"Tô son" - Hot girl Nu Phạm |
Nhưng dù còn sống hay đã mất, dù chiến đấu ở những nơi lam sơn chướng khí, hay giang hồ phiêu bạt ở quê người, các anh em ký giả, văn nghệ đó vẫn giữ được tiết tháo, không vì nghèo mà sợ kẻ giàu, không vì nghèo mà phải gục đầu với kẻ mạnh...
TIỂU THUYẾT THƯ BẢY
Báo “Vịt Đực” đóng cửa, nhiều nhân vật trong nước, nhất là bọn quan lại, bọn bợ Tây, bọn “Tây Annam” chửi đồng bào Việt Nam là “sale Annamite”, bọn nghị viên nghị hòn, bọn lai căng mất gốc, đều thở phào vì đã nhổ được một cái đanh trước mắt.
Riêng chúng tôi không tiếc lắm, vì làm được ngần ấy số báo, anh em đã thấy mệt mỏi quá rồi. Mệt mỏi vì viết bài, xoay tiền; mệt mỏi vì phải lo đối phó đủ mọi mặt với Tây và bọn chó săn gà chọi; nhưng mệt mỏi nhất là lúc nào cũng phải đề phòng, vì không có mấy khi chúng tôi không bị người ta đe dọa. Người thì dọa bắn; người thì dọa cho ăn dơ; người thì dọa cho vào bẫy rồi tống vào tù mọt gông; người thì dọa sẽ dùng lựu đạn nội hoá san bằng tòa báo. Chúng tôi sẽ còn nhớ rất lâu vụ đàn em Lý Vịt ở Bạch Mai, một đêm khoảng hai giờ, thừa lúc chúng tôi đang nghe hát ở Vạn Thái, nhảy vào sanh sự, ném dao, quăng búa, một hai định chọc tiết chúng tôi vì chúng tôi không ngớt tố cáo chúng mở nhiều sòng bạc ăn thua hàng ngàn, hàng vạn, mà viên đồn Pháp ở đấy lại thông lưng với chúng.
Tại sao chúng lại dám làm dữ như vậy?
Có nhiều phần chắc chắn là tại chúng đặt tin tưởng vào viên đồn người Pháp, nhưng chúng tôi đâu có ngán: ngay lúc ấy, một anh em nhảy qua tường, đi gọi dây nói về sở Cẩm và Mật Thám cho người đến ngay để lập vi bằng và mặt khác, chúng tôi tin ngay cho tên đồn người Pháp ở Bạch Mai biết rằng ngay sáng sớm hôm sau, chúng tôi sẽ đăng báo tất cả các vụ này và khởi tố với các cơ quan hữu quyền bọn vô danh đột nhập tại gia để giết người cướp của, và tố cáo sự bất lực của viên đồn người Pháp trong việc duy trì trật tự, an ninh.
Kết quả trái hẳn với điều mà bọn Lý Vịt hằng mong đợi: bọn “Vịt Đực” không những không lạnh mắt, hơn thế lại phản công chúng, như có thể làm mất chức ông thầy của chúng như chơi. Chúng bèn nhờ một người quen với cả hai bên đứng ra dàn xếp và tổ chức một bữa tiệc linh đình để cho bọn răng đen mã tấu hành hung chúng tôi ở Vạn Thái có dịp cúi đầu tạ lỗi. Cố nhiên không có một người nào trong bọn chúng tôi thèm tới, nhưng “đánh người chạy đi chớ không đánh người chạy lại”, chúng tôi cũng sẵn sàng tiếp riêng Lý Vịt, và bảo cho y biết là chúng tôi sẵn sàng tha thứ.
Ấy đó, ngày nào cũng sống căng thẳng như thế, chịu làm sao cho nổi. Sống như thế, một năm bằng mười năm. Bởi vậy, đóng cửa báo “Vịt Đực” vào lúc đang chạy “lẫm liệt”, chúng tôi chỉ tiếc rẻ sơ sơ: anh em trong tòa soạn, trị sự, cũng như tất cả bạn bè của báo đều thấy nhão cả người ra, có dừng bước nghỉ xả hơi cũng là nhằm lúc. Duy buồn một điều là từ đây không có tờ báo nữa, anh em ít có dịp tán gẫu và bàn tán xỏ xiên thiên hạ, cũng như Khổng Minh nửa đêm dậy nhìn trời, biết khí số mình đã tận rồi mà tiếc “trời dài đất rộng, từ đây ta không còn được ra ngoài trận địa nữa, trờ
Đây cũng là thời kỳ chấm dứt đời làm báo tập đoàn của tôi, anh em cùng chung sống với nhau ở nhà báo, giải chiếu nằm sàn gác tán chuyện đầu voi đuôi chuột, đến trưa dậy ăn cơm tập thể rồi ngủ, để chừng năm, sáu giờ thức dậy đi ăn uống, phiện phò, rồi đi hát thâu đêm.
Ít lâu sau, anh em phân tán mỗi người một ngả. Phùng Bảo Thạch, Vũ Chung, Lưu Văn Phụng, cùng Dương Tự Giáp làm tạp chí “Văn Hóa”, được chừng hai ba số thì thôi; còn tôi, không còn cách gì khác, tôi lại trở về nhà, sống như một con ốc cuộn tròn trong vỏ, đọc các tác phẩm của Dostoievsky, Simenon, Vicky Baum... Các tác phẩm của Dostoievsky ảnh hưởng đến óc tôi hết sức sâu rộng: lần đầu, lòng tôi bớt chua chát, và cảm thấy rằng chỉ có sự thương yêu và nhiều tha thứ mới đem lại một ý nghĩa cho cuộc đời. Đồng thời, tôi nhớ lại những lời mẹ nói, lúc tôi bước chân vào làng báo, và cảm thấy lòng se sắt khi nghĩ rằng trong thời kỳ qua mình đã làm bao nhiêu việc thiếu âm đức, thất nhân tâm... Một cuộc sống mới hình thành: tôi không muốn làm báo chửi bới nữa.
Đọc sách báo Pháp mãi chán, tôi tìm đọc thơ của Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Hàn Mặc Tử và trong lúc này, tôi thường sang tán láo ở nhà Lưu Trọng Lư ở chung với Nguyễn Tuân đường Nguyễn Trãi. Mỗi khi đọc một truyện gì hay, chúng tôi lại thuật lại cho nhau nghe: Lư lúc ấy mê André Gide, còn Nguyễn Tuân và tôi thì ưa Dostoievsky.
Lúc ấy, Lư cộng tác với mấy tờ báo văn chương, rồi cùng Lê Tràng Kiều tổ chức tờ “Tân Thiếu Niên” của Trần Tấn Thọ (anh họa sĩ Trần Tấn Lộc), nhưng ra được vài số thì báo bị tịch thu và đóng cửa. Cái “chất” của Lư không phải là để làm báo hàng ngày: anh ốm yếu luôn, lại thêm lúc nào cũng lơ mơ như ở trên mặt trăng rớt xuống, có nhiều khi anh em ngồi đông đủ nói chuyện, mà tâm hồn để tận đâu đâu, sịch một cái, anh chạy ra vơ lấy quản bút và mảnh giấy ghi lại một câu thơ mà anh vừa nghĩ được. Lưu Trọng Lư làm thơ như một ký giả lão thành viết báo; báo thiếu một đoạn, thợ in đòi một bài ngắn để đắp vào, kẻo để trắng trông không được, thì Lư làm “Hà Nội Báo”, “Tiểu thuyết thứ năm” cũng vậy. Lê Tràng Kiều phàn nàn thiếu bài, Lư nằm phủ phục xuống cái chiếu trải trên gạch viết luôn một bài thơ. Thú thực, lúc đó, tôi không bao giờ đọc thơ của Lư, vì yên trí là thơ nhăng nhít; mãi về sau này, đến lúc Nhật hạ Tây, có nhiều thời giờ nhàn rỗi, tôi mới bắt đầu thưởng thức thơ của Lưu Trọng Lư và do đó cũng yêu anh hơn, chớ thực ra lúc đầu thì tôi gần như không chịu được nhà thi sĩ đó, chậm chạp, lười biếng, trốn chui trốn lủi như con cù lần.
Tiếp xúc lâu hơn, tôi mới thấy Lưu Trọng Lư là một người có học, ham đọc và mâu thuẫn nhất là làm thơ như thế, anh lại thích đọc các sách chánh trị, và tìm hiểu các hiến pháp, các tổ chức, các đảng phái của Pháp lúc bấy giờ; vì thế sau này anh theo kháng chiến không về, tôi không lấy làm lạ, mà chỉ lạ sao trong anh em, có tin người này chết, người kia chết mà không lúc nào tôi nghe thấy tin anh chết trong khi anh mang bao thứ bịnh và bao nhiêu trác táng trong thớ thịt và huyết quản.
Lúc cùng ở với Lư, Nguyễn Tuân chưa nổi tiếng. Tôi biết Tuân từ lúc anh còn làm thông tín viên ở Thanh Hóa cho tờ “Trung Bắc Tân Văn”. Đến khi tôi làm “Vịt Đực”, anh cũng thường lại chơi nhà báo, thỉnh thoảng lại quăng cho một hai bài, nhưng vì anh viết dài, nên nhà báo không đăng được. Những bài này hợp với một tờ báo - như “Ngòi Bút” của nhà xuất bản Hàn Thuyên của tập đoàn Nguyễn Xuân Tái, Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh - cho nên mới tung ra vài bài như bài nói về “văn minh đồ hộp” nhạo Mỹ thì anh nổi bật. Thực ra, trước đó, Nguyễn Tuân đã nổi tiếng trên văn đàn, với cuốn “Thiếu Quê Hương”, “Vang Bóng Một Thời”, nhưng thật trội, phải kể từ lúc anh viết truyện ngắn loại “Thèm Ốm” cho Trung Bắc Chủ Nhật" (được Nguyễn Doãn Vượng “mi” thật “trì”, và Mạnh Quỳnh vẽ theo đúng ý muốn của anh). Đến cuốn “Chùa Đàn”, “Tóc Chị Hoài, ”Chiếc Lư Đồng Mắt Cua" thì tên anh thật vững, nhưng nói riêng về cá nhân Tuân, bao giờ cũng như bây giờ, tôi vẫn nói công khai giữa thanh thiên bạch nhật là tôi yêu mến anh thật, nhưng có nhiều điểm “tôi không thể nào thương nổi”. Chắc tôi cũng có nhiều điểm để cho anh không ngửi được, nhưng anh em cứ là anh em, lâu lâu không gặp nhau thì nhớ, mà gặp nhau thì hôm trước hôm sau có chuyện “tẩy” lẫn nhau... gia rít.
Tôi còn nhớ hồi làm Trung Bắc, tôi về Thanh Hóa thăm anh. Đi tầu hỏa đã mệt, tôi đến nhà anh chuyện trò một lát sau đi ngủ liền. Tuân nhè đúng lúc tôi đang ngon giấc, lay dậy, bảo mặc quần áo đi có việc cần. Trời thì rét mà ở ngoài còn tối om như mực, tôi không đi, nhưng không được. Tôi đành phải chiều anh bạn “lọ”. Để đi đâu? Anh bắt tôi đi bộ, vòng hết đường này sang đường khác, rồi rủ đi ăn bánh ướt ở một căn nhà lá mà anh bảo là ngon nhất Thang Mộc Ấp. Riêng một cái việc ngồi chờ cho bà cụ bán hàng thắp đèn lên, tráng bánh và rán đậu cũng đã mất hai tiếng đồng hồ.
Những hành động lẩm cẩm và dớ dẩn, lộn ruột như thế không thể nào kể xiết. Trong khi người ta mặc quần áo Tây, anh mặc áo gấm huyền, đội khăn; mùa nực, cầm cái quạt đánh chó phải chết, để phe phẩy; nói thì rấm rẳn, đang vui câu chuyện ngừng phắt lại, nhăn cái mũi cười rồi thôi, không nói nữa; đi ăn thì lè khè nhấm nháp, lấy hai ngón tay nhón cái chân chim bồ câu bỏ lò, ăn chậm như rùa - mà chỉ ăn có hai chân thôi - còn cả con chim thì lấy tay ngoắt phổ ky lại (chớ không gọi) bảo đem “cất giùm” vào bếp. Cái nếp sống hàng ngày của Tuân đúng y như văn của anh viết trong các bài báo và tác phẩm của anh: khó chịu lạ lùng, làm cho người mới quen bực muốn chết; nhưng các bạn đã biết thì mặc cho anh muốn giở trò trống gì ra, tùy ý. Thanh Châu, Thượng Sỹ, Thâm Tâm, Ngô Tất Tố, Nguyễn Triệu Luật cho anh là một “quái thai” và đả kích kịch liệt, nhưng muốn “tẩy” cách nào, Nguyễn Tuân cứ lập dị nguyên như thế, không thay đổi và kỳ cục nhất là một số người đả kích tính lập dị của Tuân, về sau, lại nói giọng lè nhè, ăn uống kiểu cách, bắt chước như Tuân.
Quên làm sao được hôm Thanh Châu Ngô Hoan cưới vợ, mời anh em văn nghệ đến ăn uống đông đủ ở nhà. Riêng Nguyễn Tuân không tới; anh em tức quá đợi nửa tiếng đồng hồ, rồi quyết định ăn uống không chờ nữa. Chừng một tiếng đồng hồ sau, Nguyễn Tuân mặc quần áo Tây cẩn thận, đến gõ cửa khe khẽ, khều ngón tay kêu Thanh Châu ra ngoài, bảo cho mượn năm đồng rồi đi. Tất cả anh em ngồi đó nổi đóa muốn “xuống phố” (lúc ấy gọi là xuống phố chớ không gọi là xuống đường), chất vấn Tuân, nhưng chỉ một lát sau thì anh trở lại, với cái đầu bù tổ quạ, nhón hai ngón tay cầm một cành la-dơn thực đẹp như trẻ con đi rước đèn tháng tám, mừng Thanh Châu. Thì ra anh mượn tiền để đi mua bông hoa đó! Lúc ấy, một cành la-dơn giá cao lắm độ hai hào, nhưng sau này có người biết anh đã mua tới bảy hào, và biếu bà bán hoa thêm một đồng, còn lại bao nhiêu thì xe đi, xe về hết nhẵn, không còn xu nhỏ!
Chính tôi đến bây giờ vẫn không biết có phải Nguyễn Tuân có chất khùng ở trong đầu óc không, nhưng trước phong trào đang lên ở Mỹ hiện nay, tôi dám quả quyết anh là một thứ tổ sư hippy, quấy không chê được. Điển hình nhất là vụ sau đây:
Một đêm kia, chúng tôi đi hát ở Khâm Thiên, bắt được Tuân ở giữa đường, rủ cùng đi đập trống. Tôi nhớ ngoài các anh em quen biết ra, có ông Ba Mai Lĩnh. Ông Ba, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân và tôi, mỗi người ngồi xếp bằng tròn, dưới đất, ở một góc nhà cô đầu, tu mỗi người một chai Văn Điển (mà cấm không cho đưa cay một thứ gì, dù là củ lạc). Đã đành tu như thế xong thì Lý Bạch, Lưu Linh cũng gẫy. Ấy thế mà Nguyễn Tuân, sau đó lại còn đi lờ khờ hết nhà này sang nhà khác uống nữa, và đến khoảng ba giờ sáng thì cả phố Khâm Thiên nhao lên như có loạn: ở trên nóc nhà, trên một cái gờ bằng gạch nối liền một dẫy với nhau, Tuân đi lại như một anh hát xiếc, giơ hai tay ra lấy thăng bằng, nhún nhảy trên một chân, thỉnh thoảng lại quay ngoắt người trở lại. Bao nhiêu hồn vía của cô đầu và quan viên đều lên mây. Thật là kỳ lạ mà Tuân xuống được, nhưng chuyện đến đây chưa hết.
Thấy Tuân say quá, anh em bắt cô đầu phải chăn cho anh đi ngủ. Cuộc vui tạm đình. Đến sáng, mọi người đang ngon giấc ở trong chăn, cả nhà lại loạn lên như thể bị mất trộm. Hỏi ra thì lại mất Nguyễn Tuân: không hiểu anh ta biến đâu rồi. Mỗi người chia nhau một ngả để tìm. Thôi thì chẳng còn thiếu nơi nào không lục soát: dưới gầm giường, trong tủ áo, trong hồ nước, trên bàn thờ ông vải của bà chủ cô đầu. Vẫn chẳng thấy “Tuân mũi to” đâu hết. Vũ Trọng Phụng đoán: “Hay là nó về nhà rồi?”. Anh em định cử một người về nhà để tìm, thì có tiếng gõ cửa rất gấp. Mở ra, lù lù một người cảnh sát. Nghe ông này cho biết thì té ra khoảng năm giờ sáng hôm đó, vào lúc gà cõng con đi đái, Nguyễn Tuân đi xe đến Cẩm Hàng Đậu bấm chuông xin vào thăm chánh cẩm Arnaud (ở trên lầu sở Cẩm) để nói một vài câu chuyện cần. Cẩm Arnaud, bình thường gắt như mắm tôm, lúc ấy đương ngủ ngon với vợ, mà trời lại rét, bỗng nhiên bị người ta đến phá, uất không thể nào chịu được, chửi nhân viên trực đêm cứ oang lên và mời ông khách bất nhã vào ngồi phòng khách cho đến sáng mới tiếp. Do đó, viên Cẩm mới biết Tuân hát ở nhà nào và cho người đến báo để anh em đến bưng Tuân về.
Trở lại câu chuyện đọc sách với Lưu Trọng Lư và Nguyễn Tuân. Thực ra, Tuân viết ít và chỉ viết khi nào thích chí thôi; túng thì đến “gõ” anh em chớ nhất định không chịu viết, như công chức, để cuối tháng lấy tiền.
Phần tôi, trước khi làm các báo Công Dân, Tương Lai, Rạng Đông, tôi đã viết truyện dài, truyện ngắn, nhưng không chuyên chú lắm. Bây giờ, ngày rộng tháng dài, muốn tìm học cách viết truyện của người Âu Mỹ mới, tôi mua Gringoire, Candide, Lu, Vu, để đọc và chú ý đặc biệt về tiểu thuyết. Lúc đó, trong toàn quốc, chỉ có một tờ báo chuyên về tiểu thuyết: đó là “Tiểu Thuyết Thứ
bảy” của ông Vũ Đình Long, chủ nhà xuất bản Tân Dân.
Đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm phục ông Vũ Đình Long, vì ông đã tỏ ra hiểu biết ngay từ buổi đầu hội kiến. Trên căn gác nhỏ trang trí theo kiểu Tầu, tôi đi thẳng vào vấn đề với ông Long: từ trước đến nay, truyện ngắn của ta đòi người viết phải có một cốt truyện hoặc ly kỳ ít, hoặc ly kỳ nhiều, thí dụ các truyện ngắn nói về những mối tình éo le làm cho người đọc hồi hộp và than khóc.
Dù sao, báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” cũng là tờ báo hiện giờ chạy nhất nước, có một số độc giả vững chắc rồi. Ông thử nghĩ xem có nên đưa ra một loại truyện mới để cho lãnh vực tiểu thuyết của ta phồn thịnh hơn?
Ông Vũ Đình Long bằng lòng thí nghiệm. Những truyện ngắn đầu tiên của tôi trên báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” (khổ nhỏ, ngoài vẽ một bức tượng bán thân) như “Chàng Kim người Bắc, cô Kiều người Kinh”, hay “Một Người Rơi Xuống Hố”... đều thuộc về loại truyện ngắn kiểu mới vừa nói trên. Cuộc đời, theo tôi nghĩ, thường bình dị, xuôi đuột, không có khúc mắc như các tiểu thuyết gia thường tả. Bịa đặt, phóng đại hay phiền phức hóa cuộc đời không phải là hiện thực. Thí dụ một cô gái yêu một chàng trai, nhất định phải lấy nhau cho bằng được. Nhưng hoàn cảnh không cho lấy nhau: nhà tiểu thuyết cho họ đâm đầu xuống sông, bỏ nhà đi tu, hay là bắn súng vào đầu trên một nấm mả ở ngoài đồng. Rất có thể như thế lắm. Nhưng trong khi đó ta cũng thường thấy những cặp trai gái như thế dắt nhau ra bờ sông đứng than khóc và đòi cùng trầm mình một lúc, song le đến lúc chót thì họ chẳng nhảy xuống sông, mà cũng chẳng đi tu, nhưng chia tay từ giã, ai về nhà người ấy ngủ ngon. Một trường hợp khác: có anh say rượu, đi đêm về nhà, rơi xuống một cái hố. Anh ta la lối om sòm, kêu mọi người đến cứu. Có ông sư, có thày tu, có nhà chính khách, có ông bác học đi qua, ai cũng hứa sẽ tìm cách để lôi người ở dưới hố lên. Nhưng rút cục, ai cũng đi mất tăm, mất tích. Đêm vắng, anh rơi xuống hố còn lại một mình với mình. Anh ta suy nghĩ lung và cuối cùng bật ra một sáng kiến: cái hố không lấy gì làm sâu, anh cho hai tay lên miệng hố leo lên mặt đất, thủng thẳng đi về nhà.
Một truyện ngắn hồi đó đăng lên “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” được nhuận bút năm đồng. Năm đồng tiêu được nhiều việc hơn 5.000 đồng bây giờ, nhưng điều đó là thứ yếu. Điểm chính yếu, đáng lưu ý, là mình đã đưa ra được một loại truyện mới - có thể độc giả không ưa mấy - nhưng dù sao thì rồi đây cũng có một số thức giả không coi thường tờ báo. Đó là điều mong ước của tôi. Và cũng vì mong ước và tin tưởng như thế nên tôi cứ tiếp tục viết loại truyện đó... cho đến khi tình giao hữu giữa ông Vũ Đình Long và tôi đậm đà hơn. Qua những câu chuyện, lần lần tôi được biết ông Vũ Đình Long tự tay làm hết các công việc của báo: từ việc đọc các bài của độc giả - trừ mấy bạn cộng tác thường xuyên như Nguyễn Trẩm Giự, Lan Khai, Vũ Lang, Ngọc Giao, Thanh Châu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan - đến cách xếp đặt trang báo, trình bày tranh vẽ, chọn lựa tiểu thuyết Tàu, Tây để dịch. Có lẽ cũng qua những câu chuyện đó, ông Long hiểu tôi hơn và biết tôi cũng hơi rành về ấn loát, về “mi” và có đôi chút kinh nghiệm về nhà báo, ông ngỏ ý sẽ lấy mỗi tuần của tôi một truyện ngắn, thay vì nửa tháng một truyện. Và tôi cứ giúp việc
“Tiểu Thuyết Thứ Bảy” như thế chừng nửa năm, cho đến một ngày kia, ông mời tôi, buổi tối, sang nói chuyện. Câu chuyện lần này tương đối trịnh trọng hơn các lần trước: ông Ngọc Giao giúp việc thường trực “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” trong phạm vi sửa văn, sửa lỗi xếp chữ ở mô rát, có ý định muốn đi Sài Gòn làm ăn. Ông Bằng có vui lòng đến giúp việc hẳn “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” không?
Không thích điệu, tôi nhận lời ngay, nhưng xin một điều kiện là tôi giúp “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” trong mọi việc mà ông ủy thác, nhưng không thể theo giờ công chức. Tôi đến lúc nào, tùy tôi; miễn tôi thu xếp với nhà in cho mọi công việc không trục trặc. Hai bên thỏa thuận. Ông Long không phải bận tâm về nhà in, về vấn đề họa sĩ, về bài vở nữa. Ông rất thành thực: báo đứng, báo chạy hay báo xuống, ông đều nhất nhất nói cho tôi biết.
Rồi một hôm, để mở rộng phạm vi hơn nữa, và đăng nhiều truyện của các bạn nhà văn gửi về, ông ngỏ ý muốn ra khổ lớn hơn và cũng nhiều trang hơn. Nói rất thành thực, trong thời kỳ này, tôi học hỏi được ông Long rất nhiều điều hữu ích về lề lối làm việc: ông chịu khó đọc báo, sách của Pháp để tìm sáng kiến; có sáng kiến nào hay, ông nghiên cứu, khơi sâu rất kỹ lưỡng và ghi ra giấy. Nhưng tựu trung nguyên tắc làm báo của ông có thể gói ghém lại như sau: không làm chánh trị, phục vụ văn hóa, giúp ích đại chúng bằng cách vừa mua vui cho họ, vừa mở mang trí tuệ, in rõ ràng và đẹp để đọc không mệt mắt, và bán bằng một cái giá hạ nhất để cho các bạn đồng nghiệp không theo kịp, mà cũng là để cho bất cứ độc giả nào cũng có thể bỏ tiền ra mua. Mà loại độc giả ông nhằm nhiều nhứt là trẻ em và phụ nữ. Bởi vì trước khi làm việc gì, ông Long tính toán rất kỹ lưỡng, cân nhắc lợi hại từng ly, nên “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” khổ lớn lại chạy hơn loại nhỏ, và cũng vì thế, số anh em viết văn qui tụ về nhà xuất bản Tân Dân mỗi ngày mỗi đông hơn. Để cho tờ báo sống động hơn lúc ra khổ nhỏ, chúng tôi đặt nhiều mục mới như “Biết Ai Tâm Sự” để trả lời các thư nhờ giải quyết tâm tình, “Để Cười Khi Chung Bóng” cho các em gửi văn vui về họp bạn, “Y Nghĩ Của Người Dạo Phố” nói về vấn đề văn hóa và văn nghệ. Riêng về tiểu thuyết, chúng tôi khai thác đủ các loại mà khổ nhỏ không có: truyện có thật (theo kiểu histoires vraies của báo Confidence), truyện cổ tích nhi đồng, truyện dài bằng thơ, truyện ngắn bốn phương (theo kiểu Les Mille et Une Nouvelles của Hung Gia Lợi), truyện ma quỉ (theo kiểu Flammarion), truyện trinh thám ngắn (theo kiểu Mystère Magazine)...
Người bạn giúp tôi nhiều ý kiến nhất lúc đó là Thanh Châu Ngô Hoan. Phần nhiều bạn đọc “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” khổ nhỏ, thấy cái tên Thanh Châu đi kèm sát với Ngọc Giao hồi đó, tưởng đâu Thanh Châu và Ngọc Giao là hình với bóng, là một khối “bất khả chia lìa”; thực ra, cùng viết một báo với nhau, thường thường gặp gỡ nhau, nhưng Thanh Châu ít trò truyện với Ngọc Giao, vì hai người bất đồng ý kiến về nhiều quan điểm, nhất là về phương diện văn chương và xã hội. Bắt đầu viết văn, Ngọc Giao là một thư ký toà án, nặng về phần công chức hơn là văn sĩ; trái lại, Thanh Châu phóng khoáng hơn, có sẵn tiền, sống nhàn nhã, không muốn bất cứ ai hay bất cứ cái gì kiềm chế.
Là người Thang Mộc Ấp, Thanh Châu vừa viết “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” vừa học thêm, lúc nào cũng cầu tiến, lúc nào cũng phục thiện, và có một cái tính đáng khen là không có tiền không sao, chớ phàm đã viết thì phải thích, chớ không thể viết miễn cưỡng, viết “sur commande” được. Thực ra, Thanh Châu là một nhà văn đọc nhiều mà lại có một tâm hồn thi sĩ, thấy bất cứ một sự việc gì cũng rung cảm mà lại viết nhanh, viết khỏe, nhưng cho đến lúc ra ngoài kháng chiến, anh tương đối có ít tác phẩm ra đời, một phần lớn cũng là tại anh không mấy tha thiết đến danh tiếng, đến tiền tài. Anh còn trẻ, lại đủ xài, cho nên anh muốn sống cho mình nhiều hơn, sống với nội tâm một mặt, và mặt khác hưởng lạc, nhưng luôn luôn giữ gìn chớ không sa đọa. Ban ngày anh đi chơi hay ngủ, tối đến lờ phờ lên rạp Tố Như tán róc vì vị hôn thê của anh là dòng dõi nhà Trần Viết, sở hữu chủ rạp Tố Như.
Mỗi khi có điều gì tâm sự, Thanh Châu, Micro Bùi Xuân Như (em trai Bùi Xuân Học) và tôi thường vẫn thảo luận ở cái gác nhỏ mà diêm dúa của Thanh Châu ở Ngõ Trạm, gần Trung Bắc. Anh có nhiều thiện chí, chiều anh em và có những câu nói văn hoa khuyến khích tôi làm “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” rất tài tình.
Đọc bài của anh em và độc giả gửi về; đứng lựa chữ ít, trông in; tối đến, đem mô rát về nhà để sửa, tôi làm việc không kể thì giờ, nhưng không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, có lẽ vì trong lòng hứng khởi vì những lời của Thanh Châu.
Trừ vấn đề nhuận bút hay vay mượn, anh em viết văn lúc đó hầu hết đều tiếp xúc với tôi, cho nên ngoài cái lợi được học hỏi thêm về văn hóa, văn chương ngoại quốc, ngoài cái lợi rút kinh nghiệm và trau dồi nghề nghiệp, tôi lại còn được biết rõ hơn về tài đức, tư tưởng, sở trường, sở đoản của từng anh em văn nghệ. Thanh Châu và vài người bạn khác bàn với tôi nên mở rộng phạm vi hoạt động ra, chớ bao nhiêu anh em mà chỉ quy tụ ở vẻn vẹn hai tờ “Phổ Thông Bán Nguyệt San” và “Tiểu Thuyết Thứ Bảy”, e rằng chật hẹp. Tôi nẩy ra ý muốn bàn với ông Long ra thêm một tờ báo nữa, vì nói thực ra, viết có hai tờ, có khi một vài tuần mới đăng một truyện hay vài bốn tháng mới xuất bản một cuốn tiểu thuyết, anh em sẽ nản vì đời sống vật chất hàng ngày thường cấp bách, vả lại anh nào anh nấy lại tiêu xài lẹ lắm.
Thâm Tâm lúc ấy ở Nhà Diêm với đại gia đình. Mấy em gái anh sống về nghề đóng sách mướn cho các nhà xuất bản, kiếm ăn chật vật. Được đồng nào, anh chỉ mang về cho gia đình được một ít, còn lại phải thù tiếp trả lại anh em, nên trong nhà ít khi có đủ tiền tiêu. Mặc dầu suốt trong thời kỳ tôi đi lại chơi bời với anh, Thâm Tâm không hề than thở với tôi một lời nào, nhưng ai cũng biết các em anh phải vay mượn thêm mới đủ ăn, mà ăn không đủ chất bổ cũng như Phụng vậy. Có lẽ cũng vì thế, Thâm Tâm thường phải vay trước tiền của nhà báo. Một hôm, không hiểu vì nguyên nhân gì, ông Long từ khước và bảo Thâm Tâm: “Ông không nên vay thì hơn”. Thế là Thâm Tâm đứng dậy liền, móc túi còn bao nhiêu mời anh em đi uống rượu hết và anh uống thật say rồi độc thoại “Không cho vay thì bảo là không cho vay có được không, tại sao lại nói ông không vay thì hơn! Thế nào là hơn? Mà tại sao lại hơn? Hơn cái gì? Hở khỉ!” Sau đó, Thâm Tâm đi kháng chiến, và đã mất rồi. Tôi không gặp anh lần nào ở hậu phương, cho nên không biết tâm tính anh có thay đổi nhiều không, nhưng trước đó thì anh là một người “đa bất mãn hoài”, nhưng lì lì không nói, bao nhiêu oán hận, tủi hờn đối với tổ chức xã hội lúc bấy giờ đều gói ghém vào trong các truyện ngắn và các bài thơ tuyệt diệu. Truyện “Con
Vờ” của anh là điển hình quan niệm của anh về xã hội lúc bấy giờ, và sau này, nghĩ lại thì có vẻ anh đã hoạt động bí mật lúc múa bút viết bài thơ bất hủ trên “Tiểu Thuyết Thứ Bảy”.
Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng...
Trần Huyền Trân, Tô Hoài, Nam Cao dường như cũng bí mật hoạt động cho kháng chiến với Thâm Tâm cùng một lúc với Lý Văn Sâm chiến đấu ở trong Nam. Nói trộm vong hồn ông Vũ Đình Long, ông không muốn cho ai đã viết ở báo của ông lại viết cho tờ khác, mặc dầu không nói ra miệng bao giờ. Nhóm Thâm Tâm đã bẻ gẫy mưu đồ ấy của ông Long, viết bừa bãi cho các báo khác: Tô Hoài viết sách bán cho các nhà xuất bản khác, Trần Huyền Trân viết truyện dài bán cho một tờ tuần báo hình như của Trác Vỹ xuất bản, còn Nam Cao thì viết truyện ngắn cho “Trung Bắc Chủ Nhật” và bán tiểu thuyết, trong đó có truyện “Đôi Lứa Xứng Đôi”, cho nhà in Công Lực ở đường Tiên Tsin. Theo chỗ biết của tôi thì Thâm Tâm không viết cho báo nào hay bán sách cho nhà xuất bản nào khác, có lẽ một phần vì anh yếu phổi đã lâu, mà mặt khác anh lại không mấy thiết tha đến việc kiếm tiền “có thì ăn, không có thì nhịn, vấn đề bao tử không quan hệ lắm”.
Rút cuộc, ông Vũ Đình Long cũng phải chịu vụ “tranh đấu” này, mà không chịu cũng không thể được, vì ông Long ngồi một chỗ không thể biết rằng nhuận bút của
“Tiểu Thuyết Thứ Bảy” và “Phổ Thông Bán Nguyệt San”, nhất là vào hồi Nhựt đến Đông Dương, không thể giải quyết được việc gì.
Trần Huyền Trân sống heo hút trong một cái chòi đánh cá bắc trên sông để làm thơ và viết truyện. Truyện thì hay mà thơ thì tuyệt, nhưng thường thường mỗi tháng nhịn ăn ít nhất cũng năm sáu ngày. Còn Nam Cao thì nghèo nhất Nam Định, bần cùng bất đắc dĩ lắm mới chịu hớt tóc vì tiền chi tiêu ở trong nhà anh phải tính toán từng đồng xu. Anh ở với một người bà, có vợ, nhiều con. Ngoài số nhuận bút còm hàng tháng (mà có khi nhà báo lại gửi ngân phiếu chậm!), tất cả gia đình anh trông vào một giàn trầu mà bà anh vừa ăn vừa đem ra chợ bán lấy tiền thêm nuôi các cháu. Có ai đọc truyện “Cười Với Trăng” của Nam Cao, hẳn còn nhớ cái anh chàng không có tiền đem về nhà, bị vợ day dứt trong khi con cái đứa thì khóc, đứa thì mếu, đứa thì đau, đứa thì phá... không biết đối phó ra sao, đâm ra mặt lì, khoanh tay dưới đầu nằm nhìn lên trời cao và bật cười, rồi cười thật to, cười mãi, cười đến đau bụng và chảy cả nước mắt ra.
Trong tất cả các truyện của Nam Cao, tôi nhớ nhất truyện ấy và tôi nhớ là vợ chồng tôi đọc xong cùng không nhịn được cười và chịu là Nam Cao viết tài tình quá.
Tôi không biết Nam Cao bắt đầu viết từ lúc nào, gửi bài về “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” từ bao giờ, nhưng cái bút hiệu “Nam Cao” nổi bật lên cho đến bây giờ cũng là do một tình cờ may mắn.
Ngọc Giao đi Sài Gòn, tôi là thư ký tòa soạn cho “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” bị tràn ngập vì bài cũ và bài mới, nên sao nhãng có khi không đọc xuể. Có khi những bài ấy đem ra quay lại mặt sau để dùng làm giấy viết bài; có khi thất lạc; lại cũng có khi để chồng đống cho đến lúc nào cao quá thì bỏ đi. Một buổi chiều tháng bảy, đường sá bùn lầy dơ dáy vì mưa Ngâu, không có bạn bè đến chơi, tôi không biết làm gì trong khi ngồi chờ cơm, rút một tập ở trong những chồng bài cũ ra để đọc. May mắn làm sao tôi lại được đọc một truyện của Nam Cao, và ngay mấy câu đầu tôi đã thích thú vì lối hành văn với những câu kệch cỡm, nghịch ngợm, có khi dớ dẩn nhưng đậm đà có duyên. Truyện ấy - bây giờ tôi quên mất nhan đề rồi - đăng lên “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” được độc giả để ý liền. Tôi lại lục tập bài cũ tìm nữa, thấy hai truyện khác, đăng luôn và nhắn Nam Cao trong mục thư tín viết tiếp gửi về. Đến truyện thứ năm, thứ sáu thì Nam Cao được các anh em văn nghệ bàn tán rất nhiều và cho là trong loại văn nghệ sĩ mới lên, Nam Cao viết “được” lắm, và người ta bắt đầu hỏi Nam Cao là bút hiệu của anh nào vậy. Đến cuối tháng ấy, Nam Cao lù lù tìm đến nhà tôi. Anh đến nhà báo, Trần Kim Dần chỉ sang nhà tôi ở cách báo quán độ mươi bước đường. Lần thứ nhất, gặp Nam Cao, tôi có cảm tưởng anh là một người hiền lành, tử tế. Tôi có cảm tình liền, đi ăn nhà hàng, lại có thể có một thanh niên chừng hai mươi bốn, hai mươi lăm tuổi không biết món vây là cái gì, và hỏi cơm chiên đã có lạp xưởng và trứng rồi hà cớ gì lại phải ăn vây, và “thịt bò tây hồ” cho tốn tiền? Về sau này, tôi giữ nguyên cảm tình của tôi đối với Nam Cao Trần Văn Trí, một nhà văn dí dỏm, chua chát lại sâu xa, nhưng chân thật và hồn nhiên “vượt mức”, không có nhà báo, nhà văn nào so sánh được. Đi sâu vào tình bạn hơn, anh nhỏ nhẻ cho tôi biết rằng cái chàng thanh niên “cười với trăng” chính là anh, nhưng các nhân vật say rượu, chơi bời láo lếu thì nhất định không phải là anh đâu, mà là những người ở lối xóm hay những người mà anh thấy ở Nam Định mỗi khi anh đi bộ từ làng lên tỉnh để lãnh tiền của nhà báo gửi cho. Tác giả ưa nhất là Alphonse Daudet; truyện đọc nhiều lần là “Le Petit Chose”. Ngoài vợ ra, không hề biết một người đàn bà nào khác. Đến chỗ đông, sợ lắm; mà khổ nhất cho tôi - lời Nam Cao là trước mặt người lạ, mặt tôi cứ nóng bừng lên, mà lưỡi như muốn líu lại, không nói ra lời.
Đến lúc ra ngoài kháng chiến, một hôm, anh lù lù đi vào nhà tôi và đến bây giờ, tôi cũng không biết tại sao anh lại tìm được nơi tôi ở hay như vậy. Anh ở chơi với tôi hai ngày, hai đêm. Hỏi có gì lạ không, anh bảo cũng thường thường thôi. Anh làm thư ký riêng cho Nguyễn Sơn. Vẫn gặp các anh em cũ. Tây thế nào cũng thua, anh ạ. Tôi mấy lần suýt chết vì bom. Nhưng có lẽ mình khổ quá rồi nên trời đền bù, cho được sống để nhìn thấy thực dân cút cả đi. Tội nghiệp Nam Cao, cả một đời vất vả, chỉ mong được thấy ngày ta toàn thắng để trở về Thủ đô thương mến, ăn một bữa cơm với anh em rồi cả cười với nhau, thì trước khi ký kết hiệp định, tôi được tin anh đã mất trong một vụ ném bom tàn ác của lũ lang sói vô nhân đạo. Hai ngày anh ở lại chuyện trò tâm sự với tôi thì ra là ngày cuối cùng gặp nhau. Nam Cao vẫn bẽn lẽn thẹn thò như thế, tóc vẫn bờm như thế, mà tâm tính vẫn hồn nhiên như thế. Không biết hút thuốc lá; vẫn không uống rượu. Cả đời chưa đọc chuyện Tam Quốc bao giờ. Nhân có một bộ Tam Quốc do Phan Kế Bính dịch, nhà in Lê Văn Phúc ấn hành, tôi thắp một ngọn đèn dầu, bỏ màn xuống, hai anh em cùng đọc. Lần thứ nhất và cũng là lần duy nhất, tôi thấy Nam Cao cười lớn tiếng lúc Tào Tháo giết Lã Bá Sa. Cái đêm hôm ấy, sau này, anh thuật lại trong một bài đăng trên tạp chí “Văn Nghệ” của Mặt Trận và chính nhờ bài ấy, tôi được biết Nam Cao cũng có cảm tình với tôi.
Là bạn của Nam Cao, Tô Hoài cũng không dễ chịu về tiền nong hơn mấy chút, nhưng tương đối anh cũng đỡ lo lắng và cũng đỡ phải vật lộn với sự sống hàng ngày như Nam Cao. Có lẽ vì thế giọng văn của Tô Hoài ít chua chát, sâu xa: anh đúng là con dế mèn phiêu lưu, nhìn con vật gì ở chung quanh cũng lạ lùng với con mắt thơ ngây. Không có gì lạ hết: Tô Hoài lúc viết cuốn truyện đầu tay “Dế Mèn Phiêu Lưu Ký” chỉ là một bạch diện thư sinh mới ở trường ra và sống một cách hiền lành, cơm ngày hai bữa, ở một làng làm giấy bản trên sông Tô Lịch, ngày ngày ngồi ở hiên nhìn ra sân xem những gà, lợn, chim sẻ, cào cào, bươm bướm... Tô Hoài cũng hiền lành như Nam Cao, nhưng ranh mãnh hơn một chút; tuy vậy, không lúc nào để mất tính chân thành.
Trước khi di cư vào Nam, anh còn tỏ sự chân thành ấy với tôi lần chót: trong một thư dài viết tay, anh đã chí tình khuyên tôi ở lại và nói lên những giờ phút mong đợi trở về gặp nhau đông đủ để sống lại những ngày thân mến trước đây.
Riêng trong bọn anh em, từ lúc rời Hà Nội, tôi không biết tin tức của Nguyên Hồng, Kim Lân và bao nhiêu anh em văn nghệ khác nữa, nhưng dù còn sống hay đã mất, dù chiến đấu ở những nơi lam sơn chướng khí, hay giang hồ phiêu bạt ở quê người, các anh em ký giả, văn nghệ đó vẫn giữ được tiết tháo, không vì nghèo mà sợ kẻ giàu, không vì nghèo mà phải gục đầu với kẻ mạnh, không vì nghèo mà sợ khó khăn vất vả.
Giữa tiếng súng ở ven đô vọng về, thường đêm tôi nghe thấy một cái gì trầm trầm, bàng bạc đến làm xáo trộn nhân sinh quan của tôi lúc bấy giờ. Có đêm tôi nằm mê thấy hàng trăm ngàn người đói khát, đi thành hàng bất tuyệt đến đòi tôi trả nợ; có đêm tôi mơ thấy cái núi xác của những người chết đói năm 1946 chồng chất lên ở bãi chợ Hàng Da tan rã rồi từ đó hiện ra những bộ xương đi lọc cọc và nhìn tôi cười ngạo nghễ; lại cũng có những đêm tôi mê thấy các anh em văn nghệ họp ở nhà hàng Anh Mỹ uống rượu nghe Vũ Hoàng Chương xốc cái tay áo gấm huyền, bắc một cái ghế lên trên bàn ngâm một bài thơ tràng thiên nói về một trăm năm đô hộ, Việt Minh lên nắm chính quyền trong tiếng hoan hô như sấm sét. Thế là nghĩa lý gì? Tôi không hiểu. Nhớ lại bao nhiêu bạn làm báo, viết văn với mình bây giờ đã đi khu cả rồi, tôi cảm thấy trơ trọi. Và nằm một mình giữa cái không gian khói lửa vang lên những tiếng ta oán thảm thê của một dân tộc bị gót sắt của hết bọn xâm lăng này đến bọn xâm lăng kia dầy xéo, tôi nghe thấy một cái gì manh nha trong tim óc tôi và tôi tiên cảm rằng cái gì đó sẽ thay đổi rất nhiều ý niệm về nếp sống, về cách nghĩ và cả về nghề nghiệp của tôi.
Nhưng đó là chuyện sau. Trở lại lúc làm “Tiểu Thuyết Thứ Bảy”, thấy anh em đông mà phạm vi hoạt động chỉ có tờ đó và tờ “Phổ Thông Bán Nguyệt San”, Thanh Châu bàn với tôi nên nói với ông Vũ Đình Long xin ra thêm một tờ báo nữa để cho anh em có đủ chỗ thi thố tài năng và phô bầy ý kiến.
Thấy độc giả “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” đã vững rồi, tôi thảo một thư rất dài gửi cho ông Long (tôi viết thư mới giãi bày được ý kiến đầy đủ, chớ nói thì tôi rất vụng) đề nghị nên ra một tờ báo trẻ em. Lúc ấy, tờ “Cậu Ấm” của Thái Phỉ Nguyễn Đức Phong vừa đóng cửa, cả nước không có một tờ báo loại đó, nếu ra được thì không những có ích mà lại còn hy vọng chạy như “Tiểu Thuyết Thứ Bảy”, hay hơn thế.
Ba hôm sau, ông Vũ Đình Long không trả lời thư tôi. Nhưng đến ngày thứ bảy, ông trịnh trọng bấm chuông nhà tôi vào thăm, mang theo một tập giấy: ông ngồi sít lại tôi, thì thầm như buôn giấy bạc giả. Thì ra ông đã có ý kiến ấy từ lâu và bí mật cho tôi biết ông đã được phép xuất bản một tờ báo loại đó lấy tên là “Truyền Bá” từ hai tháng trước.
Ông đã vẽ ma két rồi. Kế hoạch bán báo như thế này. Trình bày như thế này. Chữ in như thế này. Đoạn phụ lục giúp vui bạn đọc như thế này. Ông Bằng xem đi rồi cho tôi biết ý kiến, đồng thời cũng nên nghĩ luôn cả các mục vui ở trang bìa 2, 3, và 4, hay là ta để thêm 4 trang trong nữa để cho bạn đọc xem cho đã?...
Suốt một tháng, tôi sang nhà báo chỉ thấy ông Long nghĩ về tờ “Truyền Bá”, và bất cứ chuyện gì cũng quy về “Truyền Bá”. Ông Long và tôi chia nhau ra viết quảng cáo, lời phi lộ. Báo in trước ba số để sẵn đấy, bắt đầu bán số 1 thì in số 4 (hầu hết các báo của nhà Tân Dân in như thế, vì vậy báo thứ bảy ra thì từ Nam Quan đến Cà Mau, nhà đại lý nào cũng có từ chiều thứ sáu). Đúng như lòng mong mỏi, báo chạy dữ dội ngay từ số đầu. Ông vẫn trung thành với quan điểm cố hữu: tiểu thuyết, ai cũng thích đọc tiểu thuyết; bình luận, nghiên cứu khô khan lắm. Tờ “Truyền Bá” ra khổ nhỏ bằng bàn tay, đăng mỗi số một truyện, trừ 8 trang cuối đăng các bài ngắn, vui, giải buồn cho bạn đọc như “Đố Bạn”, “Truyện Tốc Hành”, “Kịch Vui”, “Ô Chữ”, “Nhịp Cầu”, “Truyện Lạ Thế Giới”, “Kỳ Lạ Nhưng Có Thực”...
Có thêm một cơ quan, anh em “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” chạy sang viết thêm cho “Truyền Bá”. Đồng thời, các độc giả bốn phương cũng gửi nhiều truyện về nhà báo, nhất là các mục vặt ở tám trang cuối, nên chẳng mấy lúc chúng tôi lại thấy rằng có thêm tờ “Truyền Bá” cũng chẳng giải quyết được việc gì cho anh em.
Ông Vũ Đình Long làm đơn xin thêm một tờ báo nữa, tờ “Ích Hữu”, làm một cơ quan sưu tầm, bình luận để làm chỗ phát biểu ý kiến của anh em, nhân tiện cũng là để nói lên quan điểm văn nghệ, văn hóa, xã hội của nhóm Tân Dân (và ít lâu sau này, phe Tự Lực Văn Đoàn vẫn giễu ông Long là lái sách, chỉ lo vét tiền chớ không có quan tâm gì đến văn nghệ cũng như văn hóa).
Trong khi chờ phép tờ “Ích Hữu”, ông Long đưa ra thêm một sáng kiến: thay vì tờ “Phổ Thông” ra mỗi tháng một số đăng trọn một truyện dài (loại bìa xanh), ông cho ra thêm một loại nữa (loại bìa vàng). Thực ra, truyện của hai loại này không cách biệt nhau nhiều lắm, nhưng ra thêm loại vàng, chúng tôi có ý kết hợp thêm nhiều nhà văn, nhà báo, mà cũng là để cho báo chạy nhiều hơn nữa, vì loại này bán rẻ hơn. Về phương diện thương mại, sáng kiến ấy đem lại một kết quả tốt đẹp:
“Phổ Thông Bán Nguyệt San” cả loại xanh, loại vàng đều chạy hơn. Hai loại này, đánh số 1,2,3... riêng biệt, có một cái lợi khác là ai đã mua báo cũng đều muốn cho đủ bộ để bầy tủ sách gia đình, không thiếu một số nào. Vì thế, ai đọc quảng cáo của nhà Tân Dân đều thấy ông Long rất chú ý đề rõ giá báo và nhấn mạnh độc giả nên mua cho đủ số thứ tự, đừng để thiếu, e mất giá trị của tủ sách gia đình.
Về phương diện văn nghệ, nhờ hai loại này, anh em trong nước có dịp thi thố tài nghệ rộng rãi hơn, đồng thời cũng kiếm được nhiều tiền nhuận bút hơn khi trước. Nổi tiếng nhất trong bọn này là Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Thanh Châu, còn cuốn nọ kéo cuốn kia hầu hết đều sàn sàn bằng nhau, thành thử có những nhà văn không nổi tiếng mấy mà cũng được nhiều người đọc như những nhà văn nổi tiếng rồi, là nhờ các tập báo in ra đều chước số thứ tự 1, 2, 3, 4...
Trong tám năm trời, vì phụ trách đọc, sửa, chọn lựa bài vở và trông nom phần kỹ thuật của cả ba tờ “Tiểu Thuyết Thứ Bảy”, “Truyền Bá”, “Phổ Thông Bán Nguyệt San” (Phần khảo cứu, sưu tầm và thơ do ông Trúc Khê Ngô Văn Triện phụ trách) của nhà Tân Dân, tôi mặc nhiên được cái may là giao thiệp với đủ mặt anh em văn nghệ sĩ lúc bấy giờ.
Bây giờ các anh em đã tản mác, mỗi người mỗi ngả: người thì chết bịnh, người thì chết bom đạn ở ngoài mặt trận, người còn sống ở miền Nam, người thì chiến đấu ở chốn đèo heo hút gió, lại cũng có người sống ở nước ngoài, đôi khi được biết tin tức là nhờ có bạn quen cho biết... Có lẽ đây chưa phải là lúc kiểm điểm lại những người còn người mất, nhưng ngay lúc này, tôi có thể nói rằng số anh em văn nghệ sĩ góp công vào việc xây dựng ba tờ báo đó thật đông và thật kỳ lạ, y như một cánh vườn có trăm hoa, không hoa nào giống hoa nào, mà cả trăm hoa đều đua nở. Ngoài những vị đã được biết từ trước như Nguyễn Đỗ Mục (dịch Tam Quốc Chí, Liêu Trai), Dương Phượng Dực (dịch Les Mystères de Paris), Nghiêm Xuân Lãm, Ngô Văn Triện (tôi được biết từ khi ông làm “Thực Nghiệp”, thỉnh thoảng lại đến bán sách cho nhà tôi xuất bản) và những bạn quen sau này như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Mỹ (tức Anh Mỹ), Lê Văn Trương, Thanh Châu, Nguyễn Trẩm Giự, Ngọc Giao, Thâm Tâm, Hiên Chy, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Kinh Kha, Từ Thạch, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Vũ Lang, Lan Khai, Nguyễn Dân Giám, Vũ Ngọc Phan... trong lúc làm ba tờ báo nói trên, tôi còn có cái may là tìm được nhiều bạn mới, trong số có nhiều anh hiện giờ nổi tiếng như Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Tất Thứ, Nguyễn Văn Nhàn, Lý Văn Sâm, Phan Du, Bùi Hiển, Kim Lân, Nguyễn Văn Xuân, Lê Công Thành, Lâm Mỹ Hoàng Ba, Nguyễn Duy Diễn, Văn Thu, nữ sĩ Ngân Giang, Trần Thanh Địch...
Nam Cao, cùng với tôi, nuôi cái ý thích là viết truyện không có chuyện. Tôi tiếc một điều là lúc ký hiệp định Genève, từ Bắc di chuyển vào Nam, tôi đã để lạc mất hàng ngàn bức thư trao đổi với các văn nghệ sĩ, nói lên sở trường, sở đoản và hoài vọng của từng người thành thực cởi mở cõi lòng với tôi. Tôi chỉ nhớ rằng qua những bức phúc thư, đối với mỗi người, tôi đều đề nghị hướng về một con đường chuyên biệt: như với Nam Cao, tôi đề nghị nên chuyên viết về những bạn trí thức nghèo, Tô Hoài về loài vật, Nguyễn Tất Thứ về các phong tục và đồng dao miền Trung, Lý Văn Sâm về những chuyện đường rừng Trung Nam, Phan Du về bọn quan lại đế kinh xuống dốc và các lề lối ăn chơi ở sông Hương, núi Ngự, Nguyễn Văn Nhàn, về đời giáo học ở tỉnh nhỏ, Nguyễn Duy Diễn về đời sống của người bịnh hoạn quanh năm, Kim Lân về các cách ăn chơi lọc lõi của các vị con quan thất thế, như đá gà, chọi trâu, chơi chó, chơi chữ, chơi cây, đấu kiệu... Tóm lại, tôi có ý muốn đề nghị với các anh em chú ý hướng về một đường đi riêng biệt, để cho mỗi anh em có một “dấu” độc đáo, dễ làm cho người viết văn nổi tiếng, cũng như ở Pháp, nói đến văn kỳ ảo, bí mật thì phải kể Simenon, dâm thư viết thực mê ly có Pierre Louys, mà nói về bọn anh chị có Francis Carco chẳng hạn...
Hầu hết các anh em thỉnh thoảng lại về trụ sở “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” để hội với nhau, mỗi khi có việc quan trọng như ra số Tết, hay ra số đặc biệt; nhưng vì bịnh tim nên ông Long ít khi thù tiếp được. Đại diện có Nguyễn Khánh Đàm (em Nguyễn Tuân), Trầm Kim Dần, phụ trách trị sự những tờ báo của nhà Tân Dân và coi về nhà in, cùng tôi, đưa các bạn ấy đi ăn, đi hát hay đi hút. Vì ít trực tiếp giao thiệp với ông Long, nhiều anh em không hiểu ông và tưởng ông là một lái sách. Thực ra, ông là một người cần mẫn, có tài, có học và có nhiều kinh nghiệm về nghề làm báo. Tôi học được ông rất nhiều trong tám, chín năm hợp tác.
“Truyền Bá” đóng cửa lúc Nhựt Bổn đánh Pháp cùng với “Phổ Thông Bán Nguyệt San”. Nhà in Tân Dân dọn về Mục Xá (Hà Đông) tức là quê ông Vũ Đình Long. Cọc cạch chỉ còn lại “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” ra khổ 45x30, nghiêng về chánh trị, rồi lại ra khổ 7.5x11 chuyên về nghiên cứu văn học, nhưng trong suốt thời gian Nhật thuộc, “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” không còn cách nào sống lại được những buổi huy hoàng khi trước nữa.
Sở dĩ như vậy, một phần lớn là vì đa số anh em văn nghệ trong nhóm Tân Dân xếp bút nghiên theo kháng chiến. Thực ra không phải đến lúc đó anh em mới theo kháng chiến; ngay từ hồi Nhựt tới, Pétain lên cầm quyền ở Pháp thì nhiều anh em trong nhóm đã bí mật hoạt động rồi, nhưng vẫn viết bài thường trực. Phải chờ đến lúc Pháp tiến vào Thủ đô, dân ta tiêu thổ kháng chiến, lúc ấy anh em mới ra bưng thật sự. Trong khi đó, hầu hết dân chúng Hà Nội và các tỉnh cũng như các thành phố lớn cũng đi theo kháng chiến, không ai buồn đọc báo, thành ra làng báo có vẻ hoang vắng, xác xơ, buồn nản. Ngoài những người ra đi, các nhà văn nhà báo còn ở lại khoanh tay nhìn thời cuộc, thay vì viết văn viết báo, hoặc cạo trọc đầu nằm đọc truyện kiếm hiệp Tàu ở tỉnh nhỏ như Lãng Nhân Phùng Tất Đắc.
Ông Vũ Đình Long, tuy không nói ra lời, nhưng cũng ở trong tâm cảnh ấy. Thêm nữa, từ lúc này bịnh tim làm cho ông nhọc mệt hơn bao giờ, nên ông chỉ làm báo cầm chừng, và thừa lúc ở Mục Xá, ông nghỉ ngơi nhiều hơn làm việc, và mỗi khi tôi về thăm, ông sung sướng vô cùng, trịnh trọng làm một cử chỉ hiếm có: mở rượu sâm banh ra, để cùng nói chuyện về tình hình đất nước, mà cũng là để tiễn đưa một thời gian làm báo vàng son.
Thôi, từ đây không còn những ngày dài tháng rộng tương đối được viết lách và xuất bản tự do: Nhật đến, chế độ kiểm duyệt được lập ra ngay dưới quyền điều khiển của một người Cao Ly theo Nhật. Nhà báo bị hiến binh nửa đêm đến bắt có hàng trăm, hàng ngàn. Dân chúng sống trong sự hãi hùng rùng rợn. Cùng lúc đó, Việt Minh nổi lên hoạt động ngay trong lòng địch, đánh thức dậy lòng uất hận đối với cả “Pháp thực dân” và
“Nhật phát xít”. Kết luận: văn chương lùi xuống hàng thứ yếu, người nào cũng thấy bừng lên trong lòng ngọn lửa thiêng chống xâm lăng và muốn xông ra tiền tuyến. Cố nhiên, ở vào một giai đoạn như thế, làm báo văn nghệ không thể nào sống được. Người ta chỉ muốn tìm đọc những tờ báo nói lên uất hận và nguyện vọng của người dân, những tờ báo gào thét lên những tội lỗi tầy đình của thực dân và phát xít, nhưng ai dám nói?
Chỉ nói bóng nói gió một chút thôi cũng đủ làm cho những kẻ thống trị bắt giữ, cho đi tù đày hay đánh đập cho đến chết và đóng cửa báo liền. Báo bí mật của kháng chiến được hinh hương như sấm truyền. Những người không có gan đọc báo lậu, đành trùm chăn, tìm những tờ báo khảo cứu, sưu tầm để đọc tiêu sầu và cũng muốn nhân lúc quốc gia đa sự, học hỏi thêm để mở mang trí óc. Tờ “Tri Tân” của ông Nguyễn Tường Phượng, có nhiều nhà văn lớp cũ hợp tác như Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Triệu, Nguyễn Quang Oánh nhờ đó cứ sống dai dẳng mãi. Tờ “Thanh Nghị” của nhóm Đặng Thai Mai, Đinh Gia Trinh cũng được nhiều người lưu ý, nhưng trội hơn hết trong thời gian này là tờ “Trung Bắc Chủ Nhật” của Nguyễn Doãn Vượng.
TRUNG BẮC CHỦ NHẬT GIỮA HAI NƯỚC TỀ VÀ SỞ
Nói thực ra thì tờ “Trung Bắc Chủ Nhật” không đợi đến lúc này mới nổi bật trên làng báo Việt Nam, nhưng đã giữ được một địa vị cao từ lâu lắm, ngay từ hồi mới xuất bản, hồi Pháp còn thanh bình bảo hộ đất nước ta.
Lúc đó, ông Nguyễn Văn Luận làm tờ “Trung Bắc”. Nhờ uy tín từ hồi ông Nguyễn Văn Vĩnh còn để lại, báo “Trung Bắc” vẫn được người Pháp nể vì cho nên dù không chạy bằng các báo hằng ngày khác như “Đông
Pháp” chẳng hạn, nhưng mỗi khi nêu một ý kiến ra thì vẫn được các nhà cầm quyền Pháp đặc biệt lưu ý.
Tôi không hiểu làm sao Ngô Văn Phú và Hoàng Hữu Huy, chủ nhiệm và chủ bút “Đông Pháp”, nhiều lần muốn ra một tờ “Đông Pháp hàng tuần” mà lại không thi hành ý định. Ông Nguyễn Văn Luận xin ra tờ “Trung Bắc Chủ Nhật” thì được phép ngay trong hai tuần. Lúc đó, tôi không còn hợp tác với tờ “Trung Bắc” nữa: còn lại Dương Phượng Dực, Dương Mầu Ngọc, Mai Đăng Đệ, Hồ Khắc Tráng, Nguyễn Văn Bân... Nếu tòa soạn này làm “Trung Bắc Chủ Nhật”, chắc chắn báo sẽ thành cơm nguội, nên dù được phép, ông Luận vẫn lừng khừng không biết quyết định ra sao. Cho đến một ngày kia, Nguyễn Doãn Vượng chạy sang nhà tôi, báo cho biết là anh đứng chủ trương tờ “Trung Bắc Chủ Nhật” do ông Luận trao toàn quyền cho anh đứng làm.
Vượng và tôi là bạn, nhưng thực ra thì như anh em một nhà. Chính anh đã đưa tôi vào báo “Trung Bắc” hàng ngày, làm phóng viên, và “Rạng Đông” làm thư ký tòa soạn. Anh em vẫn giao du thân mật với nhau, riêng có thời kỳ làm “Vịt Đực” là tôi ít khi gặp Vượng, vì anh không mấy tán thành đường lối của báo này, mặc dầu đi đâu người ta cũng nói đến tờ báo đó. Vượng đặt nặng vấn đề xây dựng hơn là phá hoại. Vì thế, lúc gặp tôi nói về tờ “Trung Bắc Chủ Nhật” và rủ tôi hợp tác, anh nói rõ ngay ra là anh nghiêng về mặt xây dựng và muốn rằng tờ “Trung Bắc Chủ Nhật” sẽ có một “dấu” đặc biệt, độc đáo cả về nội dung lẫn hình thức, không giống các tuần báo đã từng xuất bản ở Việt Nam.
Đầy một thứ nhựa mới. Nguyễn Doãn Vượng mất ăn mất ngủ để nghĩ cách trình bày tờ báo. Bây giờ, bìa báo như thế trông quen mắt nên người ta coi là thường, chớ vào lúc đó, quả là một sáng kiến táo bạo: bìa “Trung Bắc Chủ Nhật” số 1 trông như bìa một số báo Life hay Match. Mỗi kỳ, cách trình bày lại đổi đi; còn bên trong thì các tít bài hoặc vẽ, hoặc xếp typo; thẳng, ngang, dầy, mỏng, chỉ đơn thuần có chữ hay kèm hình ảnh, tất cả đều theo tinh thần từ bài báo tiết ra.
Về nội dung, “Trung Bắc Chủ Nhật” cũng hoàn toàn mới: thay vì cứ mua bài xếp đống, rồi mỗi kỳ lấy ra một hai bài tương đối có tính cách thời sự để lên đầu rồi kèm những bài “vô hại” đăng năm nào cũng được, mùa nào cũng được, như trăm ngàn tờ báo khác lúc bấy giờ, Nguyễn Doãn Vượng chủ trương mỗi kỳ báo đề cập đến một vấn đề nhứt định, đại khái một kỳ nói về chiến tranh, một kỳ nhắm về cô đầu, một kỳ nhắm về hội họa mà những vấn đề mang ra viết đó phải thiết thực, sát với thực tế, gắn liền với thời sự, mà nếu đi trước thời cuộc càng hay.
Tôi tức Nguyễn Doãn Vượng vì anh ta khó tính, làm việc gì cũng muốn cho toàn chân, toàn mỹ - mà theo tôi thì chân, thiện, mỹ hoàn toàn, có bao giờ lại thể hiện được ở đời này? Mỗi khi suy nghĩ tìm vấn đề gì khai thác, có khi anh thức sáng đêm như con ma, đi lại trong buồng sách để tìm tài liệu và ghi chép những điều bật ra trong trí óc; như thế cũng chẳng làm sao, nhưng ác hại là sáng hôm sau, anh sang nhà tôi kêu dậy thực sớm, để phô bày ý kiến rồi đi thúc giục các anh em viết bài, triệt để khai thác từng vấn đề. Có vấn đề viết một kỳ báo thì tạm đủ, nhưng cũng có những vấn đề ra đến bốn, năm số báo liền mới sử dụng hết tài liệu, hay trình bày ý kiến. Vượng làm tất cả các công việc ấy, còn tôi thì sắp xếp, làm tít, đặt thứ tự và sửa chữa các bài để cho tất cả đều nhất trí, phối hợp cho có hệ thống và làm tít để cho độc giả ham mà đọc. Làm xong các công việc ấy rồi, tôi chuyển lại trả Vượng; nếu có thêm ý kiến hay tài liệu hoặc có sự việc gì mới xảy ra liên quan đến các bài sắp đưa xếp chữ, anh lại sửa nữa, tìm thêm tranh ảnh để gài vào bài và nhiều khi anh vùng đứng dậy chạy đi mất hút để tìm một anh nào khác nữa viết thêm cho một bài liên quan đến vấn đề, mà anh biết rằng người bạn ấy có thừa khả năng và hiểu biết về vấn đề muốn nói.
Làm báo như vậy, không thể viết gì thì viết, nhưng phải viết những bài theo những mục đề và tinh thần do tòa soạn thảo luận và quyết định. Cũng vì thế, sự đoàn kết của tòa soạn với ban giám đốc hết sức chặt chẽ, mà những người viết phải tham khảo tài liệu, và viết thực nhanh. Bởi vì có nhiều khi, thí dụ báo bắt đầu in ngày thứ năm, mà thứ hai mới biết cần viết về vấn đề gì, người viết phải làm thế nào nội trong hai ngày thứ ba, thứ tư, đi tìm tài liệu hay đi phóng sự, phỏng vấn để về viết cho kịp bài đưa chiều thứ tư hay sáng thứ năm là cùng. Vào lúc đó là lúc hầu hết người ta viết báo theo kiểu “dưỡng lão”, làm một tờ như tờ “Trung Bắc Chủ
Nhật” thật là vất vả, nhưng nhờ cách quảng cáo, phát hành, cổ động rùm beng, báo chạy ồ ạt ngay từ số đầu, nên anh em cũng không thấy mệt mỏi lắm, trái lại phấn khởi và hăng hái hơn lên.
Dần dần, số anh em bỉnh bút tăng lên gấp đôi, gấp ba, thay vì chỉ có Vượng, Hồ Khắc Tráng, Sở Bảo Doãn Kế Thiện và tôi lúc đầu. Tòa soạn tăng cường có thêm Đào Trinh Nhất, Văn Hạc Lê Văn Hòe hợp tác thường trực, còn viết bài không nhất định thì có Nguyễn Huyền Tĩnh, Ngô Tất Tố, Hồ Khắc Quảng, Huyền Hà Nguyễn Lan Hòa, Hồ Dzếnh, Tùng Hiệp, Nguyễn Tuân... và sau này có cụ Nguyễn Quang Oánh dịch cho tập “An Tử Xuân Thu” và cụ Bùi Kỷ mỗi kỳ cho một bài “Phương Pháp Học Chữ Nho”.
Ông Đào Trinh Nhất cũng như các cụ Bùi Kỷ, Nguyễn Quang Oánh dăm thì mười họa mới đến nhà báo nói đôi ba câu chuyện. Tòa soạn, làm thường trực có Hồ Khắc Tráng, Lê Văn Hòe, Huyền Hà, Tùng Hiệp và tôi. Hồ Khắc Tráng, bút hiệu là Hồng Lam, lúc nào cũng hớt hơ hớt hoảng như sắp chạy đi làm áp phe (thực ra anh đi hút), đúng là một người làm báo: anh rất thính tai, thâu lượm được nhiều tin tức mà viết lại nhanh, viết đủ mọi mặt, viết bất kể ở đâu và bất kể lúc nào cho nhiều tờ báo cùng một lúc, nhưng lúc nào cũng thiếu tiền, bạ ai cũng vay, nhưng được một cái là vay có trả. Cùng với Ngọc Thỏ, lúc nào anh cũng bỏm bẻm nhai trầu, môi đỏ toe toét, tay cầm một tập giấy và, rất trơ, bất cứ ai cũng gạ làm quen cho kỳ được, miễn là lấy được tin tức thì thôi, chửi hay khen anh không bao giờ kỳ quản.
Tùng Hiệp cũng là một trang thính tai như Hồ Khắc Tráng, nhưng chỉ trong phạm vi những chuyện gia đình của người ta. Không hiểu nhờ hệ thống ăng ten nào, anh rất thông thạo, nhưng biết để đấy, hoặc tiết lộ “từng giọt” cho anh em nghe chơi, chớ không viết lên trên báo, vì anh rất “nguyên tắc” trong ý niệm về đời tư và đời công của người ta: ông là thượng thư, bộ trưởng mà làm hại dân, hại nước thì tôi đả, nhưng ông ăn chơi cờ bạc, ngủ bậy, ngủ bạ thì tôi không biết và tôi không muốn biết. Có lẽ Tùng Hiệp Nguyễn Xuân Hiệp phải phân định rõ ràng như thế, là vì chính anh không muốn ai trộn lộn đời tư vào với đời công của chính anh. Hiệp là con trai một của một nhà có miếng ăn ở Hàng Bồ, sống một đời tương đối đầy đủ từ tấm bé. Cuộc đời anh bình thản, vô lo lự, làm báo lấy tiền để tiêu thêm; tuy có yêu nghề thực, nhưng yêu rượu, yêu cái đẹp của phụ nữ và yêu sự cười cợt, sự vui nhộn còn hơn thế.
Cho đến bây giờ, tôi chưa thấy một người nào biết nhiều truyện quấy, truyện tiếu lâm Ta, Tầu, Tây, Ấn... như Tùng Hiệp. Bất cứ ai nói về vấn đề gì nghiêm chỉnh đến đâu, anh cũng đề vào được một truyện “mặn”, một truyện “mạc xây de”, một truyện “đểu” văn hoa nghĩa lý để cho ta cười cợt và bất cứ người nào, dù quan trọng đến chừng nào, cũng hóa ra tầm thường, mất thiêng.
Vì thế, mặc dầu làm phóng viên và bỉnh bút viết điều tra và truyện ngắn, Tùng Hiệp ở báo nào cũng phụ trách mục thả vịt, mục vui nhộn, giọng văn không ác nhưng làm cho nhiều người tức không chịu được, vì thế mới xảy ra vụ Clau- de Bourrin trong Hội Kịch Bắc Kỳ đem binh tôm tướng cá đến trước cửa báo “Trung Bắc Chủ Nhật” đòi xin tí huyết của anh, nhưng, nhờ Vượng, vừa tung vừa hứng, vừa khuyên can, vừa đe dọa dùng võ lực, nếu cần, nên công việc êm thấm và tướng cá binh tôm rút ra về, không trống không kèn.
Tuy nhiên, Hiệp vẫn không vì thế mà chùn tay viết. Sau này, vào lúc Pháp trở lại Hà Nội, người mình tản cư kháng chiến ra ngoài, Hiệp không có báo để viết nữa, tiếp tục trêu tức người ta bằng báo miệng ở trong thành, vì thế mấy ông Tây lai uất không chịu được, đã bắn Hiệp chết giữa lúc đời anh đang “xanh lên không biết bao nhiêu hy vọng”.
Văn Hạc Lê Văn Hòe trái ngược hẳn với Hiệp. Tùng Hiệp quấy bao nhiêu, trẻ bao nhiêu, vui đời bao nhiêu thì Văn Hạc Lê Văn Hòe lại nghiêm bấy nhiêu, trịnh trọng bấy nhiêu và già bấy nhiêu. Người đọc báo xem văn Lê Văn Hòe, tác giả những cuốn như “Tầm Nguyên Tự Điển”, sổ hàng tràng chữ nho ra trong các bài báo, tưởng đâu Lê Văn Hòe không là một ông lụ khụ thì cũng râu ria đạo mạo, có cháu nội cháu ngoại rồi. Lầm. Văn Hạc Lê Văn Hòe cũng sít soát cùng tuổi với chúng tôi khi đó, nhưng cũng như Đào Trinh Nhất, anh có một tư thế hơn nhiều anh em khác, là vì anh là người... Tây pha Nho, thêm cái đức tính viết khỏe, viết nhanh mà lại sống ngăn nắp, giữ được nhiều tài liệu, nên bất cứ vấn đề gì nêu ra trong “Trung Bắc Chủ Nhật” và “Báo Mới”, anh thường với tay ra là có.
Câu chuyện sau đây là một chuyện thực về Lê Văn Hòe: anh ta nói nhiều không chê được, nói thiên hô bát sát, nói không để cho ai nói xen vào được một câu. Thậm chí có lần, không nhớ đề cập đến vấn đề gì, anh nói nhiều đến nỗi phát ho hen lên. Một người, thừa dịp anh ho, lắp bắp sắp nói xen vào thì... không, các bạn không thể tưởng tượng được Lê Văn Hòe xử sự ra sao! Anh giơ cả hai tay lên xua xua, ra hiệu bảo ông kia đừng nói, để cho anh... ho nốt rồi nói tiếp, và kết cục là đến lúc đứng lên ra về, ông bạn không nói được một câu nào hết. Vì thế, tôi băn khoăn không hiểu Lê Văn Hòe cứ nói như thế thì còn thời giờ đâu mà viết, viết “Trung Bắc Chủ Nhật”, viết “Báo Mới”, viết sách, lại viết xã thuyết cho “Việt Báo” cùng với một số bạn hữu khác để cho Phạm Lê Bổng ký tên “Lê Hoàng Long” và nhận là của mình viết ra. Nhiều lần, tôi định hỏi Lê Văn Hòe nói suốt ngày như thế, còn thì giờ đâu mà viết, thì Tùng Hiệp, thổ công Hà Nội, cho tôi hay là phúc cho Văn Hạc Lê Văn Hòe, anh ta lại nể vợ - nể, chớ không phải sợ - về đến nhà là không ho he một tiếng, im cứ thin thít như là thịt nấu đông.
ĐÀO TRINH NHẤT
Đào Trinh Nhất là một thái cực của Lê Văn Hòe. Hòe nói nhiều bao nhiêu thì Đào Trinh Nhất lại ít nói bấy nhiêu. Ông không năng đến nhà báo, cứ đúng ngày đúng tháng đẻ ra bài xong thì có tùy phái đến lấy bài đưa về; đôi khi, dạo lên báo quán lấy ít tiền trước về tiêu. Anh em đều ngán vì ông nói khoan thai, chậm chạp, yếu ớt; đã thế có khi đến mươi, mười lăm phút mới nói một câu; xong, ngồi xì ra đấy. Bị Tây trục xuất ở Nam ra vì bị ngờ là chống Pháp và thân Nhật, ông Nhất xì ra không nói, có thể là vì buồn - nhiều người ngờ thế, viện lẽ ông ở Nam đã lâu ngày, quen thuộc với làng báo ở Nam hơn là Bắc. Thực ra, tính ông từ xưa đến nay vẫn thế. Trong suốt thời kỳ tôi ở Nam, nằm hút ở đường Lefèbvre, Nhất vẫn cứ xì ra như thế; mặt ông lúc nào cũng bệch bạc, lạnh lẽo, nhất là mỗi khi cười thì càng lạnh lẽo quá làm cho người đối thoại với ông lần đầu ơn ớn nơi xương sống và không thể có cảm tình ngay; nhưng biết Nhất lâu ngày, anh em thân đều nhận ông là một người chung thủy, trước sau như một và đối xử rất tận tình với bạn. Việc ông đứng ra làm tờ “Cải Tạo” cho Phạm Văn Thụ - mà người đầu tiên ông nói với Thụ mời về hợp tác là tôi - cũng như việc ông viết bài cho báo “Vì Dân” của Hội Đồng An Dân, một phần lớn, theo tôi, là vì cái tình đối với hai người bạn của ông lúc bấy giờ là bác sĩ Phạm Văn Phán và ông Mai Ngọc Thiệu. Giúp cho tờ “Trung Bắc Chủ Nhật”, ông vì tình với cụ Luận và Nguyễn Doãn Vượng nhiều hơn; nhưng lúc đầu, ông vẫn giữ gìn, chỉ ký tên XYZ, sau rồi mới ký là Quán Chi và mãi sau này, hiểu biết rõ Vượng hơn, ông mới chịu để báo quảng cáo rõ cái tên Đào Trinh Nhất. Lúc ấy, đối với làng báo Bắc, ông đã quen với độc giả rồi: những bài sưu tầm, nghiên cứu của ông được người ta tìm đọc, một phần vì tài liệu súc tích, mà một phần cũng vì ông đã khéo làm những cái tít khiến cho độc giả giựt gân, muốn đọc xem trong bài ông nói gì. Loạt bài “Vương Dương Minh”, tuy nhiên chỉ được một số người ham chuộng. Độc giả “Trung Bắc Chủ Nhật” mê Đào Trinh Nhất là vào hồi ông viết tiểu thuyết dài như “Cô Tư Hồng”, “Con Quỷ Phong Lưu”... khả dĩ đối địch được lại với những truyện dài của Lê Văn Trương lúc ấy đang làm mưa làm gió trong làng tiểu thuyết và đồng thời cũng là tiểu thuyết gia số một của nhà xuất bản Tân Dân, được ông Vũ Đình Long hết lòng chiều chuộng. Thấy tiểu thuyết của Đào Trinh Nhất được người ta đọc say mê, ông Vũ Đình Long nhờ Vũ Ngọc Phan điều đình ông viết thêm cho “Tiểu Thuyết Thứ Bảy”, nhưng ông Nhất rất phân minh: ông nhận lời viết cho nhà Tân Dân, nhưng không viết tiểu thuyết, chỉ viết những bài sưu tầm, khảo cứu về văn học, tôn giáo. Sự hợp tác không được lâu vì “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” bị một vài cha cố Tây lúc ấy làm khó dễ vì một bài nói về đức bà Maria và chúa Giê Su, “viết không đúng theo Kinh Thánh”.
Cái việc cha cố Tây lúc ấy chơi ngang xương như vậy đã làm cho các ký giả không hài lòng. Văn Hạc Lê Văn Hòe cho Nhất viết thế là đúng; Hồng Lam Hồ Khắc Tráng cũng vậy; riêng Huyền Hà là người theo đạo Công giáo thì không nói gì, chỉ mỉm cười. Là vì thực ra Huyền Hà không thích những chuyện lôi thôi như thế: ngoài việc dịch truyện từ Anh ngữ sang Việt ngữ cho “Trung Bắc Chủ Nhật”, như “Chài”, “Bức Màn Sơn”, “Con Đường Nguy Hiểm”... và một số truyện ngắn của các danh văn ngoại quốc, Huyền Hà không muốn bàn tán đến việc gì, ngoài việc đánh bài.
Huyền Hà cùng học một trường, theo cùng lớp, và ngồi cùng một bàn với tôi. Anh khá về cả văn chương lẫn toán, nhưng lười vào số dách vì ngay từ lúc ấy anh đã ham đánh bạc - đánh bạc ngay cả trong khi cô Lataste giảng về sử địa. Sau này ra đời, vẫn chơi bời đi lại với nhau, tôi biết là anh đánh bạc dữ dội, nhưng không lúc nào tôi đả động, vì tôi biết từ thuở bé, anh đã sống thiếu tình thương trong một gia đình giàu có ở đường Hàng Trống, mà rất ít người biết chuyện đau thương ấy. Tuy đã lớn tuổi, chúng tôi ra đời vẫn giao du với nhau như lúc hãy còn bé nhỏ: tôi có cái ấm cò bay để pha trà ban đêm lúc viết văn, đem ra khoe với Huyền Hà, còn Huyền Hà mỗi khi có một cuốn truyện tình “hy hữu" - kèm tranh vẽ - đạp hộc tốc đến cho tôi mượn để coi, và lúc thì cho một ít ”Lệ chi hồng trà", lúc thì cho bao thuốc lá Mỹ - lúc ấy không có thuốc lá Mỹ như bây giờ - hay một vài điếu thuốc lá Nga, lúc thì cho một gói đường nguyên tử “lạ lắm, toa ạ, chỉ cần cho một tí thôi cũng đủ làm ngọt cả một ly cà phê lớn”. Tình bạn nhàn nhạt như nước lạnh, kéo dài như thế cho đến lúc Pháp đánh Việt ở Hà Nội thì tôi về một căn nhà nghỉ mát ở Đầm Linh Đường, rồi từ đó ra hậu phương theo kháng chiến; còn Huyền Hà ở lại. Đến khi trở về, tôi đi qua Hàng Trống, vào hỏi thăm anh, thì anh đã mất vì có một bọn lính lê dương vào quấy ở tiệm ảnh của ông Hương Ký; anh can thiệp và bị bọn chúng bắn vào sau lưng trong lúc anh quay lưng lại để trèo lên thang gác. Cũng khi đó, tôi cũng nghe thấy nói Nghiêm Xuân Lãm cùng với gia đình chết cả vì Tây ném lựu đạn xuống cái hầm mà ông với gia đình trú ẩn; Việt Bằng bị bắn ở một ngoại ô; Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc cũng không còn nữa. Nghe thấy thế, tôi buồn muốn khóc, đi một mình ở ven hồ, đọc một mình câu thơ của Thao Thao nói về chim sếu “bên hồ cứt trắng khô”. Từ chỗ sâu thẳm nhất của lòng, tôi nghe thấy một cái gì rõ rệt hơn trước cuồn cuộn lên, cuồn cuộn lên. Còn nhớ có một lần, không xa, tôi đã nghe thấy một cái gì manh nha trong tim óc, và lúc ấy tôi tiên cảm rằng cái gì đó sẽ thay đổi rất nhiều ý niệm về nếp sống, về cách nghĩ và cả nghề nghiệp của tôi. Thì hôm nay đây, “cái gì đó” đã hiện ra rõ rệt hơn trước một chút: làm báo không thể là chỉ để chơi hay kiếm tiền, người làm báo phải trả nhiều thứ nợ hơn người khác vì người làm báo biết nhiều hơn, cảm nhiều hơn và cũng sống gần với thực tế xã hội hơn người khác. Được rồi, người ta bảo làm báo là nói láo ăn tiền, mặc họ; nhưng người làm báo chân chính không thể và không bao giờ quan niệm nghề nghiệp của mình như vậy. Hơn cả ai hết, họ biết rằng báo chí là một bộ môn văn hóa phản ánh sinh động nhất, đầy đủ nhất tính chất của một chế độ và cho một chế độ xã hội, không những nói lên - đúng như lời ông Nguyễn Văn Vĩnh đã nói với Hy Tống - nói lên phẩm chất hoặc văn minh ưu việt, hoặc thoái hóa của chế độ ấy, mà còn đi sâu vào từng tình tiết, tâm tư của con người, từng khía cạnh trớ trêu, uẩn khúc, giả tạo của chế độ.
Trung thành với lý tưởng chống áp bức, chuộng tiến bộ mà quyền lợi tinh thần của con người đã ủy thác cho nó, báo chí luôn luôn có tính năng tranh đấu và xây dựng. Có khi để thực hiện sứ mạng ấy, người làm báo hành động trơn tru, êm đẹp, bình thường; nhưng trong rất nhiều trường hợp, không thể yên ổn, bình an như các tầng lớp người dân khác.
Là vì quyền lợi dân tộc nhiều khi trái ngược với quyền lợi của một chế độ, hay của một chính phủ, nên mâu thuẫn thường phát sanh, tạo ra những điều trái nghịch, uất hận, bất công. Vì thế báo chí phải kinh qua những nghịch cảnh, thăng trầm, mà người làm báo - cũng như làm chính trị - thường bị vu cáo, hành hạ, tù tội, đầy ải hay chết oan, chết ức.
Người làm báo đã bị thiên hạ khinh khi là loại người nói láo ăn tiền, lại còn mang cái tiếng là dại nữa. Tại sao cứ chướng ách, chống đối làm gì? Tại sao không làm như bao nhiêu người khác gục mặt, cúi đầu nhận kẻ thù làm bạn để chúng thí cho cơm thừa canh cặn mà ăn? Tại sao không nghe lời chúng như chó nghe lời chủ, cầm gươm cầm súng để giết cả cha mẹ mình, anh em mình, họ hàng làng mạc nhà mình? Hỡi tất cả các nhà viết báo đã chết và còn sống, hỡi tất cả các anh em ký giả ở bên này và bên kia lằn mức, nghĩ đến bao nhiêu khổ ải của các anh, nghĩ đến bao nhiêu ngộ nhận mà người ta gán cho các anh, nghĩ đến bao nhiêu công trình tranh đấu âm thầm, lặng lẽ, không cần ai biết của các anh, tôi mới thực hiểu chữ “đoạn trường” nó thế nào, và cũng từ lúc đó tôi mới thấy, trong quỹ đạo của nghề báo, tôi cần phải làm một cái gì khác trước, thực tế hơn trước, mà cũng là để xứng đáng với những anh em xa gần hơn trước.
Phải, tôi nghĩ như thế và tôi cảm thấy bừng bừng người lên như thể muốn ra ngay tiền tuyến để hỏi cái nợ máu của thực dân đối với anh em đồng bào tôi. Nhưng... về chiều, gió Hồ Gươm thổi lạnh, mưa bay như rây bột làm cho quần áo và cả lòng người ẩm ướt, tôi cảm thấy nếu không vào “Le Lac” uống mấy cái “pun xô” để sưởi ấm lòng thì buồn không chịu được, buồn chết mất. Và, ngay đêm hôm đó, tôi quên hết bao nhiêu bè bạn đã chết, tôi quên hết tất cả những ý nghĩ cao đẹp ban ngày...
Rồi ngày tháng trôi qua, tôi tiếp tục viết thật nhiều, viết chí tử để sống một cuộc đời đầy đủ, phè phỡn với gà, chó, chim chóc, cây cảnh... cho đến lúc quân đội Pháp thua hết trận nọ đến trận kia và dân chúng bắt đầu bán nhà bán cửa để lên đường vào Nam. Quản lý văn khế Deroche, cũng rục rịch đem văn phòng đi luôn, gửi cho tôi một thư yêu cầu, trong thời gian một tháng, phải đem trả văn phòng số tiền ba trăm ngàn đồng mà tôi còn thiếu “nếu không thế thì hai cái nhà tôi cầm sẽ đưa ra bán đấu giá”.
Tôi nhớ lúc đó là tháng chạp âm lịch, trời rét như cắt da cắt thịt, suốt ngày tôi đi mượn tiền để trả quản lý văn khế mà không ai cho mượn được lấy năm ngàn đồng. Thất vọng quá, tôi lì, cố không nghĩ đến chuyện bần tiện đó nữa. Đêm giáng sinh năm ấy, tôi cố giữ cho lòng bình thản, tự bảo mình lúc đi nằm: “Mấy năm nay ở hậu phương, mình không nghe chuông nhà thờ, năm nay phải cố thức xem nó có gì đặc biệt không”. Nhưng rồi tôi ngủ lúc nào không biết và tôi giựt mình thức dậy vào lúc chuông nhà thờ reo gần hết. Giựt mình vì tôi vừa nằm thấy một giấc mơ vô nghĩa. Tôi mơ mơ màng màng thấy Huyền Hà từ cầu thang gác nhà tôi đi lên phía đầu giường tôi; anh vận bộ âu phục mầu xám đậm, y như lúc sống, và hỏi tôi: “Mày làm sao mà mặt mũi rầu rĩ thế?”. Tôi đáp đúng nguyên văn như thế này: “Tao khổ hơn con chó, đi xoay tiền khốn nạn mà không được”.
Huyền Hà thản nhiên, gật đầu, rồi tiếp: “Mày nói thật đấy à? Nếu quả như thế, tao giúp mày”. Chỉ có thế, rồi tôi thức dậy. Con chó sủa mấy tiếng ở dưới nhà. Tôi nói chuyện với vợ giấc mộng vừa qua và kết luận: “Vô lý hết sức. Một người chết mà hiện về bảo giúp cho người sống, nghe không thể được. Bố mày dóc quá, dóc lúc sống, mà chết đi vẫn còn dóc như thường”. Nhưng vợ tôi không chấp nhận luận cứ đó, vì tin rằng những người lúc sống thông minh, mà bị bất đắc kỳ tử, thường linh thiêng hơn nhiều người khác. Tôi phủ nhận tư tưởng ấy, nhưng trong thâm tâm, tôi tự nhủ hôm nào phải hỏi thăm mộ Huyền Hà ở đâu để đến viếng anh một chút. Tuy nhiên ý định ấy không thể thực hiện được, vì mỗi ngày, việc xoay tiền cấp bách hơn. Một hôm, Bùi Cẩm Chương, chủ nhiệm báo “Hồ Gươm” tìm tôi hỏi có phải tôi cần tiền thực không, rồi anh hứa đi tìm người cho vay. Tôi không từ chối, nhưng cười vào mũi Chương mà bảo: “Bố mày hàng tuần xoay có mấy trăm đồng lấy báo mà còn không nổi, lại nói chuyện vay mấy chục vạn cho tớ, bố mày đùa đấy chứ?”. Bùi Cẩm Chương không nói, nhưng tối hôm ấy đi xe đạp đến nhà tôi - anh là Chương Mù nhưng đi xe đạp liều không chịu được - báo cho biết là mai có ông chú anh tới tìm tôi nói chuyện.
Nói chuyện thì mới biết ông chú ấy cũng đét như là bọn tôi, nhưng ông là môi giới đi vay và nói chắc là vay được. Nhưng đi đến ba bốn chỗ mà cũng không vay được đồng nào. Tôi bắt đầu thất vọng thì gặp Tuất, thư ký của Deroche, một người bạn của Chương và tôi, có tiếng là làm ăn khấm khá, nhưng Tuất cũng không có tiền. Anh cũng hứa giúp tôi và bảo nếu xoay được sẽ kêu điện thoại cho tôi liền. Tôi ừ ào gượng gạo, vì một ngàn phần không tin được một; nhưng một buổi sáng, Tuất kêu tôi thật và bảo đến chiều thứ ba tới thì lại văn phòng chưởng khế. Đúng hôm đó, tôi lại và ngồi chờ. Deroche thấy tôi, cho mời vào trước và hỏi có tiền chưa. Tôi nói: “Có người cho vay rồi”. Tôi đưa mắt nhìn Tuất hỏi ai, thì Tuất luống cuống: “Người cho vay chưa đến, ngồi chờ một lúc xem sao”.
Thất vọng không thể tả được, tôi định ra về thì Tuất reo lên “Kia rồi!” và bảo tôi vào ngay văn phòng làm giấy. Trước mặt quản lý văn khế, một quả phụ ăn vận đồ đen, đưa thẻ kiểm tra ra và nói với quản lý văn khế rằng bà bằng lòng lấy ra ba chục vạn trong số tiền bà gửi văn phòng chưởng khế cho tôi mượn. Tỉnh hẳn người, tôi cũng đưa kiểm tra ra cho chưởng khế làm giấy tờ; xong rồi, cả hai người cùng ký. Lúc đó, tôi mới liếc xem thiếu phụ cho tôi vay tên là gì, ở đâu, mà lại tốt như thế được. Đầu óc tôi như có sương mù; tôi trông bà mang máng nhớ có gặp vài lần, nhưng ngay lúc đó thì không nhớ là gặp ở đâu. Đến lúc ra về, tôi liền hỏi thì mới biết là vợ Huyền hà! Sở dĩ tôi không nhớ được rõ lắm là vì lúc Huyền hà còn sống, anh ở gác ba, mà vợ và con ở tầng nhì; phần nhiều đến chuyện trò với Huyền Hà, tôi chỉ đi qua rồi lên thẳng, nên ít khi gặp mặt, nhưng vì bè bạn đi lại với Huyền Hà rất ít, nên chị cũng biết tôi, và lúc sống, Huyền Hà thường nói tới tên tôi, mỗi khi tôi biếu thức gì, anh lại về khoe với vợ. Chị nói:
- Thực tình, tôi không biết anh vay, đến tận lúc anh đưa kiểm tra ra, tôi mới biết là anh đấy.
Sau đó, vài ngày, chị cho tôi biết thêm:
- Số tiền tôi gửi quản lý văn khế là tiền gia tài của thày mẹ nhà tôi cho, lúc Huyền Hà mất đi. Có nhiều người nói với thày mẹ tôi và thày mẹ chồng tôi, khuyên tôi lấy tiền ra để làm ăn sinh lợi, nhưng tôi không chịu. Tôi cứ định để đấy để sau này cho các con. Nhưng... kỳ lắm, anh ạ. Đêm giáng sinh vừa qua, tôi nằm mơ thấy anh ấy về, vào trong phòng xoa đầu các con đang ngủ và bảo tôi: “Này em, có ai nhờ giúp gì thì cố giúp người ta nhé”. Tôi nào biết giúp cái gì, mà giúp ai? Tôi suy nghĩ mãi mà không thể nào hiểu nổi, nhưng kể từ lúc nằm mê, lúc nào tôi cũng thấy nóng ruột. Rồi một hôm, ông Tuất gặp tôi ở văn phòng chưởng khế, bảo có một người muốn vay tiền. Không hiểu tại sao, tôi nhận lời ngay, mặc dù không biết người vay tiền đó là ai, và mặc dù từ trước đến lúc đó, có bao nhiêu người đã nhờ thày mẹ tôi nói giùm mà tôi không chịu. Thực quả là tôi không hiểu tại sao tôi lại nhận lời cho vay như vậy, nhưng có một điều tôi nhận thấy rất rõ rệt; nhận lời như thế, tôi không thấy băn khoăn một chút nào và đến khi ký giấy tờ ở chưởng khế xong, tôi tự nhiên thấy hết nóng ruột.
Nghe câu chuyện của chị Huyền Hà xong, tôi thấy cả người lạnh toát, và đến lúc này, thuật lại câu chuyện không thêm bớt, tôi vẫn còn giật mình, sao lại có thể có sự cảm thông giữa một người bạn với một người bạn, một nhà văn nhà báo với một nhà văn nhà báo kỳ lạ đến như thế được. Và cũng từ lúc đó, lòng tôi thay đổi rất nhiều: tôi tin ở Phật, Trời; người chết và người sống có sự tương quan; ở đời có âm phù dương trợ thực; và tôi cứ tin như thế, không cần biết tin như thế thì có phải là thoái hóa, phản khoa học hay lạc hậu không...
Bây giờ, trở lại lúc làm “Trung Bắc Chủ Nhật”. Làm thư ký tòa soạn của “Trung Bắc Chủ Nhật” từ số đầu cho tới khi báo nghỉ, tôi chuyên trách về các bài vở đăng báo và góp thêm ý kiến với Vượng về việc tìm vấn đề làm các số. Xong đâu đó, tôi chuyển sang cho Vượng suy nghĩ về cách mi và tìm hình ảnh để cho báo vui hơn và sống động hơn. Mời người hợp tác cũng như các món chi tiêu thù tạc đều do Nguyễn Doãn Vượng liệu lý, và nếu cần phải đối phó thì cũng do Vượng cả. Tôi tránh đi như thế một phần cũng là vì, đúng trong thời gian đó, tôi là thư ký tòa soạn cho ba tờ báo “Phổ Thông”, “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” và “Truyền Bá”. Mà “Tiểu thuyết Thứ Bảy” và “Trung Bắc Chủ Nhật” lại là hai tờ báo chạy nhất nước, số in xấp xỉ ngang nhau. Đứng vào cái thế ngang trái ấy, tôi ngỏ ý với Nguyễn Doãn Vượng một bên, và ông Vũ Đình Long một bên, xin thôi, để chỉ làm cho một nhà, nhưng vì cả hai cùng có cảm tình, không chịu, nên rút cục, tôi vẫn làm; sáng, cho nhà Tân Dân, chiều, cho “Trung Bắc Chủ Nhật”, mà cả hai báo lúc nào cũng vẫn có thiện cảm với nhau. Khó cho tôi nhất là có một lúc “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” muốn mở rộng phạm vi, mua bài của Đào Trinh Nhất và đồng thời “ Trung Bắc Chủ Nhật” lại muốn nhờ Nam Cao, Kim Lân viết truyện ngắn, Ngô Tất Tố viết “Thơ Và Tình” dịch thơ Đường và thuật lại những diễm sử liên hệ đến các bài thơ đó.
Dù sao, các việc ấy không đáng kể. Thời cục hồi đó biến chuyển từng ngày, những việc đáng cho người ta đối phó có một tính cách trọng đại hơn nhiều. Thế chiến thứ nhì bắt đầu. Vượng đưa ra ý kiến Nhật có thể đổ bộ ở Việt Nam; báo “Trung Bắc Chủ Nhật” ra một loạt bài về đổ bộ từ Đông qua Tây, từ cổ chí kim. Báo chạy trội hẳn lên. Cụ Luận vuốt râu, ngồi uống rượu, nhìn ra đường Henri d'Orléans suy ngẫm: thì ra Nhật đổ bộ thực. Đi đâu cũng nghe thấy tiếng gươm đập vào gót sắt của người lính Nhật kêu chan chát. Sách “Nhật Ngữ Thực Hành” bán chạy như tôm tươi. Bịt tai lại, vẫn nghe thấy vang lên “Dô tô”, “Dô tô nay”. Trong khi ấy, Pháp vẫn còn ở lại. Nhiều vấn đề cần phải đối phó bắt đầu, thứ nhất là với Nhật. Hàng ngày xảy ra không biết bao nhiêu việc liên hệ đến Nhật và Pháp. Giá “Trung Bắc Chủ Nhật” là một tờ báo thường thì có lẽ họ cũng chẳng kể tới làm gì; đàng này lại mang tiếng là một tờ báo chạy nhất mà thiên về văn hóa chính trị, nên cả Nhật lẫn Pháp đều muốn vơ vào mình. Thành thử ra ở giữa, “Trung Bắc Chủ Nhật” lâm vào cái thế bí: Ngảnh mặt về Tề e Sở giận, quay đầu sang Sở sợ Tề ghen.
Tôi còn nhớ mãi câu chuyện liên quan tới phụ bản in vào dịp báo xuân lúc đó. “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” in một bức tranh lụa của Lê Văn Đệ. Muốn chơi “trội”, “Trung Bắc Chủ Nhật” điều đình với họa sĩ Foujita, đến thăm Hà Nội vào một ngày tháng chạp, vẽ riêng cho một bức tranh để làm phụ bản “Trung Bắc Chủ Nhật”. Thế là Pháp không bằng lòng. Thiếu tá Robb phàn nàn với cụ Luận và nhờ khuyên Vượng thay đổi phụ bản đi; nhưng đã lỡ quảng cáo rồi, Vượng cứ in phụ bản Foujita một mặt, và lo đối phó với Pháp mặt khác. Rút cục, Pháp cũng chịu luận cứ của Vượng đưa ra là hợp lý và cũng kể từ lúc đó, Pháp và Nhật cùng thi đua mua lòng “Trung Bắc Chủ Nhật” bằng cách này hay bằng cách khác, và có một lúc đại sứ Nhật đã không ngại bảo viên Tổng Lãnh Sự của ông là Ogawa đưa ra một túi bạc để lỳ sì “Trung Bắc Chủ Nhật” nhân dịp Tết.
Vượng đã làm một cử chỉ khiến tôi cảm mến; anh từ chối, viện cớ rằng báo của anh tạm đủ sống, khi nào cần, anh sẽ đề nghị sau, còn lúc này thì thật quả chưa cần. Viên đại sứ Nhật bảo anh cầm lấy số tiền đó cho con anh “như một thứ tiền mừng tuổi”. Rất cám ơn, nhưng tôi chưa có con - Vượng trả lời kính cẩn.
Từ khi còn nhỏ tuổi, học lớp Dự Bị, Vượng đã sống một cuộc đời đen tối, thiếu mọi tình yêu thương, thiếu cả về vật chất, nhưng Vượng không hề bao giờ bê bối về tiền nong đối với những người lạ, cũng như đối với anh em. Tôi vẫn phục đức tính ấy của Vượng, nhưng ở vào trường hợp làm báo - mà báo lại không giầu gì - quả tôi đã ngạc nhiên trong một phút. Từ chối một sự giúp đỡ như vậy của Nhật vào lúc bấy giờ, không phải chỉ là một thái độ trong sạch của một nhà báo trung thành với lý tưởng của mình, nhưng phải nói là can đảm, vì ai cũng biết trạng thái tâm lý của đa số người Nhật khi đó kỳ lạ lắm.
Đứng vào cái thế tranh chấp ngấm ngầm với Pháp ở nước ta lúc ấy, đa số người Nhật cho rằng ai không đi với họ tức là đi với Tây; họ giận; mà họ đã giận thì không ngại tỏ ra thái độ cục cằn, có khi võ biền. Nhưng bù lại, họ lại hiểu biết hơn ai: nếu người đối thoại tỏ ra thành thực, không khuất sợ uy vũ thì họ lại vì nể và đãi vào hàng bạn, chớ không coi là một thứ người mà Đại Nhựt Bản, theo chủ trương Đại Đông A, đến để giác ngộ và che chở.
Trước cử chỉ ấy của Vượng, tôi cảm thấy như có một bông hoa bé nhỏ nở ở trong lòng và tự nhủ: “Thôi cũng được. Như thế, Nhật họ đỡ hiểu lầm là các nhà báo Việt Nam đều tên là Hoàng Cừ, Đặng Văn Hinh, Trương Anh Tự”.
Cho mãi đến khi phải tự nghỉ vì tình thế không cho phép, “Trung Bắc Chủ Nhật” lúc nào cũng giữ vững lập trường mà Vượng và tôi đã thỏa hiệp lúc bàn nhau xuất bản: lập trường quốc gia, dân tộc.
Thế rồi Nhật chiếm Việt Nam, loại Pháp ra ngoài. Rất nhiều anh em, già có, trẻ có, khuyên chúng tôi chớ nên găng quá với người Nhật, trong số đó bạn văn hóa không hiếm gì. Chúng tôi chỉ ừ ào, nhưng, về thảo luận với nhau. Vượng và tôi vẫn giữ nguyên đường lối đã vạch sẵn: làm báo Việt Nam, cho người Việt Nam, vì người Việt Nam. Một người bạn Nhật, thấy thế, không hiểu vì vô tình hay hữu ý, bắn tiếng dọa bắt giam Vượng, mặt khác lại xách đến nhà tôi một cây kiếm dài thườn thượt, buộc phải nhận một chức vụ về kiểm duyệt. Vượng đã giải quyết ổn thỏa cho tôi vụ ấy. Nhưng chính lúc Nhật làm dữ như thế thì trên toàn bộ, Nhật không còn đánh tốt, thắng mau như vụ Trân Châu Cảng. Tờ “Trung Bắc Chủ Nhật” vừa làm vừa trông. Báo không chạy dữ dội nữa, và đến lúc Nhật thua, Việt Minh hoạt động mạnh, thì chẳng cứ “Trung Bắc Chủ Nhật”, tất cả các báo đều hãm thắng để đi chậm chậm rồi lấy cớ kỹ thuật, thiếu giấy báo, để nghỉ một thời gian. Cũng vào khoảng đó, tờ “Báo Mới” cũng của cụ Luận, và do Nguyễn Khắc Kham làm chủ nhiệm, Nguyễn Doãn Vượng làm thư ký tòa soạn, cũng nghỉ luôn.
“Báo Mới” là một tờ báo hàng ngày mà anh em định làm theo một công thức mới, với hy vọng sẽ là một tờ báo lạ nhứt và chạy nhứt, nhưng chưa thực hành được ý định thì biến cố xảy ra dồn dập để đưa đến việc quân đội Lư Hán kéo đến tiếp thu Hà Nội.
TRUNG VIỆT TÂN VĂN
Nguyễn Phổ, Nguyễn Doãn Vượng và tôi sống một cuộc đời thanh thản trong vài tháng. Hàng ngày, chúng tôi ngồi bàn bạc với nhau ra một loại báo giật gân theo kiểu Tabloid (tôi đã viết nhiều về loại báo này trong “Trung Bắc Chủ Nhật”); có lúc lại bàn làm một tờ báo in giấy màu hồng cho Đồng Minh (với sự cộng tác của một ký giả lành nghề mà không hề ai biết tiếng là Văn Thu), nhưng rồi kết cục không xong đâu vào đâu cả. Chúng tôi nhìn quân đội Lư Hán vào tiếp thu Hà Nội với tính cách quan sát viên một thời gian, thì một hôm Phổ, thay mặt cụ Lê Kỳ, mời tôi sang nhà ở phố Nhà Thương Phủ Doãn bàn về một tờ báo lớn: Trung Việt Tân Văn. Phổ nói với tôi một cách dè dặt, vì trước khi đó, tôi đã từ chối không chịu hợp tác với tờ “Bình Minh”, một tờ báo hàng ngày khác, của Nguyễn Giang, anh ruột Phổ.
Tại sao lại không làm tờ “Bình Minh”? Muốn cho thật rõ, ta cần phải biết tại sao dưới thời Nhật lại có tờ báo đó.
Vào thuở “lên” nhất của Phạm Lê Bổng, ông có ra một tờ báo chữ Pháp là “Patrie Annamite” do Tôn Thất Bình, con rể Phạm Quỳnh chủ bút, Tiêu Viên Nguyễn Đức Bính phụ trách về bài vở và một tờ báo chữ Việt, tờ “Việt Báo”, mua lại của Bùi Xuân Học, do một tập đoàn gồm có Nguyễn Đức Bính, Văn Hạc Lê Văn Hòe, Micro Bùi Xuân Như và mấy anh em khác viết bài. Chính Phạm Lê Bổng không để mắt tới hai tờ báo đó. Công việc làm báo và doanh thương nằm hết cả trong tay bà vợ; còn ông thì tất cả hoạt động tập trung vào việc triệt để theo bám Bảo Đại, Phạm Quỳnh, bảy ngày một tiệc lớn, ba ngày một tiệc nhỏ, để mua lòng Đại Pháp bảo hộ, củng cố chức viện trưởng viện Dân biểu cướp được của Phạm Huy Lục trong tập đoàn Nguyễn Văn Vĩnh.
Phạm Lê Bổng, lúc đó, là đầu đề của rất nhiều bài vè nhạo báng mà cũng là điển hình của sự lố bịch, trơ trẽn trong dân gian; nhưng sự liều lĩnh, sự thiếu suy xét của ông chỉ lên tới tột bực lúc Nhật đổ bộ lên Đông Dương, ông đi với Chauvet giữ một chức vị quan trọng trong ủy ban thu thóc của Pháp, để sửa soạn một cuộc chống Nhật vô cùng thâm thiểm.
Tôi nhớ có một hôm cuối tháng chạp, dưới mưa bay lất phất, tập đoàn Trung Bắc Chủ Nhật đi chợ Tết, qua nhà Phạm Lê Bổng thấy lính canh hết sức uy nghiêm, một người trong bọn nói đùa:
- Nó lên đến tột bực rồi, nay mai thể nào cũng xuống. Hai cái nhà lớn nhứt phố Hàng Bồ của nó, ai dám quyết nay mai lại chẳng sang tay chủ khác? Các cụ nói “Nhất điền thiên vạn chủ”, ấy thế mà không có sai đâu nhé.
Nói đùa thế mà thành ra đúng. Nhật hạ Pháp rồi, bắt luôn Phạm Lê Bổng giam một chỗ. Để cứu vãn lấy chỗ đội nón, ông Bổng xin dâng cả hai căn nhà ấy cùng với nhà in, máy móc cho quân đội Nhật sử dụng. Cố nhiên Nhật vui lòng nhận đỡ cho Bổng, và hai cái nhà ấy được dùng làm tòa soạn và nhà in báo “Bình Minh”, nhưng sau khi Nhật thua, Tàu tới, rồi Pháp quay trở lại, thì không hiểu sao, Đỗ Xuân Mai, tức là chủ nhà in Mai Lĩnh lại sử dụng nhà in đó, đem bán lại cho ông Bách, công ty với bà Hòa Tường, dọn tất cả về đường Hàng Chuối, để rồi hình như lại chuyển sang cho “thần chưởng” Bùi Ngọc Phương (sau này nổi tiếng là Vua Dầu Hỏa).
Nhưng đó là chuyện sau. Trở lại lúc Phạm Lê Bổng bị bắt, xin với Tasaki cho gặp bộ trưởng Yokohama, phụ trách về văn hóa, để tình nguyện dâng cả nhà cửa và máy in, máy xén, máy đúc cho quân đội Nhật. Hai ông Komatsu và Omya, trong bộ Văn Hóa, bèn mời ba ký giả là Nguyễn Doãn Vượng, Khái Hưng Trần Khánh Giư (trong tập đoàn Phong Hóa, Ngày Nay) và Nguyễn Giang (con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh) đứng ra sử dụng nhà in Việt Báo của Phạm Lê Bổng tặng, và xuất bản một báo hàng ngày là tờ “Bình Minh” để đề cao quân đội Nhật và chương trình Đại Đông A của Đại Nhựt Bản.
Trước mặt Nguyễn Giang và Trần Khánh Giư, Nguyễn Doãn Vượng từ chối không làm. Tôi biết chắc đây không phải là lần đầu Vượng từ khước nhà in của Bổng. Trước đó ít lâu, sau một hội kiến về đêm với Bổng, Vượng đã cho tôi biết là Bổng, trước biến chuyển của thời cuộc, đã “lơn” Vượng và đề nghị “tặng” nhà in Việt Báo cho riêng anh và anh đã đem việc này nói cùng ông Luận. Ông Luận đưa ra ý kiến là nếu bán rẻ thì mua chớ không lấy không: còn Vượng thì dù bán rẻ cũng không chơi, vì anh tuy là bạn với Bổng, nhưng không muốn dính líu gì với Bổng. Thành ra đến lúc Komatsu và Omya đề nghị cho tam đầu chế Vượng, Giư, Giang, cái nhà in và hai tòa nhà, Nguyễn Doãn Vượng từ khước liền, viện cớ rằng anh đã có hai tờ “Trung Bắc Chủ Nhật”, “Báo Mới” với một nhà in cũng khá lớn, mà hiện giờ thì nhà in còn đang thiếu thợ làm, chưa sử dụng được triệt để các máy móc nhằm thi hành kế hoạch đã vạch sẵn của anh.
Trần Khánh Giư không nói gì, nhưng Nguyễn Giang thì nói với Komatsu, với giọng nửa đùa nửa thật: “Vượng từ chối vì hắn sợ Tây trở lại”. Vượng trả lời: “Tôi sợ Tây hay không thì có Komatsu ngồi đây biết rõ”. Komatsu cười, nhìn Giang và Vượng, nói (bằng tiếng Pháp): “Không, tôi biết Vượng lắm, anh ta đúng là đạo Trung Dung; nhưng anh Giang, anh là một cha muốn làm ái tình, nhưng nhát quá nên đành thủ dâm”.
Tờ “Bình Minh” ra đời, không có Nguyễn Doãn Vượng là do lẽ đó. Trong tháng đầu xuất bản, tờ “Bình Minh” cũng được người ta tìm đọc khá đông, nhưng về sau, phần vì không có gì mới lạ, phần vì người ta chán ngán chế độ hà khắc của Nhật, nên số độc giả “Bình Minh” sụt dần. Khái Hưng rút lui; Nguyễn Giang mời Phan Quang Đán (lúc đó làm tổng thư ký hội Cứu Đói với Mai Văn Hàm, chủ nhiệm tờ “Tin Mới” mua lại của bác sĩ Luyện) về làm chủ bút. Nhưng vì Đán không rành về nghề báo, nghề in, lại thêm cái chữ quốc ngữ mới của Nguyễn Giang đưa ra cố đọc cũng không tài nào mà đọc được, nên báo “Bình Minh” sụt mãi, sụt mãi, để thành ra một thứ báo “cơm nguội” không ai buồn mó tới.
Chính vào lúc đó, Nguyễn Phổ và Nguyễn Dương, hai em trai của Nguyễn Giang, tìm tôi rủ về “cứu vãn” tờ “Bình Minh”, nhưng vì biết Nguyễn Giang là một thứ “đồ gàn”, có tính lẩm cẩm, nên tôi dễ từ chối, và tôi đã từ chối ngay, viện lẽ là không ai chịu được Giang, có làm với nhau bất quá cũng chỉ được ít lâu rồi lại thôi thì hợp tác làm gì. Làm với nhau thì oán thán, thù hằn, thế thì không làm với nhau để giữ lấy tình anh em trước sau như một, há lại chẳng hơn ư?
Chính vì lẽ đó, nên lúc Nguyễn Phổ đề cập đến việc tôi về giúp cho tờ “Trung Việt Tân Văn”, anh nói với tôi một cách dè dặt; nhưng lần này thì tôi nhận lời anh, sau một vài đêm suy nghĩ.
Tôi nói “suy nghĩ” cũng là đúng một phần nào, vì người làm báo ở vào lúc đó thật là khó tính, nhất là một người làm báo không thuộc đảng phái nào, chỉ biết có nghề mình và quyền lợi của dân tộc. Lúc ấy, Nhật thua trận, quân đội Lư Hán đến tiếp thu quân đội Nhật, và Việt Minh thì vừa mới về, đem lại tin tưởng và lẽ sống cho dân. Tất nhiên, những mâu thuẫn và cọ xát giữa Việt Minh và Trùng Khánh không thể nào không xảy ra. Làm ăn mà không khéo thì bị mang tiếng là phản bội; nhưng trái lại, nếu có lập trường vững chắc và một đường lối sáng suốt thì cũng có thể đỡ đần một phần nào chính thể mới phôi thai lúc đó, bị tấn công về mọi mặt.
Không tối nào tôi không cùng Phổ và Kỳ (Nguyễn Kỳ là con trai cụ Vĩnh, em của Phổ) và Dương nghiên cứu, thảo luận nên làm ăn ra thế nào, một mặt; và mặt khác, tôi thường xuyên gặp Phùng Bảo Thạch, Ngô Tất Tố, Thượng Sĩ, Trần Kim Dần để xét cho thật kỹ có nên nhận làm báo “Trung Việt Tân Văn”, cơ quan chính thức của quân đội Lư Hán đến tiếp thu quân đội Nhật hay không.
Anh Phổ, bây giờ anh ở đâu? Vẫn còn ở Bắc Việt hay đã đi Tây đi Tầu rồi? Mười lăm năm xa cách - bằng cả một cuộc đời phiêu bạt của cô Kiều! - mười lăm năm đã trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ thương anh như những ngày ở hậu phương và không bao giờ tôi quên được những đêm không ngủ, chúng ta uống cà phê nói chuyện về quân Nhật đi và quân Tàu tới.
Nguyễn Phổ là tế tử của cụ Lê Kỳ. Trong các bạn của cụ, có nhiều người Trung Hoa. Vì thế, ông Tsan Cẩm Thoòng, được phép xuất bản tờ “Trung Việt Tân Văn”, liền được ngay các bạn như cụ Ly Seng Pao, Nguyễn Hải Thần giới thiệu mời cụ Kỳ ra làm giám đốc và cụ Trần Phượng Thê làm quản lý. Thực ra, báo ấy không phải do ông Tsan Cẩm Thoòng cầm chịch, nhưng là của một Lam Y thân tín của Tưởng Tổng Thống và là con trai của ông Tsan đứng cầm chịch ở bên trong. Báo ra đời nhằm mục tiêu xiết chặt tình thân thiện Hoa Việt, tuyên truyền cho chế độ Trung Hoa trắng và đề cao quân đội Tàu nói chung và đoàn quân của Lư Hán đến tiếp thu ở Việt Nam, nói riêng. Vì là bạn của Phổ và thường chuyện trò với hai cụ Kỳ, Thê được coi là tâm đầu ý hiệp, các cụ Kỳ, Thê và Lý thân ái mời tôi về làm chủ bút cho báo.
Từ trước cho đến lúc đó, tôi vẫn có thói quen là không bao giờ nhận lãnh một chức vụ gì có tên chánh thức in trên báo. Nhiều bài báo, cũng như nhiều cuốn sách của tôi, do các nhà xuất bản in ra đều mang bút tự - mà tự tôi đến giờ cũng quên mất nhiều bút tự của mình, - thỉnh thoảng mới có bài hay sách mang tên thật. Nhận lời làm “Trung Việt Tân Văn”, tôi cũng định áp dụng phương thức cố hữu là chỉ nhận làm ở bên trong, còn tên trên báo thì để cho người khác đứng. Nhưng cụ Lý và ông Tsan, cũng như Tsan Chi Số - con trai ông Tsan - không chịu thế. Họ quan niệm chức vụ chủ bút rất quan trọng và ép tôi phải đề tên chủ bút, muốn từ chối không tài nào được.
Thấy chỉ vì cái tên công việc dằng dai ra mãi, các anh em như Trần Kim Dần, Thượng Sỹ Nguyễn Đức Long, Phùng Bảo Thạch, khuyên tôi nhận lời. Tòa soạn lại gồm các anh em cũ, trừ vài người đã mất hay đã đi xa. Bù lại, tôi lại được thêm mấy anh em khác trong nhóm “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” hay “Trung Bắc Chủ Nhật” - lúc ấy đã nghỉ - về hợp tác. Cố nhiên một tờ báo như thế phải giàu, trụ sở phải to, nhuận bút phải hậu và có... thế là đàng khác. Nhưng có lẽ vì độc giả không có mấy cảm tình với quân đội Trung Hoa lúc bấy giờ một phần, mà phần khác tại anh em cũng không hăng hái làm việc cho mình như thuở “Công Dân”, “Vịt Đực”, “Tương Lai”, nên báo không chạy mấy. Vả chăng, Trần Huy Liệu, lúc ấy, làm bộ trưởng thông tin, ít ra cũng đủ phép “ếm” chúng tôi. Tôi biết trong anh em lúc bấy giờ, Trần Huy Liệu “trù” chúng tôi nhiều nhất. “Trung Việt Tân Văn” viết một loại bài đả kích riêng Trần Huy Liệu “chậm tiến, chưa chi đã lợi dụng chức vụ bộ trưởng của anh để hàng ngày đi công xa đến nhà Ngân Giang nữ sĩ uống trà tàu và ngâm thơ con cóc”. Uất hận không chịu được, Liệu dọa “hót chúng tôi vào xe rác”.
Bắc Bộ Phủ, trái lại, lại tỏ ra gượng nhẹ với chúng tôi vì thực ra chúng tôi, lấy tư cách là một nhà báo, cầm chịch quyền thứ tư trong nước - đa số người Trung Hoa lúc đó tin như vậy - cũng đã đứng ra thu xếp được một ít điều xích mích nhỏ giữa quân đội Lư Hán với chánh quyền hồi ấy.
Nói riêng về chức chủ bút của tôi, thật kỳ. Khác hẳn khi làm thư ký tòa soạn cho các tờ báo khác, người chủ bút của “Trung Việt Tân Văn”, từ lúc báo ra cho đến lúc báo nghỉ, gần như không viết gì, không biết gì về báo. Mọi công việc tòa soạn do Phùng Bảo Thạch và Ngô Tất Tố trông nom hết. Qua ngày này sang ngày khác, tôi chỉ phụ trách việc đi ăn uống, xã giao, hết cơm Tàu đến cơm Tây, hết cụ này mời lại đến ông kia thết. Nhưng dù sao, tất cả những cái đó chưa kỳ bằng việc mấy chủ nhân của báo quan niệm về nghề báo lúc bấy giờ: bài vở đăng báo không cần lắm, trọng tâm hoạt động của chủ bút là công việc tiếp thu quân đội Nhựt. Nghĩa là mỗi khi quân đội Lư Hán tiếp thu ở đâu thì lại có tin báo liền cho chủ bút với đầy đủ chi tiết: hôm nay, quân đội Nhựt làm sao, ta nhận bao nhiêu võ khí, tìm ra được mấy kho vải, bao nhiêu kho gạo, bao nhiêu kho đường... Các anh em Trung Hoa lúc ấy đối với riêng tôi thật là đôn hậu đến làm cho tôi cảm động vì họ thành thực đến mức bảo trắng cho tôi biết rằng các tin ấy không cần đăng lên trên báo làm gì. Sỡ dĩ họ báo tin cho tôi biết trước nhất là vì họ muốn dành cho tôi quyền lợi ưu tiên: ông chủ bút có chỗ tiêu thụ thì bán đi lấy lời, khi nào ông chủ bút không bán được thì chúng tôi mới bán, ông chủ bút cứ tự nhiên vì là “anh em cả mà”.
Băn khoăn thứ nhì của các vị ấy là việc tham gia quốc hội đầu tiên Việt Nam độc lập. Ngoài các nghị sĩ dân bầu, chính phủ chấp nhận một số nghị sĩ chỉ định dành cho các đảng quốc gia. Ông chủ bút có gia nhập đảng nào không? Tôi chẳng vào đảng nào hết. Nhưng không có sao đâu, ông chủ bút cứ nhận lời đi, chúng tôi sẽ nói với cụ Nguyễn và chắc cụ sẽ bằng lòng lắm.
Thực quả làm báo như thế cũng ngộ và khỏe. Từ thuở bước chân vào nghề, tôi chưa hề bao giờ lại thấy làm báo khỏe đến như thế và tôi cũng không biết sẽ còn khỏe đến chừng nào nếu biến cố không dồn dập xảy ra trong nước. Phùng Bảo Thạch nhận làm thêm tờ “Đồng Minh” của cụ Nguyễn Hải Thần, tôi dư thời giờ cũng giúp vào một tay. Nhưng rồi đến một lúc cả “Trung Việt Tân Văn” và “Đồng Minh” đều phải tự động đóng cửa vì tình hình rắc rối không tả được.
LÀM BÁO LƯU ĐỘNG Ở KHU BA
Thế là máy bay Pháp lại gừ gừ trên trời, còn dưới đất thì xe díp, mô tô chạy ầm ầm như gió - nhiều khi để chộ, chớ cũng chẳng có việc gì cần. Tôi còn nhớ có anh lính nai nịt như ra trận địa, ngồi thẳng đườn đườn trên mô tô nổ máy chạy bay như thể phải đi cứu ông D'Argenlieu hay Sainteny lâm nạn, nhưng rút cục đến dốc Hàng Kèn thì hãm máy, vào tửu quán uống một ly rượu mạnh và ôm con gái chuyện trò như pháo ran.
Thấy Nhật đã đuổi Pháp đi rồi mà bây giờ lại thấy Pháp trở lại lù lù cả đống, dân chúng chán nản không tưởng tượng được. Việt Minh ở vào một thế rất khó khăn: một mặt đối phó với Pháp, một mặt tuyên truyền dân gian để cho khỏi mất tin tưởng, và mặt khác nữa lại phải lo chuyện đoàn kết các đảng phái, vì các đảng phái lúc này léng phéng định xé lẻ rất nhiều và đi với Tàu hoặc Pháp để chống lại Việt Minh.
Tôi viết bài cho một tờ y học, tờ “Vui Sống”, đồng thời tổ chức nhà in cho nhiều anh em ở các nơi về thành, vì t’nh nào cũng có một hai tờ báo. Vì là anh em quen biết cũ, tôi viết bài thêm cho một vài tờ; riêng có tờ “Kháng Chiến” của Nguyễn Kỳ ở Cao Bắc Lạng thì tôi để tâm vào nhiều nhất.
Trong khi ấy, các tờ báo như “Tiểu Thuyết Thứ Bảy”,
“Trung Bắc Chủ Nhật”, “Truyền Bá”, “Phổ Thông Bán Nguyệt San” đều ngh’ hết. Anh em văn hóa, văn nghệ chuẩn bị lên đường ra hậu phương chiến đấu. Thế rồi lịnh tiêu thổ kháng chiến ban ra; thành phố đào hầm trú ẩn; tự vệ xẻ đường đắp ụ để đối phó với một tình thế nẩy lửa chắc chắn không thể nào tránh được, xảy ra không biết lúc nào.
Những ngày kháng chiến đầu tiên ở hậu phương thật là cực khổ, nhưng cũng thực là vui lạ. Tôi chạy về khu ba, ngồi kéo sợi, và trong hơn nửa năm trời không làm gì; nhưng sau lần lần bắt liên lạc được với các anh em cũ, tôi viết mấy vở kịch (trong đó có kịch Bom Ba Càng) có tính cách tuyên truyền, rồi do đó đi họp văn hóa, viết một hai tờ báo nhỏ địa phương ở Hà Nam, vùng Đần, Đọi Đệp. Ngày tháng nặng nề trôi; đời sống thiếu thốn đủ mọi cách nhưng lòng người hể hả như chết mà sống lại. Tôi chưa hề được sống những giờ phút sôi động và ấm lòng như thế: đồng bào thương xót nhau như ruột thịt; người dân giúp đỡ nhau thực tình; anh lính ho thì người dân tự nhiên thấy ngực mình đau nhói. Riêng tôi, tôi rưng rưng nước mắt khi thấy Nguyễn Phổ và Nguyễn Kỳ từ Cao Bắc Lạng về thăm tôi ở Đần. Mỗi phiên chợ, tôi ra ngồi ở quán cà phê, do đó gặp đủ mặt anh em để trò chuyện và thăm dò tin tức. Cảm động nhất là Sở Bảo Doãn Kế Thiện đã già rồi mà cũng lặn lội từ Sơn Tây về rủ tôi đi làm việc văn hóa; Nam Cao được ngh’ xả hơi về nằm khèo với tôi, ăn cơm với cà chua và rau cải, uống nước chè tươi nhắm với tóp mỡ, cùng bao nhiêu anh em khác nữa hiện giờ đã chết, mà cũng còn nhiều người còn chiến đấu. Trong số các anh em đó, có người đi hàng mấy ngày đường, một thân một mình; có người ngày ngh’, đêm đi bằng đò, có vệ quốc quân hộ tống. Nguyễn Đức Long, bút hiệu Thượng Sỹ, là người ẩn hiện, đi về thăm tôi nhiều nhất.
Long bắt đầu viết báo từ tờ “Tin Mới” của bác sĩ Nguyễn Văn Luyện. Trên tờ hàng tuần, anh viết phóng sự, điều tra, truyện ngắn; còn trên tờ hàng ngày, anh đặc trách về phê bình sách và cũng chính vì mục này anh đã tạo ra nhiều thù, ấy là không kể nhiều bận đã có văn gia, thi sĩ định cho anh một mách. Ra bưng kháng chiến, Long làm tờ hàng ngày “Chống Giặc” của Đặng Thai Mai ở liên khu ba, trong đó có Sỹ Ngọc, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh... Vì phụ trách về phóng sự, điều tra tin tức, anh phải đi luôn, nên thừa dịp về thăm tôi một tháng đôi lần và rủ tôi viết bài cho “Chống Giặc”.
Nhưng chẳng bao lâu, chiến tranh lan ra đến đó, tờ “Chống Giặc” chuyển đến một địa điểm xa xôi khác. Vì bị sốt rét nặng, Long không đi được, về Kẹo, ở gần với tôi. Nói là gần, nhưng cũng cách nhau đến bảy, tám cây số. Tôi kéo sợi, đem ra bán ở chợ Đần, còn Long thì ăn xong, không ngủ, đi nghe ngóng khắp nơi, thảo hết chương trình này đến kế hoạch nọ, nhưng rút cục không thể nào thực hiện được - trừ một tờ bán tuần báo tên là “Bạn Trẻ”.
“Bạn Trẻ” là một tờ báo của tư nhân, tự túc, in trên giấy bản, khổ nhỏ. Báo quán đặt ở một căn nhà lá chật chội ở một làng tại khu ba, trong vẻn vẹn có một cái bàn và một cái giường. Thượng Sỹ Nguyễn Đức Long và tôi phụ trách về bài vở cho báo ấy. Lúc nào Long đi thăm dò đường lối chánh trị để viết bài thì tôi trông nom việc sửa chữa mô rát và đạp cái máy pê đa lét để in. Chủ nhiệm không có mặt mấy khi ở báo, phải lo tiền, lo giấy, lo mực mua ở chợ Đồng Quan về. Làm báo như tờ “Bạn Trẻ”, thực cũng lạ lùng, mà thú vị, vì từ thuở bước chân vào nghề, tôi chưa làm một tờ báo nào thiếu phương tiện đến như thế bao giờ. Viết bài ban ngày, ban đêm xếp chữ và in; vừa trông in, vừa ăn cơm; in xong thì một số anh em - hầu hết là sinh viên và học sinh - đến lấy báo tản mác đi bộ, đi thuyền, đi xe máy khắp các nơi trong vùng kháng chiến để bán. Báo “Bạn Trẻ” bán cũng khá; bán xong, anh em nhặt tiền về để mua mực, mua giấy in số sau; nhưng khích lệ nhất là có nhiều độc giả mua báo lại ủng hộ tiền và có người, dù biết trước là tình thế thay đổi luôn luôn, vẫn cứ sẵn sàng gửi tiền mua cả năm hay sáu tháng. Càng làm cho chúng tôi nức lòng hơn nữa là trong một đại hội ở Liên khu ba, Ủy ban Kháng chiến đã tổ chức một cuộc trưng bày các báo kháng chiến để đánh dấu nỗ lực của anh em văn nghệ sĩ, tờ “Bạn Trẻ” đã được xếp vào hàng đầu về kỹ thuật làm báo và Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến đã kêu gọi anh em nên giúp tay cổ động tờ “Bạn Trẻ” cho mỗi ngày được phổ cập hơn.
Về sau này, về thành, gặp Vũ Đình Chí (Tam Lang) - bị Tây giam ở một địa điểm tại t’nh Hà Đông trong thời kỳ kháng chiến - anh có cho Nguyễn Đức Long biết là anh đã được đọc một số “Bạn Trẻ” trong nhà giam, và có một bài nói về sự tàn ác của quân đội Pháp hãm hiếp đàn bà già yếu - dù là không ký tên thực - anh đọc cũng đoán là của tôi.
Kể lại lúc làm tờ “Bạn Trẻ”, tôi không thể quên một kỷ niệm không bao giờ quên được. Trong “Bạn Trẻ”, có một mục về tin tức nội thành, thuật lại tất cả các hành động của ngụy quyền và hoạt động của các người ở lại với Pháp, làm cho Pháp. Phụ trách về mục đó, mỗi tháng một lần, tôi phải đi từ Đần qua nhiều vùng có Tây chiếm đóng, qua ruộng, qua sông để về một làng tề, gặp một ông bạn làm giáo học cung cấp cho tin tức thuộc vào loại đó.
Tôi nhớ hồi đó là mùa đông, trời lạnh cắt da cắt thịt. Lặn ngòi ngoi nước về được đến nhà ông giáo, thường là trời đã tối, không còn trông rõ mặt người. Đứng ở ngoài cổng nhìn vào thì cái vườn ở đằng trước tối om; trong nhà, có ngọn đèn thắp sáng và những hoa lửa bay lên như những con đom đóm nhỏ. Ấy là cái hỏa lò than đốt lên để sưởi. Ông giáo mặc áo bông, đi đi lại lại trong nhà, th’nh thoảng lại hơ hai bàn tay vào lửa và ngâm vang câu thơ cũ “Thế sự du du nại lão hà...”.
Mỗi lần, tôi về thăm ông như thế, bao giờ ông cũng hỏi “Đã ăn uống gì chưa?”, nhưng đó là hỏi lấy lệ mà thôi, chớ dù ăn rồi hay chưa ăn, ông cũng hối vợ và cô em đi thổi một nồi cơm thực nóng, làm một con gà vàng mời ăn, không quên rót một chén rượu nóng để uống cho ấm bụng. Vợ và cô em gái ông là những người đàn bà kiểu mẫu. Em gái ông chừng đôi mươi, đi đi lại lại buôn bán từ vùng tề sang vùng kháng chiến như đi chợ, nên mỗi khi từ giã ông ra về, người em gái lại đưa tôi đi vì sợ tôi không am hiểu đường lối, có thể sa vào bẫy của địch hoặc không biết trả lời mỗi khi có việc cần đối phó. Quên làm sao được những buổi sáng rét căm căm, thức dậy từ lúc trời hãy còn tối đen như mực để sửa soạn ra về. Bà giáo, trẻ măng và đẹp như một bài thơ, ông giáo và cô em cùng dậy, để tiễn tôi. Cả một gia đình lịch sự như nhau; ông giáo trò chuyện nho nhã, cô em lo liệu chu đáo cho tôi không thiếu thốn thức gì, còn bà giáo thì đã đun nước từ lúc nào để pha trà và không lần nào quên thổi một nồi cơm, nắm mấy thỏi, kèm một ít muối mè hay vài khúc cá để vào ba lô cho khách. Sống cả một kiếp người ở nội thành, không thể có những phút thương thương như thế. Tình đồng bào với đồng bào ngạt ngào thơm mùi của hoa bưởi nửa đêm về sáng. Nhưng chiến tranh tàn khốc nào có muốn cây có lộc, bông có trái, người có con, xuân có bướm: khói lửa lan tràn từ hậu phương đến các làng tề và một hôm chúng tôi được tin đa số người làng ấy đã tản cư đi nơi khác.
Thế rồi tôi rinh tê. Tôi rinh, nhưng không có một chút mặc cảm, là vì tôi quan niệm rằng Hà Nội là đất nước mình, mình có quyền ở đó, còn vấn đề hèn hay không, đó là tùy ở nhân cách của từng người. Một buổi sáng kia, nhân đi uống rượu với Nguyễn Đức Long ở “Le Lac” về, tôi bỗng nghe thấy có tiếng gọi khẽ ở sau lưng. Đứng lại, tôi định thần một lúc thì tự nhiên t’nh hẳn rượu: người thiếu phụ chít khăn vuông, mặc áo nâu non, gánh cam và quýt đứng trước mặt tôi, chính là bà giáo! Trời lất phất mưa bay. Gió Hồ Gươm thổi mạnh làm nghiêng cái nón lá của người thiếu phụ, để hé mấy sợi tóc mây che nửa mặt hoa. Việc đầu tiên là tôi hỏi thăm ông giáo và cô em. Bà nói vắn tắt cho tôi biết là tháng tám năm ấy, sau khi tôi đi khỏi được vài ngày, quân Pháp về làng, càn quét và bắt nhiều người đem đi, trong số đó có ông giáo. Còn cô em may vừa đi khỏi hôm trước, và hình như vẫn còn đi lại buôn bán ở liên khu ba, nhưng lâu lắm không tin về nhà. Về phần ông giáo, bà tuyệt mù tin tức, nhưng theo lời mấy bạn thân cho biết sau khi giam ở Nhà Tiến ít lâu, quân Pháp đã bốc ông cùng với một bọn chừng năm chục người đem lên máy bay đi Sài Gòn (?) đánh đập bật tròng hai con mắt, và dường như ông đã không chịu nổi những phương pháp tra tấn tối ư dã man của bọn thực dân cướp nước.
Thấy đứng lâu chuyện trò như thế ở giữa đường không tiện, tôi ghi số nhà vào một mảnh giấy con, mời bà lại chơi với nhà tôi; nhưng cho đến tận lúc ký hiệp định Genève, tôi vẫn không được thấy bóng người đàn bà diễm tuyệt, kiên trinh kia đâu nữa.
Vũ Bằng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét