điêu tàn và Thơ điên là "tuyên ngôn" của Trường thơ Loạn. Do câu ca dao:
Chiều chiều mây kéo về kinh,
Ếch kêu giếng loạn thảm tình đôi ta
mà Yến Lan đã viết nên tập thơ Giếng loạn. (tập thơ này đã mất).
Trường thơ Loạn ra đời ở một tỉnh nhỏ lại gặp lúc phong trào lãng mạn đang lên cao nên chẳng được bao lâu thì chết yểu.
Thi tài của Yến Lan nảy nở rất sớm. Từ năm 1935, lúc mới 19 tuổi và thơ mới mới có 3 tuổi (1932-1935), ông đã có nhiều tứ thơ táo bạo và lối biểu đạt tân kỳ. Tả một cánh buồm cô đơn cùng với con thuyền sau một cuộc hải trình vất vả về nghỉ ngơi bên cạnh hòn đảo, trên sóng nước dịu dàng, ông viết:
Sầu tam giác buồm cô về lặng nghỉ,
Nhịp hoãn hòa đến vỗ đảo xa khơi.
"Sầu tam giác" là một tứ thơ mới lạ (cánh buồm hình tam giác), "nhịp hoãn hòa" cũng là một ý thơ hay, diễn tả được cảnh sóng vỗ thong thả, nhịp nhàng vào hòn đảo.
Ở Sầm Sơn có Hòn Trống và Hòn Mái. Nắng chiều trùm lên các trang viên khiến ông tưởng chừng như đôi cánh bồ câu giăng ra ấp ủ:
Trống xa Mái ngẩn ngơ thơ đá chạm,
Chiều bồ câu cánh ủ khắp viên trang.
Thật là giàu tưởng tượng.
Yến Lan còn là nhà thơ giàu tình cảm. Ông yêu thiên nhiên, yêu quê hương Bình Định, yêu người thân, bạn bè bằng một mối tình thiết tha sâu nặng.
*YÊU THIÊN NHIÊN, ông yêu màu xanh của con sóng, yêu màn sương bao phủ Vọng Hải đài (ở Ngũ hành sơn), yêu đá chồng nhiều lớp như một kho tàng quý báu mà thiên nhiên dành tặng cho con người:
Xanh biêng biếc, sóng con chồm bạc tóc,
Vọng Hải đài sương khóa kín tâm tư.
Đá chồng chất, phải chăng ôm mộng ngọc,
Chút kho tàng ngày tháng giữ khư khư.
(Xa xanh)
Yêu thiên nhiên, ông yêu hoa và hương. Hương của hoa sói, hoa nhài, hoa dạ lan đều đáng yêu cả, mỗi loài hoa có một mùi hương khác nhau. Còn lòng em có đợi tình anh chuyển hương sang?
Hoa sói, hoa nhài tự bốc hương,
Dạ lan theo gió tỏa đêm trường.
Lòng em đang nở mùa sim dại
Có đợi tình anh hương chuyển sang?
(Hoa và hương)
Yêu thiên nhiên và yêu hoa, ban công nhà Yến Lan thường có trồng hoa, có lẽ để nhớ vườn lan của ông ở Bình Định ngày xưa:
Ngấp nghé hiên tây mấy khóm hồng,
Hoa nhài giậu bắc, lựu tường đông.
Yêu hoa chẳng để thềm nam trống,
Đêm mộng mai vàng đến trổ bông.
(Thềm nhà phía nam)
Nhưng trong thiên nhiên, ánh trăng mới làm ông say mê nhất. Riêng trong bài "Bến My Lăng" ta có thể đếm được chín chữ "trăng". Ánh trăng ở đây mới lung linh huyền ảo làm sao! Ánh trăng bàng bạc, mênh mông, tràn ngập con thuyền, rơi vàng trên mặt sách, chiếc áo màu ngọc lưu ly của chàng kỵ mã nhúng đầy trăng, còn ông lão đưa đò thì say trăng, gối đầu lên trang sách ngủ say đến nỗi không nghe tiếng gọi đò của chàng kỵ mã:
Nhưng đêm kia, đến một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
(Bến My Lăng)
*YÊU QUÊ HƯƠNG, Yến Lan không bao giờ quên Bình Định. Mỗi người ai cũng có một quê hương để yêu, nhưng với Bình Định, Yến Lan đã yêu tha thiết nơi chôn nhau cắt rốn này, nơi đã ghi lại trong ký ức của ông biết bao kỷ niệm thời niên thiếu với bạn bè, với người ruột thịt. Vì thế ông đã làm đến ba bài thơ về Bình Định : Bình Định 1935, Bình Định 1945 và Bình Định 1975-1976, mỗi bài đều ghi dấu ấn về kỷ niệm và các biến cố lịch sử tại mảnh đất này. Khi có người hỏi ông thích nhất bài thơ nào trong các tác phẩm của mình, có phải bài thơ nổi tiếng Bến My Lăng không thì ông sốt sắng trả lời :
- Không, bài thơ mà tôi thích nhất là bài "Bình Định 1935",trong đó tôi đã gửi gắm biết bao kỷ niệm và tâm tư tình cảm của mình:
Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt,
Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền
Tịch dương - liễu không biết mình đang biếc,
Tương tư trời - tương tư... nhạc triền miên.
…Trời Bình Định có thương em lẻ chiếc,
Em nằm thương xanh biếc của trời buồn.
Trên đài trán thơ hằng lên vọng nguyệt,
Nguyệt còn nương thuyền nhạc khuất trong sương.
(Bình Định 1935)
Rồi Cách mạng tháng tám đã về. Yến Lan hòa mình vào dòng chảy cách mạng với niềm vui náo nức, niềm sung sướng tự hào. Vui biết bao hình ảnh đàn chim bồ câu tung cánh trắng trong nắng đào, tiếng chuông tu viện reo vang niềm hạnh phúc và em nữa, em đi trong lầu thơ để dệt nên trang tình sử tuyệt vời:
Lầu cửa Đông có nghe em tâm sự,
Em đi trong tình sử của lầu thơ.
Hai chúng ta bước qua đêm quá khứ,
Ngoảnh đôi đầu không còn thấy bơ vơ.
(Bình Định 1945)
Rồi ba mươi năm sau, đất nước hòa bình, thống nhất, Bắc Nam chung một mái nhà, Yến Lan trở về Bình Định, lòng rộn lên biết bao kỷ niệm thời niên thiếu. Này đây bến My Lăng thơ mộng với cát bồi cong quá nửa, này đây bà con, bạn bè ngày xưa nay tóc đã điểm sương và này đây tiếng chuông tu viện ngân nga trong khung cảnh thanh bình, an lạc. Tác giả muốn tung hồn mình ra ôm choàng cả không gian, cả Bình Định thân yêu và đẹp đẽ vô ngần:
Xanh sắc lại, mênh mông trời rộng mở,
Hồn ta nay ước choàng cả không gian.
Ơi Bình Định, từ con tim ấp lửa
Bừng lên - bừng thành một cuộc hoa đăng.
(Bình Định 1975-1976)
Yêu Bình Định, Yến Lan yêu cả tiếng chuông đã một thời gieo vào lòng ông những âm thanh buồn vui lẫn lộn:
Tám tư (1984) về lại ở An Nhơn,
Phố cũ, người xưa chẳng mấy còn.
Đêm đến nằm nghe cành liễu phất,
Chợt nhìn quen thuộc tiếng chuông boong.
(Tiếng chuông ngày cũ)
Ta thường chỉ "nghe" được tiếng chuông, còn Yến Lan thì "nhìn" được tiếng chuông, ở đây thị giác và thính giác đã hòa quyện lẫn nhau nên nghe được sắc màu và nhìn được âm thanh.
Yến Lan còn có những bài thơ Nhớ làng, Lại về tỉnh nhỏ, An Lão, Phù Ly (4) đậm đà tình yêu quê hương xứ sở. Trong bài thơ "Lại về tỉnh nhỏ", ông nhớ quê hương mình đã một thời đầm ấm yên vui nhưng rồi có biết bao thay đổi, đó đây hiện lên những nét buồn vời vợi và quang cảnh man mác đìu hiu:
Tỉnh nhỏ
Đìu hiu.
Mặt trời ngủ giữa chiều,
Trở mình trên mái rạ.
…Tỉnh nhỏ
Cô em
Nằm xem
Kiếm hiệp.
(Lại về tỉnh nhỏ)
*YÊU NGƯỜI THÂN, Yến Lan không sao quên được người mẹ chịu thương chịu khó suốt đời để lo cho chồng con và mất sớm có lẽ vì quá vất vả:
…Sống cầm kim chỉ cóng tay tê,
Khi chết đi, đầu mẹ vẫn quay về.
Nhưng sao khỏi cau mày trong nắm đất
(Chuyện quê ngoại)
Ông thương mẹ cam chịu long đong, lận đận để lo cho cái gia đình bé bỏng của mình không một lời thở than, trách móc:
Thương xưa mẹ sống đời sông bến,
Một lá đò đưa nặng gánh gồng.
(Mùa lụt thăm quê mẹ)
Mẹ mất rồi, chị phải thay mẹ nuôi em. Ông yêu biết bao người chị cả, quên cả tuổi thanh xuân của mình, ngày ngày lấy nghề vấn thuốc lá để nuôi em. Nhưng tuổi xuân qua mau, thời gian không đợi, một ngày kia chị cũng phải đi lấy chồng:
Khế chua chị nấu lá mồng tơi,
Em ước cùng ăn đến trọn đời.
Tang mẹ mãn rồi, bà mối giục,
Chị đi, bát đũa cũng mồ côi.
*YÊU BẠN BÈ, Yến Lan đã viết những vần thơ thân thiết, chí tình. Khi ở miền Bắc, xa bạn, nửa đêm nghe tiếng chim bìm bịp kêu ở đầu lán, ông không sao ngủ được, ra đứng nhìn vành trăng khuyết mà bâng khuâng nhớ bạn:
Sang canh, bìm bịp kêu đầu lán,
Đất mới, nhà đơn, lạ láng giềng.
Nhớ bạn, nửa đêm ra tựa liếp,
Khuyết cong mày bạc, ngấn trăng in.
(Nhớ bạn)
Thật ít có ai như ông, nhớ bạn, tìm đến nhà bạn để thăm, khi tìm được nhà rồi thì ngần ngại không vào vì "sợ vào đúng nhà" và e "vườn, cỏ um tùm - sách, mốc meo" :
Chợ cách đò giang, xóm cách đèo,
Phải đây nhà bạn đứng cheo leo?
Muốn vào, sợ đúng nơi tìm đến,
Vườn, cỏ um tùm - sách, mốc meo.
(Tìm bạn cũ)
Lời thơ chân tình và đôn hậu biết bao!
Lẽ tất nhiên, trong số bạn bè, Yến Lan thân nhất với các bạn trong "Bàn thành tứ hữu". Với Yến Lan, Quách Tấn có nhiều kỷ niệm khó quên. Ông kể:
Lúc Yến Lan ở Nha Trang có ít nhiều kỷ niệm. Một trong những kỷ niệm này là cây me. Cây me mọc bên cạnh đình Xương Huân, gốc thì đứng bên vườn đình, song một phần lớn tán lá trùm lên mái nhà bếp của tôi. Cây me này sống có trên vài trăm năm, gốc đã to đến hai ôm và lòng đã bộng từ rễ đến ngọn.
Một hôm me chín, lũ con tôi muốn ăn nhưng cây cao quá, đành đứng dưới dốc ngó lên. Yến Lan thấy vậy liền bắc thang leo lên mái nhà rồi chuyền sang cây me mà hái. Hình ảnh ấy trong mấy mươi năm vẫn sống trong lòng tôi. Mùa thu năm Mậu Thân (1968) lòng bỗng nhớ Yến Lan da diết, tôi ra đứng tần ngần dưới gốc me. Bỗng một trận lá me vàng tuôn xuống làm sống dậy bóng dáng cố nhân ! Gần mười lăm năm ly biệt, không một tin đưa ! Bồi hồi áo não, tôi viết được một bài lục bát:
Me thu lã chã mưa vàng,
Nắng thu hiu hắt bóng chàng năm xưa.
Bấy chầy cách trở nắng mưa,
Đời Ly Tao ngọt hay chua hỡi lòng?
Chàng đây là Yến Lan.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Yến Lan và Quách Tấn cùng sống ở Bình Định, hai người ở cách nhau trên dưới ba mươi cây số, không phải là xa, nhưng ít được gặp nhau vì đường sá bị phá hoại, việc giao thiệp bị hạn chế và kế mưu sinh chiếm hết cả thì giờ:
Quách Tấn ngồi thắt gióng,
Yến Lan nấu xà phòng.
Văn chương tỉnh Bình Định
Phó mặc Nguyễn Thành Long.
Yến Lan có làm một bài thơ tứ tuyệt tặng Quách Tấn, lời thơ rất xúc động, đầy tình cảm trìu mến thân thương. Tuy là đề tặng Quách Tấn nhưng không gửi trực tiếp cho Quách Tấn mà chỉ đăng báo. Bài thơ viết năm 1982 mà mãi đến tám năm sau mới đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 45, ngày 1-10-1990 (trang 28):
Nhớ bạn nhiều hôm da diết nhớ,
Lại đành không tiện viết thư thăm.
Ngại trao tâm sự cho tờ giấy
Đè nặng thêm tay kẻ nhận cầm.
(Vô tình và hữu tình)
Tuy sống lâu năm ở Hà Nội, nhưng Chế Lan Viên vẫn luôn nhớ quê hương, nên khi hòa bình thống nhất được ít lâu, Chế quay trở về Nam, dựng được một "lầu thơ" ở quận Tân Bình mang cái tên rất thơ là "Viên tĩnh viên". Dịp này Yến Lan mừng bạn bằng một bài thơ tứ tuyệt:
Tuổi sáu mươi hai (1982) có cửa nhà,
Có vườn gió nắng, ngõ sương hoa.
Theo thơ, đời mãi làm thân khách,
Làm chủ, giờ thêm bạn với thơ.
(Mừng bạn có nhà)
Năm 1989 Chế Lan Viên qua đời. Nhân ngày giỗ Chế, Yến Lan làm bài thơ "Ngắm hoa quỳnh nhớ Chế Lan Viên" để viếng Chế, lời thơ thật xúc động, đầy tình cảm:
Hương tạ trời khuya đẫm sắc quỳnh,
Nửa nghiêng tiền kiếp, nửa lai sinh.
Lẫn vào sương khói ba canh mộng,
Một cánh phù hoa bỗng lộ hình.
(Bình Định tháng 6-1994)
Vào cuối đời, Yến Lan quay về với thơ tứ tuyệt. Tập "Thơ tứ tuyệt" của ông do Nhà xuất bản Hội Nhà văn in năm 1996 gồm 160 bài chọn từ hàng trăm bài thơ tứ tuyệt của ông sáng tác trong mấy chục năm qua.
Tác giả viết về quê hương yêu dấu, về những nơi đã qua, đã sống, về người đồng hương, về bạn bè, người thân bằng lời thơ súc tích và tình cảm chân thành.
Đến viếng chùa Hương, một thắng cảnh từng làm say đắm bao người, ông viết:
Chua ngọt chạm đầu lưỡi,
Chát đắng ẩn trong men.
Chén rượu trên Bến Đục
Sóng sánh tiếng chuông thiền.
(Rượu mơ uống ở chùa Hương)
Viết cho người thân yêu, tình cảm của tác giả rất chân thành và tha thiết:
Cùng chim tu hú bạn bao giờ,
Tuổi nhỏ con chưa rời thủ đô.
Nay chiến trường xa tìm đến gặp,
Rắc màu hoa gạo đỏ trong thơ.
(Tu hú)
Thuở xưa, Trang Tử nằm mơ thấy mình hóa bướm, lúc tỉnh dậy băn khoăn tự hỏi không biết mình hóa bướm hay bướm hóa ra mình. Còn Yến Lan buổi sáng đọc Nam Hoa kinh (6) nhưng buổi tối không hóa bướm nên mừng mình làm chủ được mình:
Sáng đọc Nam Hoa kinh,
Tối nằm không hóa bướm.
Mừng mình chủ được mình,
Dậy thổi nồi khoai sớm.
(Đọc Nam Hoa kinh)
Từ năm 80 tuổi trở đi, Yến Lan ngày càng suy yếu, sức tàn lực kiệt, cuộc sống chỉ còn đếm trên đốt ngón tay nhưng ông vẫn làm thơ:
Tay bưng thuốc đắng nhìn xuyên chén,
Năm tháng còn trên mấy đốt tay.
Khi có bạn cũ đến thăm bên giường bệnh, ông mừng lắm rồi lại làm thơ:
Mở mắt nhìn qua ai đến thăm,
Thì ra bạn cũ đã mười năm.
Câu thơ ngày ấy nhòa mưa hạ,
Còn nửa vầng trăng cứ khuyết thầm.
Ngày 5-10-1998 Yến Lan đã ra đi, mang theo vầng trăng lung linh thuở nào trên bến đò huyền thoại. Mai sau, bạn đọc có thể quên thơ Yến Lan, nhưng chắc không thể nào quên được vầng trăng huyền ảo trên bến My Lăng đã một thời làm xao xuyến lòng người.
Huyền Viêm
“Venus đứng giữa Mars và Neptune” - tranh của họa sĩ Gian Battista Zelotti |
Giống như những hình ảnh lá Diêu Bông, cầu Bà Sấm, bến Cô Mưa trong thơ Hoàng Cầm, Linh Sơn của Cao Hành Kiện, bến My Lăng của Yến Lan cũng làm người ta tốn khá nhiều giấy mực. Bến My Lăng có thật trong đời thường hay chỉ là một biểu tượng thi ca?
Yến Lan (1916-1998) tên thật là Lâm Thanh Lang, quê tại làng An Ngãi, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Mồ côi mẹ năm 6 tuổi, Yến Lan sống bằng nghề dạy học tư và viết văn. Ông sáng tác thơ từ sớm và cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn hợp thành nhóm “Bàn thành tứ hữu” (bốn người bạn thơ đất Bình Định) nổi tiếng trên thi đàn lúc đó. Những năm ấy, văn đàn Thơ Mới rộ lên hình ảnh bến My Lăng trong thơ Yến Lan. Nhiều năm sau, người ta vẫn còn tìm đến Yến Lan để hỏi về bến My Lăng. Rồi họ bảo đó là cái bến nằm lọt trong phố thị An Nhơn. Lại có người khẳng định rằng đó là cái bến Trường Thi in dấu biết bao bàn chân sĩ tử lận đận…
Từ một bến sông có thật…
Theo nhiều nguồn tài liệu, đó chính là bến đò Trường Thi trên sông Cửa Tiền. Nhiều lần, Yến Lan giải thích rằng nó bắt nguồn từ một bến đò thật, bến Trường Thi, cách thị trấn Bình Định nơi ông ở khoảng mấy dặm đường. Mỗi lần qua bến sông này, nhìn doi cát cong cong, ông lại mơ tưởng xa xăm: Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách/Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu/Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách/Ông lái buồn để gió lén mơn râu… Cửa Tiền nằm ở phía tây nam thành Bình Ðịnh. Gọi là Cửa Tiền bởi vì cửa chính của thành Bình Định nằm ở mặt này, và cảnh vật lại rất hoang vu như thời tiền sử. Con sông chảy trước mặt Cửa Tiền cũng mang luôn cái tên Cửa Tiền, có người gọi là sông Tân An một chi lưu của sông Côn đổ ra đầm Thị Nại. Bên kia sông là xã Nhơn Hòa, bên này là xã Nhơn Hưng, đều thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Bến đò Trường Thi, nằm ở phía Cửa Tiền, đã nhiều lần đi vào văn học. Bến đò chỉ hình thành vào mùa nước nổi, từ tháng chín cho đến tháng chạp âm lịch. Sau đó, đò được dời đoạn sông sâu hơn, người lái đò cũng chuyển nghề khác chờ mùa nước lớn năm sau. Chính cậu ruột Yến Lan cũng là một người lái đò. Bên bờ có một đoạn đất trống thuở xưa là trường thi hương, cũng là nơi gặp gỡ của các chí sĩ yêu nước. Ðến thời Pháp, trường thi bị bỏ hoang. Vì bến đò nằm gần đó nên gọi là bến Trường Thi như một niềm hoài niệm. Quả thực, Trường Thi đẹp mà buồn đến nao lòng. Cha Yến Lan đã bao lần vượt qua bến sông, lần theo câu hát để đến với một thôn nữ dệt lụa, sau này chính là mẹ ông. Mối tơ duyên đầy thi vị ấy đã cho chúng ta một thi sĩ ngay từ thuở lọt lòng: Quê ngoại bên kia bãi cát vàng/Mẹ tôi về lỡ chuyến đò ngang/ Cơn đau trở dạ không giường chiếu/Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng. Yến Lan thổ lộ: “Khi tôi chừng 6-7 tuổi thì mẹ tôi đau nặng phải nằm chữa bệnh ở quê ngoại bên kia sông. Hằng ngày tôi phải mang thức ăn cho mẹ và phải gọi đò qua sông cho đến khi mẹ tôi mất. Từ đó tiếng gọi đò cứ vang vọng trong tâm thức tôi như một nỗi ám ảnh, như tiếng gõ cửa vào một thế giới khác. Người lái đò đưa tôi qua sông năm ấy lại chính là cậu ruột tôi. Trong bóng chiều nhập nhoạng, dáng ông phảng phất như một tráng sĩ khi chống sào qua bến vắng”. Người ta kể lại rằng, khi mẹ mất, chú bé Yến Lan đi cùng người láng giềng đưa tin về quê ngoại. Đến đoạn đường qua Gò Tập, nơi bị đồn đại rất nhiều ma đưa võng, Yến Lan sợ đến cuống chân. Người láng giềng cất tiếng gọi đò khắc khoải. Ông cậu của Yến Lan nằm ngủ trong thuyền, giật mình, hớt hải chống đò sang. Ấn tượng về tiếng gọi đò não ruột trong đêm trăng lạnh lẽo ấy đã ám ảnh Yến Lan suốt một đời. Sau này, Yến Lan kể lại: “Đêm mẹ tôi mất, cha tôi nhờ người hàng xóm dẫn tôi ra bến đò để gọi cậu tôi…Nhà cậu và chiếc đò thì gác mái bên kia sông, chúng tôi ở bên này gọi mãi, gọi mãi, gọi trong một tâm trạng xót xa bồn chồn, hãi hùng nữa.”
…Đến một bến sông huyền thoại
Các nhà địa chí dù có đi dọc sông Côn, hay bất kì một dòng sông trên đất nước này cũng không thể tìm ra một địa danh nào có tên My Lăng. Bến My Lăng là cái bến sông huyền ảo đầy vang bóng trên thi đàn mà người ta không thể quên mỗi khi nhắc đến Yến Lan. Chính thi sĩ đã sáng tạo ra một bến sông phi thời gian, phi không gian nó là bến đợi ai và ai đợi cũng không rõ nữa. "Những ai đã có một lần đứng đợi một chuyến đò ngang... và nhất là những ai có nỗi hy vọng lớn lao phải chờ đợi... Bến My Lăng ở trong lòng tôi và có thể ở trong lòng bạn". Có lần Yến Lan đã khẳng định như vậy. Nhà phê bình tài hoa Hoài Thanh cũng phải thú nhận:“Xem thơ Yến Lan tôi mơ màng như đi trong mây mù… chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông…” Những năm cuối đời, Yến Lan vẫn còn thường nhắc đến bến My Lăng với đôi mắt ngấn lệ. Ông chỉ mong được đắm mình trong bến sông xưa: Thăm quê về lại bến trăng xưa/Còn tưởng đêm nay đứng gọi đò/Chưa kịp nhớ ra lòng có hẹn/Chèo ai cập bến đã vang khua (Nhớ bến My Lăng). Ông thừa nhận rằng bài thơ Bến My Lăng của ông ra đời trong lúc xuất thần, mang ấn tượng tiếng gọi đò thuở bé: Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/Gọi đò thôi run rẩy cả ngàn trăng/Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng. Yến Lan tâm sự rằng: “Bến sông ấy có một doi cát vàng nằm xoải ra như cái chân mày hình lưỡi mác, cha tôi gọi là My Lăng. Cả ba sự việc trên: sự chờ đợi (đợi đò), hoài niệm về một thời đã qua (tráng sĩ) và dáng dấp cao sang của một vùng văn hóa (chân mày hình lưỡi mác) trộn lẫn trong tâm thức tôi và nó cứ lớn dần theo thời gian”. Cũng có khi Yến Lan nhập hồn vào ông lái đò ở bến sông u uẩn: Ông lão vẫn say trăng nằm gối sách/Ðể thuyền hồn rời khỏi Bến My Lăng. Ông lái đò cũng là một nghệ sĩ đích thực biết đọc sách, rồi buông câu, uống rượu, có khi thổi sáo nhưng vẫn cô đơn trên cái bến sông đìu hiu mênh mông đến rợn ngợp. Trên bến sông ấy, xuất hiện ánh trăng ma quái, lúc ẩn lúc hiện với muôn hình vạn trạng. Ánh trăng bàng bạc, mênh mông, tràn ngập con thuyền, rơi vàng trên mặt sách, chiếc áo màu ngọc lưu ly của chàng kỵ mã nhúng đầy trăng, còn ông lão đưa đò thì say trăng, gối đầu lên trang sách ngủ say đến nỗi không nghe tiếng gọi đò của chàng kỵ mã. Theo các nhà phân tâm học, cái tên My Lăng mang đầy ẩn ức. Trong tiếng Hán “my” với “mê” cùng một âm, trong chữ Nôm “mê” với “my” là một, “Lăng” với “Lang” là một, My Lăng với Mê Lan thật không khác nhau là mấy. Thực tế thì thời trai trẻ Yến Lan say mê một cô gái tên Lan bên bến sông. Cô gái ấy sau này trở thành là vợ của nhà thơ. Có người giải thích rằng cái tên My Lăng gắn với kỷ niệm ấu thơ của Yến Lan. Đó là những đêm trăng Yến Lan cùng cha về thăm người cậu làm nghề lái đò. Cha và cậu của Yến Lan thường hay cắm sào ở giữa sông uống rượu và ngắm trăng. Nhìn doi cát ven sông cha ông thấy nó giống như bờ my mắt. Đó là cái tứ cho bài thơ bất hủ này. Bến sông là biểu tượng cho bến bờ hạnh phúc, con đò là phương tiện chuyên chở giấc mơ hoa của người lái đò, nhưng giấc mơ ấy đã không tới bến. Nhưng có thể nói rằng, trên bến sông huyền thoại, Yến Lan là một ông lái đò đã đưa văn chương của mình cập bến mà neo vào lòng độc giả sau này.
Như vậy, bến My Lăng vừa là không gian thực vừa là không gian huyền thoại: Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh/Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng. Không có những bến sông quê Bình Định, chắc khó có cái bến sông trăng lạnh buốt mà diễm ảo kia. Trong một đêm trăng lạnh, Yến Lan - con kì lân của nhóm tứ linh đã ra đi cùng bạn hữu về với một bến sông vĩnh hằng. Nhưng cái bến My Lăng do ông sáng tạo ra thì còn mãi lung linh trong văn học.
Phạm Văn Học
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét