Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012

Sống, chết và sau khi chết (2)

"Hoa mộng" - Hot girl Nhật Bản
Trong cuộc sống chúng ta đã tạo nên rất nhiều kinh nghiệm hão huyền, lúc chết chúng ta lại sản sinh ra những phản ứng sai lầm, lú lẫn. (ảnh không liên quan đến bài viết)
Vì càng về già, bốn nguyên tố càng bị chìm lặn đi, càng tăng thêm sự lầm lẫn, càng mất đi sự sáng suốt. Càng về gìa, những cảm nhận của các cơ quan trong người càng yếu đi; bốn nguyên tố bắt đầu ngưng hoạt động. Người thì mất thị giác hoặc nhìn cái này ra cái kia, người thì đi lại khó khăn hoặc không còn có sự kiểm soát bình thường.
Khi nói “nguyên tố đất (địa đại) chìm đi” thì chỉ là ngôn từ. Nó có nghĩa là những thành phần cứng - xương cốt trong thân thể - bắt đầu hư hoại. Những cơ quan cảm nhận của người gìa bị hư hoại, chúng không còn có khả năng nhìn rõ ràng, làm việc đúng. Nguyên tố địa đại đã bắt đầu bị suy thoái, có khi ngay cả khi còn trẻ.
Không phải chỉ có những giác quan bị suy thoái mà ngũ uẩn - những nhận thức của năm giác quan - cũng trở nên yếu dần, vì thế chúng mang lại những sự lầm lẫn và hư ảo. Ngay cả xúc giác cũng bị suy thoái, không còn cho chúng ta những khoái cảm. Khi chúng ta bị nhiễm trùng hay bị bệnh, những thứ như thức ăn, mầu sắc, hình dáng... cũng không còn cho chúng ta những khoái cảm mà thường ngày vẫn có. Chúng ta không còn cảm giác với những đối tượng hấp dẫn, ngay cả khi đứng trước một đóa hoa tươi thắm. Bông hoa ngay ở đây mà chúng ta cũng chẳng còn hứng thú gì. Có khi nó còn làm chúng ta thêm bực mình: “Bông hoa đỏ này đáng ghét, đem vất nó đi!” Những người bị bệnh, những người bị khó chịu ở trong người thường có những phản ứng như vậy.
Sự suy thoái của tứ đại có ảnh hưởng đến tâm lý, chúng là nguyên nhân của những kinh nghiệm ở nội tâm, chúng cho những ảo ảnh, như sương khói như lửa chập chờn. Tất cả đều là những kinh nghiệm ở bên trong, ở nội tâm, không có lửa ở bên ngoài. Họ cảm thấy nóng, thấy lạnh nên họ cứ lẩm bẩm: “Hãy đổ nước đi” hay “Hãy dập tắt lửa đi”. Sự lầm lẫn, lẩm cẩm xẩy ra ở bên trong. Họ cảm thấy lửa đang cháy, đang thiêu đốt họ ở bên trong. Đó là những ảo ảnh đang xẩy ra ở bên trong. Họ thấy như có lửa, có nước thực sự, nên những nhận xét của tâm thức chỉ toàn là những sai lạc, huyễn ảo. Nếu chúng ta có thể tưởng tượng được những hình ảnh này, chúng ta sẽ hiểu rất rõ.
Thông thường, cái tôi của chúng ta cứ muốn nắm bắt những đối tượng. Nhưng ở thời điểm tan rã của tứ đại thì những đối tượng ở bên ngoài đều tan biến. Chúng ta chỉ thấy, chỉ kinh nghiệm những hình ảnh giả đầy huyễn ảo. Chúng ta mất hết những cái chúng ta muốn nắm bắt, muốn chiếm đoạt nên chúng ta đâm ra sợ hãi. Cùng lúc đó chúng ta cũng không còn nhận ra chúng ta nữa. Trong khi chúng ta đang cảm nghiệm sự chìm dần của tứ đại cùng những ảo ảnh của chúng để lại thì chúng ta hãy nhớ rằng năm giác quan và năm nhận thức cũng đang suy thoái. Nên biết rằng cả một đời chúng ta ôm ấp cái tôi của chúng ta thì bây giờ đây nó đang từ từ biến mất, chúng ta mất nó, chúng ta đâm ra sợ hãi, sợ hãi vô cùng. Trong đời sống thường ngày, cái tôi là bạn chí thân của chúng ta, nó luôn luôn làm cho chúng ta cảm thấy an lòng. Nhưng bây giờ, khi mà tất cả mọi sự đang tàn phai, đang tan rã thì cả bên trong lẫn bên ngoài đều cho chúng ta sự sợ hãi, chúng ta mất hết nơi bám víu, chúng ta mất hết điểm tựa, chúng ta mất hết sự an toàn.
Bằng sự thực hành thiền định, chúng ta tự giáo dục chúng ta những gì sẽ xẩy ra trong lúc chết để chúng ta nhận diện được những sự việc gây ra ảo giác trong tâm thức chúng ta. Hãy nhận biết rằng những ảo giác này không phải tự chúng mà có được và chúng ta cũng chẳng có liên hệ gì với những đối tượng hão huyền đó, nhận biết này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tính không, về sự rỗng lặng.
Chúng ta không nên nghĩ và tin rằng “CÁI-TÔI-ĐANG-CÓ-ĐÂY” là có thật, vì chúng ta sẽ mất cái hiện hữu của chúng ta một cách rất tự nhiên. Đó là lý do tại sao trong lúc thiền, có rất nhiều người chứng nghiệm được sự mất cái tôi của họ và họ đâm ra sợ hãi. Đó là điều rất tốt, chúng ta nên sợ!
Tại sao chúng ta lại sợ khi mất một cái gì? Mất cái tôi có nghĩa là mất cái tự hữu hay mất cái ý niệm bền chắc về một cái tôi - đó là điều làm chúng ta run sợ. Cái phóng tưởng, cái vọng tưởng về một cái tôi có thật đang run sợ. Đó không phải là cái không nhị - nguyên hay cái bản tính tự nhiên của chúng ta run sợ, chính cái tâm vọng tưởng run sợ.
Bên Tây phương có rất nhiều nghĩa khác nhau về từ ngữ “Mất cái tự ngã, mất cái tôi”. Có hàng trăm lối giải thích khác nhau về chữ “Self, tôi, thằng tôi, cái bản ngã, tự ngã, ích kỷ, của tôi, tự tôi, chính tôi,... TÔI!”. Bởi vì đã có những tiền ý niệm nên chúng ta nhất định bản tính của chúng ta “Tôi là thế này!”. Chúng ta tự cho nó thường hằng bất biến, không bao giờ mất, tự có như vậy đời đời kiếp kiếp. Tương tự như vậy, khi người Thiên Chúa giáo diễn tả về linh hồn, họ đã sáng tạo nên một cái tôi, họ nghĩ, “Tôi thế này, thế kia, đây là tôi.” Họ có một tiền ý niệm rất mạnh mẽ về họ là ai, họ là cái gì. Cái “tôi ” này không hiện hữu, không có, nó chỉ là một phóng tưởng về một cái tôi của riêng anh. 
Thí dụ, khi một người tự giới thiệu họ, bằng cách nói, “tôi như vậy đó, là chồng của một bà như vậy đó” ông ta trình diện một khái niệm về cái tôi của ông ta như là một người chồng tự hiện hữu. Do đó ông ta tự coi ông ta một cách vững chắc là người chồng như vậy và ngay khi đó ông ta xây dựng, ông ta phóng chiếu hình ảnh người vợ của ông ta cũng phải như vậy. Oâng ta trình diện ông ta trong chiều hướng đó và tin tưởng rằng “vợ tôi cũng phải như vậy, một người vợ tự hiện hữu như vậy”. Kết qủa, ý niệm này đã mang đến toàn là đau khổ. Cho tới khi nào sự có mặt của tôi còn tùy thuộc vào sự có mặt của vợ tôi, sự hiện hữu của vợ tôi còn lệ thuộc vào sự hiện hữu của tôi thì khi vợ tôi mất đi tôi cũng phải mất đi! Qúy vị có hiểu không? Vậy, khi ông ta cho ông ta là một người chồng như thế nào thì ông ta cũng phóng tưởng người vợ phải như vậy. Rồi khi ông ta không được là người chồng như vậy, người vợ của ông ta không như ông ta tưởng, nó khác, nó thay đổi, nó luôn luôn thay đổi mỗi ngày, ông ta liền nổi cáu với thực tại, ông ta liền nổi sùng với sự thật.
Ngay cả những người trẻ tuổi Tây phương cũng trải qua sự lầm lạc này. Khi vừa mở mắt, họ đã hỏi, “Tôi sẽ làm cái gì ở xã hội Thụy Điển này? Tôi sẽ là một kỹ sư? một khoa học gia?...”. Họ muốn xác nhận họ với một vài cái gì đó. Họ cảm thấy, “tôi muốn một chức vụ”. Những người bạn trẻ rất là bối rối bởi vì xã hội này nói với họ, “anh phải là như thế, chị phải như vậy”. Một đàng họ tin cái này, đàng khác họ lại tin cái kia. Đúng ra, họ muốn có một cách nào đó để xác nhận họ nhưng họ không tìm ra cách nào cả, dù là một sự xác nhận tạm thời, rồi họ trở nên điên loạn. Họ dùng thuốc, họ cảm thấy mất hết hy vọng: “Tôi không xác định được tôi, tốt hơn tôi nên bỏ cuộc”. Điều này không có nghĩa là họ không có một cái tôi. Họ đã có một cái tôi rồi. Tuy nhiên, cái tôi của họ muốn xác nhận một cái khác nữa. Họ đã có một tiền ý niệm về họ là ai, nhưng họ vẫn muốn thêm nữa, một cái hay hơn để bỏ thêm vào cái kho tiền ý niệm của họ, nhưng họ đã không tìm thấy cái nào. 
Cái hình ảnh ôm giữ cái tôi như là một thực thể tự hiện hữu này rất dễ nhận ra. Không khó lắm. Ngay bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy cái hình ảnh mà chúng ta muốn là, hay cái hình ảnh về một cái tôi mà chúng ta hằng mơ tưởng. Ngay ở đây, ngay bây giờ, chúng ta hãy thử kiểm chứng xem sao. Ngay từ khi chúng ta có tiền ý niệm về hình ảnh của chính chúng ta là chúng ta bắt đầu có vấn đề. Chúng ta luôn luôn tự mâu thuẫn, “tôi vẫn chưa tốt đủ”, nguyên nhân là chúng ta đang ôm giữ. Nếu chúng ta tự kiểm điểm theo phương pháp này, chúng ta có thể hiểu được chúng ta đã bị ô nhiễm như thế nào, nó cho chúng ta biết chúng ta chưa hề chạm được sự thật. Vì chúng ta tự cho chúng ta một phóng tưởng giới hạn, một hình ảnh giới hạn nên nó trở nên một căn bản cho tất cả mọi thứ: giới hạn về tình yêu, giới hạn về trí tuệ, giới hạn về lòng từ bi... Chúng ta đã thiết lập một căn bản giới hạn cho chính chúng ta, chúng ta đã trở nên chật hẹp. Vì lý do đó, tất cả mọi thứ trong cuộc đời của chúng ta - đời sống, trí tuệ, tình yêu... - cũng trở nên chật hẹp. Bởi vì chúng ta đã tự giới hạn chúng ta chật hẹp như vậy. 
Vào lúc chết, khi mà tứ đại bắt đầu chìm thì tất cả những ý niệm thô kệch về chúng ta, về những lạc thú của chúng ta, về những sinh hoạt của chúng ta, về bạn bè của chúng ta, về an toàn, về tình yêu, về lòng từ bi,... tất cả đều tan biến hết. Đó là lý do tại sao chúng tôi nói khi mà phong đại (khí) chìm vào tâm thức, thì 80 hình ảnh u mê về cái tôi biến mất. Khi đó 80 hình ảnh này chấm dứt. Tại nội tâm, chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự vắng lặng vĩ đại, chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự trống rỗng vĩ đại, như bầu trời xanh kia; chúng ta sẽ chứng nghiệm được, sẽ kinh nghiệm được tự bên trong hoàn toàn rỗng lặng. Bình thường, chúng ta qúa bận rộn với những ý niệm ô nhiễm, với 80 hình ảnh u mê, nên không còn chỗ để nhìn thấy sự thật.
Vào giờ của tử thần, tất cả những ý niệm về nhị nguyên biến mất, nó cho phép chúng ta chạm được sự thật. Đó là tất cả những gì chúng ta sẽ kinh nghiệm được. Cũng thế, năng lượng vật chất của chúng ta thường ngày đi sai đường, lạc lối, bị ô nhiễm, bị thất thoát. Nhưng tại lúc chết, tất cả những nguồn năng lượng này được kết tụ lại một cách tự nhiên vào kinh mạch chính, kinh mạch trung tâm (shushuma) nên chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự đại lạc, sự rỗng lặng tuyệt đối. Đó là lý do tại sao mật tông thường chăm chú vào việc đưa năng lượng vào kinh mạch chính. Chúng ta đặt hết sự chú ý vào các luân xa để dẫn năng lượng vào kinh mạch chính. Mỗi khi chúng ta tập trung vào luân xa rốn (quen gọi là luân xa đan điền, hay luân xa 3 - Dg), luân xa trái tim, luân xa cổ họng, luân xa ở giữa hai chân mày, luân xa đỉnh đầu là chúng ta thẩm thấu vào thể vi tế, vào kinh mạch trung tâm, rót tất cả năng lượng vào đó, chấm dứt ngay tất cả những hướng đi sai lạc của năng lượng. Vì thế tất cả những vị hành gỉa du gìa nam (yogis) cũng như nữ (yoginis) kiểm soát năng lượng của họ bằng cách thiền đi vào kinh mạch chính, trong lúc thiền họ có những kinh nghiệm giống y như lúc chết.
Sau khi tứ đại đã chìm hẳn, hơi thở liền ngưng. Bốn linh ảnh bắt đầu xuất hiện: linh ảnh có mầu trắng, đỏ, đen và trong sáng. Bốn linh ảnh này sẽ hội tụ tại kinh mạch chính. Linh ảnh có mầu trắng phản ảnh năng lượng trắng, tượng trưng cho cha; tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được không gian bao la rỗng lặng, giống như những tia sáng trắng. Cũng như thế, mầu đỏ phản ảnh năng lượng đỏ, sẽ hội tụ vào kinh mạch chính, nó tượng trưng cho mẹ; tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được màu đỏ trong không gian bao la. Trong mật tông họ giải thích rằng trong mỗi một người chúng ta đều có những nguồn năng lượng âm dương kết hợp này, hai năng lượng này luôn luôn có trong chúng ta. Sau khi linh ảnh đỏ biến mất, linh ảnh đen sẽ xuất hiện rất ngắn ngủi.
Rồi linh ảnh trong sáng đến, có nghĩa là tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được toàn thể sự bao la vĩ đại của không gian rỗng lặng. Vào trong không gian rỗng lặng tuyệt đối này sẽ kinh nghiệm được, sẽ cảm nghiệm được sự thật tuyệt đối của sự trong sạch, cũng gọi là chứng nghiệm ánh sáng trong suốt. Trong cả thời gian kinh nghiệm ánh sáng trong suốt này tâm thức của người chết sẽ không còn biết được bất cứ một cảm giác trần tục nào nữa. Sẽ không còn một chút ý niệm nào về một người đàn bà đẹp, một người đàn ông lịch sự của Thụy điển, cũng chẳng còn một tiệm buôn bán nào ở đây; cũng không còn một buổi hội họp nào trong tòa nhà Liên hiệp quốc; tại giây phút đó không còn một chút gì bận bịu của Thụy điển. Trong khi kinh nghiệm ánh sáng trong suốt này, tất cả mọi hình thức của cái tôi đều tan biến hết -tôi hãnh diện, tôi tham lam, tôi ganh tị, tôi... tôi... đều tan biến. Tất cả những trầm uất, hình ảnh đen tối biến mất; tâm thức của người chết chỉ kinh nghiệm có ánh sáng trong suốt mà thôi.
Đây, đây là điều vô cùng quan trọng để hiểu. Khi chúng ta đang bị ô nhiễm, chúng ta không tỉnh thức. Chúng ta cứng nhắc, chẳng có chút uyển chuyển nào, không cởi mở, chúng ta lầm lạc, vì thế chúng ta không trong sạch. Nên tất cả những thức giác chỉ kinh nghiệm được sự đen tối. Nhưng phải hiểu rằng chúng ta vẫn trong sạch, chúng ta vẫn luôn luôn biết ánh sáng ở ngay trước chúng ta. Tôi tin chắc chắn rằng qúy vị biết điều đó, kinh nghiệm được điều đó, nhưng, vì vô minh, mà chúng ta bị ô nhiễm, chúng ta bị mù, chúng ta không còn thấy gì cả. Khi tâm chúng ta trong sạch thì ngay lúc đó ánh sáng sẽ chiếu soi. Nếu chúng ta lầm lẫn, sai lạc và không trong sạch thì những hình ảnh ô nhiễm sẽ xuất hiện ngay lập tức trong tâm của chúng ta và ngay trước mặt chúng ta. Đây là một điều vô cùng quan trọng mà chúng ta phải hiểu, phải biết. 
Khi chúng ta cảm thấy u uất, nặng nề ở bên trong là tâm của chúng ta không còn hoạt động. Ngay khi chúng ta cảm thấy đời sống của chúng ta tràn đầy u tối, mặc dù chúng ta có đi ra ngoài trời trong sáng kia chúng ta cũng chẳng thấy gì, chỉ thấy một mầu đen tối. Nhưng khi tâm hồn trong sáng thoải mái, dù bầu trời có âm u chúng ta cũng vẫn cảm thấy tươi vui. 
Càng bối rối, lầm lẫn trong cuộc đời, càng xác định được những phản ảnh trong cuộc sống. Cũng giống như vậy, nội tâm càng trong sạch an tịnh, ngoại cảnh càng an vui, hạnh phúc. Nó không phải là kinh nghiệm của thiền định mà là những cảm nhận trong cuộc sống. Mỗi khi chúng ta xuống tinh thần, rất tiêu cực, chúng ta có thể nhìn thấy một cách rất dễ dàng đời sống ở bên ngoài cũng phản ảnh như vậy. Nhưng khi tâm hồn lành mạnh, trong sáng thì những cảnh sống ở bên ngoài cũng dễ dàng vui tươi, cũng xẩy ra trong sáng. Đó là điều quan trọng nhưng rất dễ hiểu. Nó không qúa cao, nó không khó hiểu. Nó rất dễ cảm nhận. Chúng ta đang nói về tiêu cực và tích cực, vui và buồn, phải chăng đây là công việc của chúng ta? Công việc của chúng ta là cố gắng trở lên tích cực, vui tươi và có thể thực hành được; vậy hãy cố gắng phân tích lãnh vực này, làn sóng này.
Chúng ta đã đọc tiểu sử của rất nhiều Lạt ma, họ luôn luôn có những linh ảnh trong sáng về các vị thần linh, như Phật, Văn Thù Sư Lợi, Quan Thế Âm... Họ luôn luôn có những linh ảnh trong sáng này xuất hiện ra với họ. Nhưng chúng ta lại luôn luôn có những hình ảnh tức giận, tham lam, ganh ghét hoặc vô minh xuất hiện. Mặc dù chúng ta là người nhưng có những người luôn luôn có những linh ảnh trong sáng, có những người lại luôn luôn thấy những hình ảnh đen tối. Chẳng có gì qúa phức tạp trong vấn đề này, rất dễ hiểu.
Nếu chúng ta chú trọng và nhận xét thật kỹ vào những kiểu mẫu mà chúng ta thường có, thường gặp như những linh ảnh, âm thanh, hình ảnh... xuất hiện ra trong tâm thức chúng ta thì chúng ta có thể phân tích được những giấc mơ và những hình ảnh đó. Điều này không khó lắm khi chúng ta muốn tìm hiểu ý nghĩa của những gì xuất hiện trong tâm của chúng ta. Đó là việc ích lợi nếu chúng ta phân tích nó. Đây là điều vô cùng quan trọng để chúng ta học hỏi về nghiệp. Mặc dù chúng ta vẫn nói: “nghiệp như thế này, thế này...” ‘nghiệp như thế này, thế này’ không gây được sự chú ý ở chúng ta, nhưng khi kinh nghiệm được nghiệp, chúng ta sẽ làm chủ được sự hiểu biết, chúng ta sẽ làm chủ được sự tỉnh thức, chúng ta sẽ làm chủ được tâm thức của chúng ta về bất cứ sự việc gì sẽ xẩy ra cho cuộc đời của chúng ta, trong từng ngày từng tháng - nó sẽ giúp chúng ta hiểu được nghiệp.
Chúng ta đã được nghe, có rất nhiều đại thiền gỉa vẫn còn ở trong tình trạng thiền định mặc dù ông ta đã chết. Khi họ đạt tới trạng thái kinh nghiệm ánh sáng trong suốt, vị hành gỉa ở ngay trong đó. Họ có thể ở trong trạng thái đó cả ngày, cả tuần hay có khi cả tháng. Vì thế, mặc dầu hơi thở đã ngưng nhưng họ vẫn còn sống cho nhiều tháng nhiều tuần. Cho tới khi nào họ còn ở trong trạng thái thiền định là họ còn sống, họ chưa chết.
Vậy, điều quan trọng cho những thiền giả Thụy Sĩ là hãy thay đổi luật nhân quyền của họ. Nhưng họ cần xin phép chính quyền Thụy sĩ ! - “Ngài có ý nói gì khi ngài nói ‘xin phép để thiền?’ Chúng tôi không cần, chúng tôi đã có phép rồi” - Sau khi chết, đừng đụng chạm vào thân xác của những thiền giả cho đến khi năng lượng thoát ra khỏi mũi của họ hay bất cứ phần nào trên thân thể của họ. 
Có một số Lạt ma lại nói rằng kinh nghiệm ánh sáng trong suốt là kinh nghiệm tính không; người khác lại cho rằng đó là kinh nghiệm tính không giả, nó không phải là kinh nghiệm tính không thật. Họ tranh luận về điểm này. Vậy, làm thế nào người ta có thể nói họ kinh nghiệm được tính không? Có lẽ không phải việc của chúng ta để tranh cãi về kinh nghiệm được tính không hay là không kinh nghiệm được nó. Công việc của chúng ta là chấm dứt những ý niệm cứng ngắc và những u mê. Ở ngay cái giây phút chúng ta kinh nghiệm được không nhị - nguyên hay không có một cái tôi hiện hữu, thế là đủ rồi. Vậy chúng ta không nên tranh luận.
Chúng ta có thể nói với nhau, theo kiểu thông minh hóa, tôi có thể hỏi, “Kinh nghiệm của anh về tính không là gì?” Anh có thể trả lời, "Ô, kinh nghiệm của tôi về tính không là lúc tôi không có bạn trai, bạn gái hay không cần một thỏi sô cô la”. Tôi hỏi lại: “Tại sao?” và cuộc tranh luận bắt đầu, “Không cần một thỏi sô cô la, đó không phải là tính không”. Ta có thể tranh luận kiểu khác, “Không có vấn đề gì về chính trị - đó là kinh nghiệm của anh về tính không. Hừm. Đó không phải là tính không”. Chúng ta có thể tranh luận bằng bất cứ một cách nào. Có thể tôi đang cố gắng thuyết phục anh rằng đó không phải là kinh nghiệm về tính không.
Bây giờ, với sự thực hành, chúng ta đang xây dựng một kinh nghiệm về tính không từ cái - không - là - gì cả. Chúng ta cần phải xây dựng kinh nghiệm về tính không. Chúng ta cần phải xây dựng một chút kinh nghiệm về tính không - từ kinh nghiệm tính không thời trẻ con, kinh nghiệm tính không thời thanh thiếu niên, kinh nghiệm tính không thời trung niên, kinh nghiệm tính không thời lão niên, đến một kinh nghiệm tính không vĩ đại. Chúng ta đang nói về kinh nghiệm, không phải về sự thông minh. Có rất nhiều người nghĩ tính không phải như thế này thế kia, nên khi họ có kinh nghiệm tính không họ bảo nó không đúng! Đó chỉ là cách thông minh hóa tính không mà thôi. Đó không phải là lối trình bày mạch lạc về một kinh nghiệm. Sự mạch lạc có nghĩa là chúng ta bắt đầu từ từ, từ từ, từ từ. Chúng ta xây dựng từ từ mỗi lúc một chút kinh nghiệm về tính không và giảm bớt đi, giảm bớt đi những ý niệm cứng nhắc. Vì thế, tại sao nói về tính không một cách thông minh và thực sự kinh nghiệm tính không hoàn toàn khác nhau.
Ngay tại lúc kinh nghiệm về ánh sáng trong suốt ngưng, là có sự xuất hiện ngược lại. Người chết báét đầu thấy mầu trắng, đỏ rồi đen rồi ánh sáng trong. Bây giờ, khi ánh sáng trong ngưng thì mầu đen hay mầu tối sẽ khởi lên. Rồi từ mầu tối này, chuyển qua mầu đỏ rồi trắng, rồi tất cả các ảo ảnh đều xuất hiện.
Bây giờ chúng ta bắt đầu nói về thân trung ấm (bardo) Đừng vội vàng, đừng hối hả, tôi muốn qúy vị hiểu vấn đề này một cách thật rõ ràng, thật trong sáng. Trong tiến trình của sự chết, ngay tại thời điểm kinh nghiệm ánh sáng trong suốt ngừng, chừng một giây, chúng ta liền trở thành thân trong thân trung ấm. Chúng ta sẽ kinh nghiệm mầu đen, đến mầu đỏ rồi chuyển qua mầu trắng. Cái tôi của chúng ta cũng hiện diện ở đây. Trong cái trạng thái đầy ô nhiễm này, nếu chúng ta chú ý và nhạy cảm chúng ta sẽ thấy một vài loại mầu sắc nữa. Thí dụ, nếu lòng tham hay sự ganh ghét nổi lên mạnh bạo thì nó sẽ chế ngự mầu sắc khác. Vì thế chúng ta nên để ý đến những loại hình ảnh này. Kinh nghiệm trong tiến trình của sự chết cũng giống như trong lúc ngủ. Tiến trình này không chỉ xuất hiện trong lúc chết mà nó còn xuất hiện trong lúc ngủ hay lúc chúng ta bị ngất xỉu. Mỗi khi chúng ta bị kích thích mạnh, chúng ta cũng có những kinh nghiệm như lúc chết. Chúng ta nên thận trọng. Mặc dầu chúng ta đã có những kinh nghiệm về sự chết rất nhiều lần nhưng chúng ta đã không biết, đã không có đủ sự chú ý để nhận biết nó. Nên chúng ta đã không hiểu được những kinh nghiệm riêng của chúng ta. 
Như chúng ta thấy đó, tiến trình của sự chết không có gì là bất thường hoặc qúa xa lạ. Chúng ta đã trải qua rất nhiều lần, mỗi khi chúng ta đạt đến một cực điểm là chúng ta có kinh nghiệm về sự chết. Đã từng có những nguyên tố trong người bị chìm mất mà chúng ta không biết bởi vì chúng ta còn đang mải mê trong vô minh mà không để ý đến chúng. Nếu chúng ta có nhạy cảm và thực sự theo dõi từng hành động của chúng ta, chúng ta sẽ nhận biết được những sự chết này xẩy ra trong đời sống thường ngày của chúng ta. Chúng ta đã từng có kinh nghiệm, ngay cả trước khi biết đến thiền.
Chúng ta đã từng có rất nhiều kinh nghiệm qúi gía, thực sự là như vậy. Tôi không nói rằng chúng ta là những đại thiền gỉa nhưng tất cả chúng ta đã từng có những kinh nghiệm qúi báu. Thật là quan trọng để biết được những điều này, thật là quan trọng để chú ý đến chúng và cũng thật là quan trọng nếu gợi lại được những kinh nghiệm qúi gía này. Như thế, chúng ta sẽ tự tin hơn và đời sống tâm linh của chúng ta cũng sẽ lớn mạnh hơn. Chúng sẽ giúp chúng ta hơn. Nếu không được như vậy, chúng ta đã tiêu phí, đã vất đi biết bao nhiêu điều gía trị vào thùng rác như những người Thụy điển vất rác đi mỗi ngày. Thật là hoang phí. Chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm tâm linh mà chúng ta cứ vất đi, trong khi đó chúng ta lại đem vào người, khoác vào người những chiếc mền nặng nề trong từng giây phút. Cái gì chúng ta là, cái gì chúng ta kinh nghiệm được, chúng ta không thể mua được bằng tiền; chúng là giá trị quí giá của chúng ta. Nhưng thay vì như vậy, chúng ta lại cố gắng quên chúng đi, vất chúng đi mà đi khoác vào người những cái mà không phải là chúng ta - thật là điên cuồng!
Bây giờ, tốt hơn, chúng ta hãy trở về công việc của chúng ta. Hãy quán tưởng chủng tử OM AH HUM. Hãy cố gắng quán tưởng chủng tử OM mầu trắng đang ở trong giữa khối óc của chúng ta. Hãy nhận thức rằng chủng tử trắng OM là nguồn năng lượng tinh khiết của những lời nói thánh thiện, âm thanh thánh thiện và thân thể thánh thiện của chư Phật, chư Bồ Tát hay của bất cứ vị nào mà chúng ta nghĩ rằng thanh tịnh. 
Sau khi tụng âm OM, hãy tưởng tượng những tia sáng trắng đầy năng lượng OM đang tràn vào thân thể của chúng ta, rồi vào kinh mạch chính của chúng ta, thấm nhập hết vào thân thể chúng ta. Như vậy tất cả những ý niệm, tất cả những nguồn năng lượng bị ô nhiễm của thân xác sẽ được thanh tẩy trọn vẹn. Toàn thể thân xác của chúng ta từ đỉnh đầu đến ngón chân, ngón tay đều được thấm nhuần sự an tịnh, sự an lạc của những tia sáng trắng này. Hãy cảm nhận như vậy. Hãy tụng âm OM khoảng hai đến ba phút trong lúc thiền để thanh tịnh thân xác. Ngay sau khi ngưng tụng mật chú OM, hãy chỉ tỉnh thức, đừng nghĩ đến tốt hay xấu, không phản ứng gì cả, không đối thoại (ở nội tâm) gì cả, hãy dành tất cả sự chú ý vào ánh sáng tâm thức tại giữa não bộ. Hãy ở đó. Hãy chỉ tỉnh thức, rồi ra đi - mà không một chút trì trệ, xao lãng nào cả.
Trước khi chấm dứt bài giảng này, chúng ta hãy cùng nhau thiền một chút. Không cần phải gò bó, hãy tự nhiên, hãy thực sự thoải mái, hãy để cho năng lượng trôi chảy tự nhiên, hãy chỉ là. Hãy để cho năng lượng của hơi thở được tự nhiên luân chuyển. Đừng nghĩ rằng chúng ta đang thiền, đừng nghĩ rằng chúng ta là một thiền gia. Đừng nghĩ chúng ta là một người khiêm tốn. Đừng nghĩ chúng ta là người chấp ngã. Đừng nghĩ bất cứ một cái gì, một vấn đề gì. Hãy chỉ là ! Hãy chỉ đang là ! 
Hãy để hai tay của qúy vị ở vị trí nào cũng được, sao cho thật thoải mái; hãy nhắm mắt lại. Hãy quán tưởng chủng tử trắng OM đang ở trong óc của chúng ta. Tụng âm OM liên tục trong khoảng ba phút. Đồng thời, từ OM, nguồn năng lượng an lạc Kundalini (nguồn tâm hỏa trong người, có nơi còn gọi là con hỏa xà, bình thường nó ngủ tại luân xa 1 - Dg) ) đang tràn lan khắp thân thể chúng ta, đi đến đâu nó thanh tẩy tất cả những ô nhiễm đến đó. Hãy quán tưởng toàn thân thể của chúng ta đang tràn ngập ánh sáng. Đây là việc làm vô cùng quan trọng. Tất cả đều tràn ngập những tia sáng năng lượng. Năng lượng sáng này giúp chúng ta phá đổ tất cả những ý niệm nhị nguyên kiên cố kết tụ lâu đời lâu kiếp ở chúng ta.
Sự tỉnh thức dẫn chúng ta đến trạng thái zero, không còn bản ngã, trống không, vắng lặng, không. Hãy tỉnh thức, rồi hãy ra đi.

Theo quan niệm của Phật giáo thì tất cả những lầm lạc, ảo ảnh và ô nhiễm này đều bắt nguồn từ ba nguyên nhân, từ tam độc: tham, sân và si.
Tất cả những ảo ảnh đều từ ba độc tố này mà ra. Nếu chúng ta không có ba độc tố này thì chúng ta sẽ không có bất cứ một vấn đề nào trong lúc chết. Nếu được như vậy thì chết sẽ là một sự bình an, một đại lạc. Đó là điều quan trọng. Chúng tôi diễn tả sự chết là sự nhận chìm, là sự thẩm thấu của tứ đại, khi chúng chìm đi chúng để lại những ảo ảnh. Chỉ có những người nào bị tam độc hành hạ mới có những sự mất cân bằng khi tứ đại ra đi. Tứ đại chìm đi có nghĩa là tứ đại không còn cân bằng. Trong kinh thư của Tây tạng danh từ đất, nước và lửa “chìm”, nhưng thực ra chúng không chìm vào nhau. Theo danh từ khoa học, nó bị suy đồi hay bị mất cân bằng. Như vậy, khi một “đại” biến mất là một ảo ảnh xuất hiện, một “đại” khác tan biến là một ảo ảnh khác xuất hiện.
Nguyên nhân thoái hoá của những năng-lượng-không-cân-bằng trong cơ thể là tam độc. Sách y khoa của người Tây tạng giải thích rằng lòng ham muốn sản xuất ra “lung”. Có nghĩa là khí không còn cân bằng. Một khi lòng tham dấy lên là khí trong người không còn đều hoà, nó làm cho hơi thở trở nên nặng nề khó luân chuyển.
Lòng sân hận ganh ghét sản xuất ra mật đắng. Vô minh sản xuất ra TB (ho lao). Lòng tham lam vô độ sản xuất ra xung khí, nó có ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Lòng thù hận sản xuất ra qúa nhiều mật đắng có hại cho hỏa đại. Vô minh sản xuất ra nước. Nếu năng lượng trong người mà hoạt động mạnh qúa, hoạt động qúa sức, nó sẽ kích động mạnh tứ đại làm cho con người xáo trộn, kết qủa là sẽ có nhiều lầm lẫn, lộn xộn xẩy ra. Sự thắng thế của một đại trong tứ đại sẽ tạo nên một sự mất thăng bằng trong cơ thể, nó có thể giết chúng ta. Khí lực (phong đại) trong cơ thể của chúng ta là nguồn sinh khí phải không? Nhưng khi nó không còn cân bằng, nó sẽ trở thành tử khí. Cũng vậy, trái tim của chúng ta, sức ấm của chúng ta, cũng là những nguồn sinh lực, nếu nó bị thất thoát cũng sẽ gây ra rất nhiều phiền phức. 
Chúng ta cần nước, phải không? Nhưng nếu có qúa nhiều nước, chúng ta cũng bị chết. Vì thế, nếu tứ đại cân bằng với nhau ở trong cơ thể của chúng ta thì chúng ta sẽ có sức khỏe tốt. Nhưng khi một trong tứ đại này mất cân bằng là toàn thể con người bị ảnh hưởng, bị xáo trộn. Đó là sự thật, sự thật về con người của chúng ta.
Rất nhiều người Tây phương đã đọc cuốn Tử Thư Tây Tạng, trong đó diễn tả rất nhiều cảnh kinh khủng, như có nhiều người đến tay cầm dao búa, nhiều người xông đến để chém giết chúng ta. Họ rất là hung dữ, tàn bạo. Đó chính là lòng ham muốn của chúng ta đã sản xuất ra những hình ảnh kinh khủng này.Tôi tin vào sự kiện này, bởi vì trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta đã tích tụ biết bao nhiêu là âm lực (năng lượng âm), biết bao nhiêu là điều không đúng sự thật và biết bao nhiêu lớp mền xấu xa nặng nề từ khi sinh ra đến bây giờ, cộng thêm với những kiếp trước nữa nữa. Cuộc đời của chúng ta hầu như chỉ để sản xuất ra những sai lầm và u mê?
Có những danh ca đã bán được rất nhiều đĩa nhạc trên khắp thế giới, nếu chúng ta xếp những đĩa nhạc này chồng lên nhau, có thể nó sẽ cao gấp hai lần núi Hy Mã Lạp Sơn. Giống như vậy, những sản phẩm của chúng ta về chiếc mền nặng nề cũng có thể cao gấp ba, gấp bốn lần dãy Hy Mã Lạp Sơn. Do đó, vì những dấu ấn lầm lẫn mà chúng ta đã có, đã tích tụ, đã in sâu vào tâm thức của chúng ta từ muôn vàn kiếp nên chúng ta sẽ thấy, sẽ kinh nghiệm được tất cả những thứ này trong tiến trình của sự chết.
Thí dụ trong thế giới Tây phương, mỗi khi chúng ta nghe một người mắc bệnh ung thư, thì, “ Bị ung thư - hãy đi vào nhà thương”. Chúng ta có thể tưởng tượng được bệnh nhân sẽ như thế nào trong những ngày tháng nằm ở nhà thương không? Mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều sách nói về cảnh địa ngục, Một sự đau khổ bất thường. Một sự đau đớn hơn bất cứ một sự đau đớn nào, hơn cả một con vật. Đôi khi chúng ta ý thức được, nhưng rồi chúng ta lại không ý thức và tiến trình của sự chết lại lặp lại.
Thật là khủng khiếp, đây chính là kinh nghiệm cảnh điạ ngục. Nó giống y hệt ở thân trung ấm. Một hình ảnh hung dữ xuất hiện. Chính là tử thần. Nó muốn nuốt tươi chúng ta. Đây chính là con ma đói của chúng ta.
Điều quan trọng là hãy cố gắng giữ sự trong sạch càng nhiều càng tốt. Mỗi một ngày nên cố gắng giữ sự trong sạch càng nhiều càng tốt. Hãy giữ chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng trong sạch, đừng tạo thêm ô nhiễm qua thân khẩu và ý của chúng ta nữa. Như vậy sẽ không có vấn đề gì xẩy ra cả. Tâm chúng ta cân bằng thì thân thể chúng ta cũng cân bằng, như vậy chúng ta sẽ tránh được bệnh tật.
Khi sự rối loạn, sự lộn xộn xẩy đến trong lúc thiền, hãy coi chúng chỉ là những ảo ảnh không có thật. Cũng như thế, trong tiến trình của sự chết chúng ta coi những hiện tượng xẩy ra đều không có tự tính và không thật nên chúng ta sẽ bớt sợ hơn, sẽ vững tin hơn. Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của chúng ta đặt trên những hiện tượng xẩy ra. Nếu qúa sợ hãi, chúng ta sẽ mất hết sự kiểm soát, sự tự chủ. Nếu một hiện tượng xuất hiện ra mà chúng ta có ý chí mạnh để đối diện với chúng thì chúng ta sẽ dễ dàng kiểm soát được hoàn cảnh.
Thí dụ, một người không thể nào chịu đựng nổi một cơn bệnh trầm trọng, một sự nhiễm trùng nặng nề hay không thể nào đương đầu với sự thất bại thảm thiết. Họ không thể nào giữ cho họ được thanh thản, được an tĩnh trước những cơn khủng khoảng này. Nhưng nếu một người chết một cách tự nhiên, không vì cơn bệnh trầm trọng, không vì sự trầm uất thì họ sẽ dễ dàng giữ cho họ được an bình hơn, được sáng suốt trong giờ phút quan trọng này hơn. Chúng ta có thể nhìn được điều này. Nói rõ hơn, cấp độ tự chủ, cấp độ tỉnh thức, cấp độ sợ hãi trong tiến trình của sự chết hoàn toàn tùy thuộc vào sự nặng nhẹ của tham sân và si.
Chúng ta có thể thắc mắc, làm sao lại tham lam trong lúc chết được. Lòng tham lam đến từ tâm. Ngay cả trong lúc tỉnh, cuộc sống của chúng ta bị dẫn dắt bởi những tư tưởng tham, chiếm hữu, tranh giành, muốn. Trong lúc chết, thân xác của chúng ta thì đóng lại nhưng tư tưởng vẫn tiếp tục đến, vẫn nuối tiếc dĩ vãng vẫn níu kéo tương lai. Giống như trong lúc mơ. Tư tưởng tham cũng như vậy. Nó rất mạnh, vì thế ngay trong lúc thân xác bắt đầu lạnh, ngay trong lúc thân xác không còn cử động, tam độc cũng vẫn làm việc mãnh liệt ở bên trong.
Hạnh phúc thay những người chết một cách tự nhiên, một cách nhẹ nhàng mà không bị những chiếc mền nặng nề lôi kéo. Phúc đức cho họ là họ còn tỉnh thức, còn tự chủ, còn trong sạch. Do đó, khi tứ đại chìm đi, để lại những ảo ảnh dữ tợn họ vẫn tỉnh thức để nhận diện chúng là ảo, là gỉa, không có thật. Họ không có một ý niệm gì về một tự tính của thủy đại, của hỏa đại... vì thế họ còn tự chủ. Và rồi từ từ, từ từ từng “đại” chìm đi, thẩm thấu đi, rồi chúng sẽ trở nên trong sáng hơn, trong sáng hơn và hợp nhất hơn giữa vô tự tính và vô nhị - nguyên tính. Và rồi chúng sẽ từ từ được dẫn đến tình trạng ánh sáng trong suốt. Tình trạng này sẽ hoàn toàn giúp đỡ chứ không gây một trở ngại nào. Nó giúp người chết hoà nhập trong sự thật, trong nhất thể. Vì thế, có điều lợi và cũng có điều bất lợi.
Chúng ta không nên quá lo lắng và sợ hãi chết sẽ khó khăn, sẽ tái sinh là súc vật, beo, cọp, lừa, khỉ hay vào ba cõi thấp nhất. Tôi nói rằng chúng ta không nên sợ hãi lo lắng bởi vì chúng ta có lòng từ bi, chúng ta nên phát triển lòng từ bi. Người nào có lòng từ bi với tất cả chúng sinh tại lúc chết thì sẽ không bao giờ sợ hãi bất cứ một cõi nào cả. Với tình thương bao la thì không thể nào vào ba cõi thấp được.
Thanh tẩy có nghĩa là thanh tịnh tâm không được kiểm soát, tâm không tỉnh thức và những lời nói phát ra từ miệng có liên hệ hoạt động đến những người khác, vật khác, sự kiện khác... Lời nói tiêu cực, lời nói xấu sẽ làm người khác đau khổ vì sự không thành thật, vì vu cáo hay vì phỉ báng. Tâm trong sáng, lời nói thành thật, lời nói được kiểm soát là phương cách thanh tẩy ngôn ngữ không trong sáng và không được kiểm soát.
Vậy hãy quán tưởng chủng tử đỏ AH. Mầu đỏ AH này giống như mầu đỏ của mặt trời lúc hoàng hôn. Hãy quán tưởng những tia sáng mầu đỏ AH tại luân xa ở cổ họng của chúng ta. Toàn thân thể chúng ta được tràn ngập, được bao bọc bởi những tia sáng năng lượng an tịnh này. Trong cùng lúc đó hãy tụng âm AH nhiều lần, và cũng như lần trước, hãy chỉ là trong tình trạng tỉnh thức của chính tâm mình. Hãy chỉ đang là! Hãy an trú trong đó mà không khởi lên bất cứ ý tưởng nào, không diễn dịch, không đối thoại. Hãy chỉ là như vậy, hãy chỉ là chính sự tỉnh thức.
Hãy thẩm thấu kinh nghiệm vô nhị - nguyên, vô tự tính của bản ngã, vô, không, zero, không gian rỗng lặng như sự thật, như thực thể, trống rỗng, lặng thinh. Nguồn năng lượng vô biên này đang thấm nhập vào chúng ta.
Một sự thẩm thấu mạnh mẽ. Kinh nghiệm này thực tế hơn những cảm giác mơ hồ từ những giác quan của chúng ta. Nếu có một tư tưởng không được kiểm soát đến quấy nhiễu, như ở trong thân trung ấm (bardo), hãy coi như không phải chỉ xẩy ra cho riêng anh mà nó xẩy ra cho tất cả mọi chúng sinh, tất cả mọi chúng sinh đều có tình trạng này. Hãy phát triển tâm bình đẳng và lòng từ bi, lòng yêu thương đến tất cả muôn loài. Hãy dành tình yêu thương cho tất cả muôn loài.
Tâm không tỉnh thức, tâm rối loạn là nguồn phát ra năng lực yêu thương. Khi lòng yêu thương dâng trào, hãy hướng tất cả những năng lực tình yêu này vào tâm thức của chúng ta.
Vậy, có hai vấn đề: hãy đặt sự tỉnh thức vào tâm của chính chúng ta hay khi có sự rối loạn, sự bất an xẩy ra, hãy chú ý hướng năng lực tình yêu vào tâm thức của chính chúng ta. Hãy luân phiên thay đổi hai sự kiện này.
Kế tiếp, năng lực tình yêu của chúng ta sẽ thị hiện trong kinh mạch chính (shushuma) tại luân xa trái tim của chúng ta như là một vầng trăng sáng tròn đầy. Hãy quán tưởng tại trái tim, trên một vầng trăng, có những tia sáng mầu xanh của chủng tử HUM. Đây là năng lượng trí tuệ vô nhị-nguyên của chư vị Phật và chư vị Bồ Tát. Trái tim của chúng ta hoàn toàn trong sạch, an tịnh, được mở ra bởi những tia sáng của vầng trăng và chủng tử HUM. Những tia sáng xanh vô tận đang phát ra từ HUM. Tất cả những tư tưởng chật hẹp, nông cạn đều phải tan biến đi. Tâm bấn loạn, tâm không an tịnh đang từ từ chuyển hóa, đang từ từ tan biến. Tâm chiếm hữu, tâm bám víu đang từ từ tan biến.
Từ chủng tử HUM và từ vầng trăng có những tia sáng đang dần dần lan toả ra khắp thân thể chúng ta. Thân thể tràn ngập sự an lạc. Tâm nhị nguyên đang được tràn ngập bởi những làn ánh sáng xanh vô tận.
Trong lúc này hãy tụng âm HUM khoảng hai, ba phút. Sau hai phút này, hãy cảm nhận những làn sáng xanh, như tâm thức của chúng ta, đang bao trùm khắp vũ trụ. Sự tỉnh thức của chúng ta đang bao trùm khắp vũ trụ. Hãy cảm nhận và hãy là, mà không có một chút diễn dịch hay suy đoán nào.
Vậy, chúng ta cần có hai kinh nghiệm: trí tuệ và phương pháp. Kinh nghiệm trí tuệ là sự tỉnh thức của thực tại tâm thức của chúng ta. Đây là con đường trí tuệ. Phương pháp là mỗi khi chúng ta rơi vào trạng thái mù mờ, mất kiểm soát: chính kinh nghiệm bấn loạn này là căn nguyên tạo ra lòng từ bi và khi sự rối loạn ra đi hãy an trú ngay vào trí tuệ. Nhắc lại hai sự việc là: khi không có vấn đề, hãy chú ý vào trí tuệ; khi bị rối loạn, hãy dùng phương pháp, phát triển lòng từ bi. Như thế, chúng ta có hai công việc phải làm mỗi ngày.
Hãy thường tụng niệm câu mật chú OM AH HUM. Khi không tiện để tụng dài (ngân dài) câu mật chú này, hãy đọc đơn giản OM AH HUM. Nó cũng đại diện cho cả câu mật chú. Đặc biệt khi tụng âm OM, âm này sẽ đánh thức tất cả mọi hiện tượng, tất cả mọi cõi giới trong vũ trụ; sự tỉnh thức được kích thích, nó sẽ đánh thức tâm thức của chúng ta.
Điều vô cùng quan trọng là bằng mọi cách, chúng ta phải thực sự đi vào tình trạng trong sáng, không phải chỉ dùng trí thông minh mà thôi. Với những kinh nghiệm trong thiền định, chúng ta có thể thay thế, chúng ta có thể cấy sự tỉnh thức của chúng ta vào trong tâm thức của chúng ta thay vì để nó bị rối loạn hoặc ù lì. Được như vậy là đủ tốt rồi. Cấy sự tỉnh thức vào trong tâm thức là phương pháp của Phật giáo, như là thiết lập một hỏa tiễn nguyên tử. Hướng sự tỉnh thức vào trong tâm thức của chúng ta cũng như thiết lập một giàn hỏa tiễn nguyên tử để phóng vào không gian vô nhị-nguyên. Chúng ta hãy tự “thiết lập”, đừng bắt chước theo cách này hay cách kia. Chỉ đặc biệt chú ý vào sự tỉnh thức hay vào chính tâm thức của chúng ta, hệ thống hỏa tiễn nguyên tử nội tại sẽ được kích hỏa, hay sẽ được sửa chữa, để phóng vào không gian vô nhị - nguyên.
Nói một cách khác, nếu chúng ta thành thật quyết tâm thiền định theo phương pháp này, tôi bảo đảm với qúy vị, nếu cần tôi ký giấy bảo đảm cũng được, qúy vị sẽ có kinh nghiệm về gía trị của vô nhị-nguyên. Để giải thích thêm một lần nữa: khi chúng ta chứng nghiệm được vô nhị-nguyên, được tính không, thì ngay tại lúc đó, hãy có một sự tỉnh thức mãnh liệt, một sự chú ý mãnh liệt, và hãy có một sự lãnh hội sâu xa về nó. Đó là sự thật. Đó là thực thể. Đừng “hỏi và nêu nhiều ý kiến”, đừng thắc mắc “cái này, cái kia”, hãy xây dựng, hãy phát triển một sự mãnh liệt mạnh bạo ở bên trong. Tôi không biết phải diễn tả qua ngôn ngữ như thế nào. Nhưng bằng bất cứ một cách nào đó ở tận bên trong, sức mạnh nội tâm ở sâu thẳm bên trong sẽ thấu hiểu được, sẽ lãnh hội được sự tỉnh thức của tâm là một thực tại, là chính thực thể, sự tỉnh thức chính là thực tại.
Tại sao lại phải đặc biệt chú ý đến việc cần phải có một sức mạnh lãnh hội này? Thông thường chúng ta nghĩ rằng tất cả những ảo giác là sự thật rồi bám víu vào chúng, vồ chụp chúng. Nhưng khi chúng ta kinh nghiệm được, chứng nghiệm được vô nhị-nguyên, chúng ta liền hiểu ngay rằng đó cũng chỉ là những thói quen của chúng ta, chính những thói quen này làm chúng ta tin tưởng vào những ảo giác là sự thật, là vững vàng. Vì thế những kinh nghiệm nội tâm là một cái gì đó không có thực, đó chỉ là sự đảo ngược của tư tưởng. Qúy vị đang nghe tôi đấy chứ? Đó là lý do tại sao cần phải có sức mạnh, cần phải mãnh liệt!
Thính giả: Chúng ta có thể giúp người đang chết như thế nào?
Lạt ma: Tùy thuộc vào căn bản hiểu biết, tôn giáo, kiến thức... của người đang chết. Nhưng dù họ có bất cứ kiến thức nào, theo bất cứ tôn giáo nào, việc quan trọng là chúng ta cần đánh thức họ, kích thích họ tỉnh thức. Điều vô cùng quan trọng là chúng ta không nên chọc tức họ. Khi họ sẵn sàng ra đi, hãy để họ một mình. Đừng cố gắng nói gì cả, như “dùng thuốc đi” hay “hãy ký vào đây”. Một điều vô cùng trở ngại cho người chết là sự khóc lóc, than vãn, như “Trời ơi, anh sắp chết rồi.
Thí dụ, tôi là ông bố sắp chết của anh, anh đến bên tôi, anh khóc: “Bố ơi, nếu bố chết, con sống làm sao đây?”. Như vậy tôi bị quấy rầy qúa làm sao tôi có thể tập trung vào tình trạng của tôi trong lúc này. Do đó, hãy để cho người ta ra đi, được không? Đừng gây xúc động qúa, đừng gây tức bực qúa, đừng quấy rầy qúa; hãy để họ được bình an, yên tĩnh. Đó là điều vô cùng quan trọng. Càng cho họ niềm tự tin càng tốt. Hãy cố gắng khuyên họ, như: “Khi anh chết, anh sẽ hạnh phúc lắm, đừng lo lắng gì cả, tất cả mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Đây là lúc tốt nhất để ra đi. Chúc anh lên đường bình an”. Bất cứ một cái gì kích thích lòng ham muốn, lòng bám víu, lòng ganh ghét, lòng thù hận, lòng luyến tiếc đều không tốt, đều tai hại cho họ. Sự yên tĩnh, một bầu không khí an lành là tốt đẹp nhất.
Nếu họ là một tín đồ Thiên Chúa giáo, hãy nói với họ, “Anh hãy yên tâm, Chúa sẽ săn sóc anh, anh là người có diễm phúc, anh sẽ được vào thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa”. Một hành động tích cực trong lúc này là sự cần thiết, bởi vì mặc dù trong lúc này anh ta không là người sùng đạo lắm nhưng ở sâu thẳm trong tâm hồn anh ta, anh ta vẫn cần một cái gì để bám vào, cần một cơ hội để qui thuận. Vậy, khi chúng ta nói, “Jesus” hay “Chúa”, vô thức của anh ta sẽ bắt được. Đây là một việc làm tốt, tôi tin rằng chúng ta có thể giúp họ như vậy.
Có rất nhiều người Tây phương nói rằng họ chẳng có gì để làm với tôn giáo tại địa phương họ; nhưng tôi nhận thấy rằng tôn giáo tại địa phương của họ rất có ảnh hưởng đến các sinh hoạt trong đời sống thường ngày của họ và ngay cả tinh thần của họ. Trong vô thức họ là người Thiên Chúa giáo, mặc dầu họ vẫn tự xưng “Tôi không muốn theo đạo Chúa”. Vì thế, khi vào giờ phút nguy kịch, họ không có gì để bám vào, nếu chúng ta nói, “Chúa” hay “Jesus” thì có một cái gì đó bắt được họ, chạm đến họ. Dĩ nhiên, nếu họ là Phật tử, chúng ta có thể nói: “Buddha”!
Thính giả: Chúng ta có thể làm gì cho một người đang nằm trên giường chết mà nói: “Tôi sẽ vào địa ngục”?
Lạt ma: Đúng, đó là sự thật. Thỉnh thoảng họ có thể nhìn thấy họ đang trên đường đi vào địa ngục, nên họ kêu lên “Tôi thấy tôi đang đi vào địa ngục”. Tôi nghĩ, với những người này rất khó giúp họ bằng sự thông minh của chúng ta; chỉ còn sự hy vọng. Có thể giúp họ bằng những viên thuốc an thần để cho họ an tĩnh lại thay vì tăng thêm sự lầm lẫn, sự xáo trộn, bởi vì năng lượng của họ qúa nhiều. Chỉ có cách đó mới có thể giúp họ từ từ. Ngoài ra tôi nghĩ rằng rất khó. 
Thính giả: Trong Phật giáo Thiền tông, chúng ta có những công án để giúp chứng nghiệm vô tự tính. Thí dụ, có công án như “Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?”. Công án đó giúp chúng ta được những gì trong sự chứng nghiệm tính không? Tiếng vỗ của một bàn tay - nó liên hệ đến tính không như thế nào? 
Lạt ma: Qúy vị có nhớ một lần tôi nói với qúy vị, một người chấp vợ ông ta như là một thực thể tự có và một người đàn bà chấp bạn trai của bà ta như một thực thể tự có? Thí dụ này cũng giống như vậy. Cố gắng đến gần sự thật hơn là cứ bám vào cái này hay cái kia. Quý vị vẫn nghe tôi đấy chứ? Thực ra đây là một ý niệm cứng ngắc, một tư tưởng kỳ quái. Chính phủ Thụy Sĩ tin đồng tiền Thụy Sĩ như là một thực hữu, rồi tin tưởng rằng đồng tiền Thụy Sĩ thực có này sẽ làm cho xã hội Thụy Sĩ được hoàn hảo. Nó cũng giống như vậy. Tất cả đều là vọng tưởng, tất cả đều là tưởng tượng - cái gì chúng ta giữ là thật, là tự hữu - không chạm vào sự thật được! Chúng ta cần phải đụng vào đây (hai bàn tay chạm vào nhau) mới tạo ra âm thanh (tiếng vỗ tay) được. Như vậy chúng ta cố gắng chạm vào sự thật và hãy khám phá ra rằng những ý niệm của chúng ta, những ảo tưởng của chúng ta và những ý niệm sẵn có của chúng ta cũng đang cố gắng đi đến sự thật, đang cố gắng tạo ra âm thanh - nhưng nó không tạo ra được âm thanh! Vì thế, cái không (zero) của ảo tưởng tự-có cũng sẽ biến mất. Đó là phương pháp để chứng nghiệm tính không.
Âm OM có liên hệ đến các hiện tượng, nó tác động toàn thể hệ thần kinh của chúng ta. Âm OM không thể tự nó mà có được; cũng như tiếng vỗ tay không tự nó mà có được. Tiếng vỗ tay tùy thuộc vào bàn tay, tùy thuộc vào không gian, tùy thuộc vào năng lượng (sức mạnh của hai tay) và rồi hai tay đụng vào nhau như thế này. Mỗi một âm thanh là một sự liên hệ tùy thuộc, hoàn toàn tùy thuộc vào, hoàn toàn là duyên khởi. Rồi như thế này... (hai tay vỗ vào nhau)... tạo ra âm thanh. Âm thanh tự nó không có được, nó không có tự tính. Trong Phật giáo chúng tôi thường nói về vô nhị - nguyên (bất nhị), vô tự tính. Thí dụ, khi vào trong một hang động, ta nói: “Ahhhhhh”, hang động sẽ dội lại “Ahhhhhh”.
Âm thanh là một thí dụ rất dễ hiểu về lý duyên khởi. Hiểu được lý duyên khởi thì không còn có một ý niệm về cái tôi thường hằng vững chắc nữa. Nếu chúng ta cứ chấp âm thanh này (vỗ tay) là tự có (của một bàn tay) thì nó sẽ không còn liên hệ đến những cái khác được. Hãy cố gắng hiểu cái hợp lý theo khoa học mà Phật giáo giải thích. Nếu tiếng vỗ tay mà tự nó có được (từ một bàn tay) thì không cần hai bàn tay này va chạm vào nhau và những hiện tượng cũng không có liên hệ gì với nhau. 
Lama Thubten Yeshe
Vô Huệ Nguyên (dịch)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét