"Đức Mẹ Granduca" - 1504 - sơn dầu trên gỗ tranh của họa sĩ Galleria Palatina |
Lược chuyện cuộc đời Đức Mẹ. (Theo Bà đáng kính Maria Agrêđa Mẹ Bề trên Dòng Thánh nữ Clara)
31. Thánh Giuse lúc về chiều:
Thánh Giuse tuổi chưa cao mấy, nhưng vất vả vì Mẹ quá nhiều. Mẹ thương Bạn Thánh và xin Bạn Thánh nghỉ ngơi không làm việc nữa. Các dụng cụ của Ngài Mẹ đem cho các bạn nghèo. Từ đó Thánh Giuse chuyên chú chiêm niệm, suy ngắm và đạt tới đỉnh thánh thiện vượt xa loài người, chỉ kém một mình Mẹ. Mẹ cũng để tâm săn sóc Ngài cách ân cần mà một người già nua bệnh tật phải có. Trong suốt 8 năm trời chịu đủ chứng bệnh và tình yêu Chúa nung đốt đến như chết được. Mẹ cảm phục sự nhẫn nại, sự chịu đựng không hé môi phàn nàn, không thốt lời thở than, không đòi hỏi ủi an. Mẹ luôn ở bên cạnh để nâng đỡ trong lúc lão nhược.
Trong 3 năm cuối đời, Mẹ không hề rời xa
Ngài một bước. Khi Mẹ cần phải vắng nhà thì Chúa Giêsu thay chỗ Mẹ, nên không
một bệnh nhân nào được phục dịch kỹ như vậy. Mẹ cũng còn xin Chúa cho phép Mẹ
chịu đau đớn thay cho Ngài, hoặc sai Thiên Thần tăng thêm nghị lực, để Ngài
khuây khỏa mà ca ngợi Thiên Chúa.
Khi thấy Thánh Cả đã gần đến giờ lìa đời,
Mẹ xin Con Giêsu cho Ngài hưởng một cái chết đẹp mắt Chúa. Chúa lại cho Ngài
được nhìn thấy yếu tính của Chúa Ba Ngôi, thấy Ngôi Lời Nhập Thể. Thấy Giáo Hội
và kho tàng nhiệm tích mà Chúa Giêsu Con Ngài thành lập cho các Thánh. Linh hồn
Ngài cũng được thần hóa. Thánh Cả lại xin Chúa Giêsu và Mẹ tha thứ lỗi lầm cuộc
sống và chúc lành cho mình. Chúa Giêsu ôm lấy Ngài, để Ngài tựa đầu trên cánh
tay và Ngài trút hơi thở cuối cùng. Chúa khép mắt cho Thánh Cả, đoạn cùng Mẹ và
các Thiên Thần cất lên những khúc ca chào mừng Thánh Cả và dẫn đưa linh hồn
Ngài xuống ngục Tổ Tông. Được các Thánh tiếp rước tưng bừng, vì nhận thấy vinh
quang tuyệt vời chiếu dãi trên Thánh Cả. Ngài chết không phải vì đau đớn của
bệnh tật, nhưng vì lòng yêu mến Chúa thiêu đốt nung nấu trong lòng.
Thiên Chúa đã mặc cho thi thể Thánh Cả một
ánh sáng rực rỡ, chỉ để người ta thấy được gương mặt tươi tỉnh và hương thơm
thánh thiện. Thánh Giuse được Thiên Chúa phôi dựng như một hạt giống tốt trong
thửa đất phì nhiêu Chúa đã dọn sẵn. Dựng thai đến ngày thứ bảy Ngài được ơn
thoát khỏi tội Nguyên Tổ và tình dục, nên suốt đời Ngài không cảm nghiệm một
xúc động xấu xa nào. Lúc sinh ra, Ngài là một thơ nhi mĩ miều, mang lại cho cha
mẹ một niềm vui khác thường, giống như Gioan Tẩy Giả khi sinh ra. Lên 3 tuổi, Thánh
Cả có đủ trí khôn và một trí thông minh Thiên phú, suy niệm tuyệt vời. Các nhân
đức mỗi ngày một tăng triển, nhất là nhân đức khiết tịnh cao cả, và sáng ngời
vượt trên cả các Luyến Thần. Vì lẽ Chúa muốn dùng Ngài để lập thân với Mẹ.
Ngoài ra, Ngài còn tập được đời sống nhân đức suốt 60 năm cộng thêm mấy ngày.
Ngài sống chung với Mẹ 27 năm và lúc qua đời Ngài thọ 60 tuổi 6 tháng. Thiên
Chúa ban cho Thánh Cả nhiều đặc ân để, Ngài cứu giúp những ai chạy đến xin Ngài
cầu bầu. Đặc biệt Ngài hay ban xuống những ơn này:
1- Lướt thắng cám dỗ nghịch đức trong
sạch.
2- Sám hối bỏ đàng tội lỗi.
3- Tôn sùng Mẹ Đồng Trinh.
4- Khoẻ mạnh về phần xác.
5- Được ơn An ủi lúc gặp đau khổ.
6- Được ơn chết lành.
7- Có người thừa tự trong gia đình Công
Giáo.
Vì thế ma quỉ rất sợ danh Thánh
Ngài.
Từ khi sống đời quả phụ, Mẹ hằng nhìn ngắm
linh hồn Con Chí Thánh Mẹ, để hiệp nhất với lời Chúa nguyện cầu. Mẹ làm việc
mỗi ngày ít giờ để lo chút lương thực thôi. Mẹ và Chúa thường ăn lúc 6 giờ
chiều với bánh khô, đôi khi thêm trái cây, rau, cá. Mẹ quỳ gối hầu bàn cho Chúa
với niềm kính tin, yêu mến. Ngoài ra còn giờ Mẹ cầu nguyện và đi làm việc từ
thiện cứu giúp người ta. Chúa Giêsu thì lo sửa soạn cho công trình cứu chuộc
của Ngài. Mẹ là Mẹ Đồng Công nên đem tất cả tâm hồn theo dõi và cộng tác. Ngài
rất thương các linh hồn, nhiều khi suy nghĩ đến mướt máu và suy nhược. Mẹ phải
ra lệnh cho các Thiên Thần nâng đỡ Ngài. Có những lúc xuất thần Mẹ nhìn thấy
Chúa vạch những kế hoạch để chinh phục các Tông Đồ, Chúa cũng cho Mẹ thấy, Mẹ
là người phải lo hỗ trợ Giáo Hội, phải chịu đựng và tu sửa lỗi lầm của các Tông
Đồ trong việc quản cai Giáo Hội nữa.
Hùng vĩ Bắc Băng Dương - xa xa một chú hải cẩu nằm phơi mình trên băng lạnh. |
Tới năm 27 tuổi, Chúa bắt đầu rao giảng
Tin Mừng bằng kinh nguyện, chay tịnh, bằng cải thiện cho nhiều người. Đôi khi
vắng nhà cả hai ba ngày liền. Trong những ngày ấy, các Thiên Thần cung cấp tin
tức cho Mẹ theo lời Mẹ xin. Chúa đi khắp nơi, ra khỏi cả thành Nazareth nữa, để
loan báo về Ơn Cứu Độ. Lời Chúa nói kèm theo ân sủng cao quí sinh ra nhiều hiệu
quả lạ lùng. Ngoài ra, người ta còn say sưa vì vẻ đẹp oai nghi và đức hiền từ
của Chúa.
Chúa ủi an người sầu khổ, nâng đỡ người
cùng cực, viếng thăm người bệnh tật, khuyên giúp người hấp hối, reo rắc ánh
sáng, sức mạnh và ơn cứu rỗi khắp nơi. Mẹ gần như lúc nào cũng là nhân chứng và
đồng công vào những việc lạ lùng đó. Tuy nhiên, Mẹ đặc biệt thực thi đức bác ái
đối với nữ giới, còn Chúa Giêsu cho nam giới. Những người nghèo khó là những
người được thụ hưởng tình thương của Chúa hơn hết, vì họ khiêm nhường, ôn hòa
hơn và ít bị ràng buộc với trần thế hơn.
Gioan Tiền Hô sống trong rừng vắng. Ông
chỉ tiếp xúc với Thiên Chúa và các Thiên Thần. Khi 30 tuổi, ông được Chúa cho
xem thấy quãng đời cứu chuộc của Chúa Kitô và được lệnh lên đường loan báo
Người xuất hiện. Ông đi chân không, mặc áo lông lạc đà, thắt dây lưng da thú.
Gương mặt gầy nhưng đượm vẻ phong thái oai nghiêm. Ông rất khiêm nhu, nhã nhặn,
can đảm và sốt sắng. Giọng nói của ông sống động, hăng say. Ông bỏ rừng vắng và
nhờ các Thiên Thần mang tặng Mẹ một cây Thánh Giá chính các Thiên Thần làm cho
ông và ông thường nằm lên để cầu nguyện. Mẹ nhận Thánh Giá để trong phòng Mẹ
cùng với Thánh Giá Chúa đã tự đóng cho mình. Sau khi Mẹ qua đời các Tông Đồ giữ
làm di bảo. Gioan rao giảng sự sám hối và loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến.
Cây cọ - đặc trưng của miền trung du Bắc Việt như: Phú Thọ, Thái nguyên... |
Khi sửa soạn công cuộc rao giảng, Chúa
Giêsu nói với Mẹ: "Con
nhờ Mẹ mà có được nhân tính và cũng nhờ Mẹ nuôi dưỡng bằng sữa
và công lao của Mẹ, nên con là con của Mẹ mật thiết hơn bất cứ một
người nào khác đối với mẹ họ. Bởi thế, Con xin phép Mẹ cho Con ra đi làm sứ
mệnh Chúa Cha trao phó cho Con vì thời giờ của Con đã đến. Con cũng muốn Mẹ
đồng công cộng tác với Con trong mọi đau khổ Con chịu trên thân thể mà Mẹ đã cho
con". Sau lời êm ái đó Ngài ôm hôn Mẹ, từ giã Mẹ lên đường theo sứ
mệnh. Sau đó Ngài đến cùng Gioan chịu Phép Rửa tại sông Jordan rồi lên rừng
vắng cầu nguyện.
Để tuân hợp ý Chúa, sau khi Chúa đi rồi,
Mẹ chuyên chú đến việc cầu nguyện và chiêm niệm. Mỗi ngày hơn 200 lần Mẹ sấp
mình xuống đất cầu nguyện sốt sắng đến rơi lệ máu, để đồng công vào việc cứu
chuộc của Con Mẹ, cho việc rao giảng Tin Mừng được thấm vào lòng mỗi con người.
Các Thiên Thần luôn ở bên Mẹ để phục vụ
Mẹ. Các Ngài muốn Mẹ vui, nên lâu lâu lại thuật cho Mẹ những tin vui trong cuộc
hành trình giảng giải của Chúa. Có lúc từ trong phòng cầu nguyện, Mẹ xuất thần
xem thấy việc Ngài làm.
Ngài ở lại miền Giudêa suốt 10 tháng để
giúp cho miền này đón nhận Tim Mừng. Ngài không làm phép lạ nhưng gieo nhiều ân
sủng phi thường đến nỗi người ta nhìn nhận Ngài là Đại Tiên Tri. Bắt chước
Chúa, Mẹ cũng đến các làng lân cận để báo tin cho họ biết về Đấng Cứu Thế, chữa
lành bệnh nhân và người sầu khổ. Mẹ cũng quan tâm nghe lời Gioan và sai các
Thiên Thần đến giúp ông. Trong lần cuối cùng Chúa Giêsu gặp Gioan Tẩy giả, có
hai môn đệ đi theo Chúa là Anrê và Gioan. Ít lâu sau có Phêrô, Philipphê,
Nathanael. Ngài ban ơn soi động và tăng sức trong tâm hồn để các ông thắng lướt
con người và vững vàng theo Chúa, để hiểu được cách thâm thúy ý nghĩa của sự hy
hiến vì nước trời.
Sau đó Ngài về Nazareth quê hương mình. Mẹ
ra tiếp đón các Ngài. Mẹ quì gối xin Chúa chúc lành và các Ngài cũng quì xin
Chúa như vậy.
Chúa Giêsu và các môn đệ đi rao giảng ở
các làng lân cận. Trong khi đó, Mẹ đi Cana để dự đám cưới của một người bà con
đời thứ bốn về bên Thánh Nữ Anna. Được ơn Thánh Linh soi sáng, Mẹ bảo họ đi mời
cả Chúa Giêsu và các Tông Đồ đến dự. Hôm ấy là ngày thứ 3 trong tuần của người
Do Thái, cũng là ngày kỷ niệm ba Đạo Sĩ đến thờ lạy Chúa và là ngày Gioan làm
Phép Rửa cho Chúa. Lúc cuối bữa tiệc bị thiếu rượu, vì bác ái Mẹ thưa Chúa,
nhưng Chúa đáp lại không phải việc. Điều ấy Chúa có ý cho các Tông Đồ biết việc
Thiên Tính duy nhất mới làm phép lạ. Ngài chính là Đấng có hai bản tính. Mẹ
biết Chúa đồng ý, nên sai người giúp việc làm theo lời Chúa dạy. Phép lạ này
làm các Môn Đệ vững lòng tin và tăng thêm số các Môn Đệ nữa. Sau đó Ngài làm
nhiều phép lạ khác nữa mà Gioan quả quyết là không sách nào chép hết
được.
Mẹ cũng thường được cộng tác với Chúa
trong việc làm các phép lạ ấy, vì từ sau đám cưới Mẹ không mấy lúc rời xa Chúa.
Các phép lạ này các Thánh Ký đã kể lại để Chúa được vinh quang, nhưng Mẹ xin
các Ngài đừng nói đến Mẹ. Chính vì thế mà Mẹ không bao giờ xuất hiện nơi công
chúng và đức khiêm tốn đúng địa vị mình là đức quan tâm nhất của Mẹ.
Ma quỉ được phép Chúa cho hoạt động ở trần
gian, để chúng nhìn thấy những thất bại của mình khi Chúa làm phép lạ, nhưng
chúng không được biết chính xác Ngài là Đấng Cứu Thế, mà chỉ hồ nghi và bực
bội. Chúng dùng kế xúi dục các vị Thượng Tế, các người Biệt Phái và cả nhà cầm
quyền Roma, để tìm moi tông tích của Ngài. Chúng cũng căm tức cả với Gioan Tiền
Hô nữa, vì Ngài không tiết lộ Ngôi Lời, lại cũng không nhận mình là Cứu Tinh,
nên chúng xúi dục Herodia giết chết Gioan. Thực ra Mẹ và Chúa Giêsu vẫn luôn an
ủi và sai Thiên Thần giúp đỡ ông. Đến giờ cuối cùng của đời ông, Chúa và Mẹ đã
thân đến an ủi và giúp ông trong giờ chết. Mẹ thấy Gioan đầy những vết thương
tàn nhẫn do 6 tên gia nhân thân tín của Herôdia hành hạ. Gioan thấy Chúa và Mẹ
đến thăm ông trong hào quang rực rỡ. Chúa và Mẹ vừa xuất hiện, xiềng xích trói
buộc ông liền đứt ra, các vết thương trên mình ông đều lành lặn. Ông sấp mình
xuống mà xin phép lành, vừa hết sức vui mừng vừa thưa với Chúa sẵn sàng chết vì
danh Thầy. Thăm viếng xong, ba tên lý hình vào ngục chặt đầu ông và đem đầu ông
lên cho chủ. Chúa và Mẹ nâng xác và đầu ông dâng lên Chúa Cha một lễ vật đáng
ca ngợi. Chúa Cha sai Thiên Thần đưa linh hồn ông vào ngục Tổ, đem nguồn vui
đến cho các Thánh.
Vừa tiếp tục đi rao giảng Tin Mừng, Chúa
Giêsu vừa không ngừng soi sáng cho các môn đệ một lòng tôn sùng đặc biệt đối
với Mẹ. Nên khi nguy nan hoặc bị cám dỗ, họ đều chân thành chạy đến với Mẹ. Mẹ
yêu thương hết mọi người, nói với mọi người, cầu nguyện cho mọi người và dạy dỗ
mọi người theo như Mẹ biết được tâm hồn họ bao nhiêu, dạy dỗ họ cẩn thận bấy
nhiêu. Không bao giờ họ từ biệt Mẹ mà không cảm thấy một niềm vui và một an ủi
vượt quá ước mong của họ.
Tuy nhiên Mẹ ưu ái Thánh Phêrô và Gioan
nhất, vì Phêrô là đại diện thay quyền Chúa, còn Gioan sẽ thay thế chỗ Chúa bên
cạnh Mẹ. Gioan còn đem hết sức phụng sự Mẹ và cư xử với Mẹ cách thật tôn kính
và là người đầu tiên gọi Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ loài người, là bà chủ mọi dân
tộc. Nói chung, Mẹ quí mến các Tông Đồ, chỉ có Giuda đã để mình bị lôi kéo theo
mối ganh hờn với các bạn, người Mẹ đã từng chỉ bảo và khuyên nhủ rất thật tình.
Y quay lại với Mẹ và tự theo ý mình. Y tự ý nhận làm thủ quỹ, mặc dù Chúa đã
nói nếu y giữ chức quản lý là tự cầm chén thuốc độc mà uống, nhưng y cứ vật nài
và tự nhận có khả năng hơn các Tông Đồ khác. Y ra mặt căm tức với Mẹ vì Mẹ rộng
tay bố thí và y phẫn nộ với Chúa vì Chúa ít nhận của người ta bố thí cho. Y
cũng cay đắng lên án hành vi của Madalena, khi bà xức dầu thơm cho Chúa. Rốt
cuộc, y mất đức tin và sau lần sa ngã, ma quỉ lôi y vào chỗ phạm tội bội phản
chính Thầy mình, để lưu danh đời đời là tên ruồng bỏ phản Thầy.
Đã hơn hai năm Chúa Giêsu thi hành sứ mệnh
bằng lời giảng dạy, bằng gương sống và bằng phép lạ, nay gần tới giờ nộp mình
chịu chết và trở về cùng Chúa Cha. Ngài quyết định cho các Môn Đệ nhìn thấy thân
xác mình hiện thực là vinh quang, để niềm tin của các ngài không bị lung lay
khi thấy Ngài tử nạn, nên Ngài biến hình trên núi Taborê cách Naza hai dặm
đường. Gương mặt Ngài sáng như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết, thân thể tỏa
rạng ánh sáng. Có Elia và Moisen đến chứng kiến. Các Thiên Thần cũng đưa Mẹ lên
núi vì Chúa yêu Mẹ lắm, nên không thể để Mẹ không dự phần vinh quang của Con
mình.
Sau cuộc biến hình, các Thiên Thần đưa Mẹ
về nhà ở Naza và Chúa Giêsu cũng về, nhưng Ngài chỉ ở lại vài ngày, rồi từ biệt
ngôi nhà đáng kính lần cuối cùng đi mừng lễ Vượt Qua sau hết. Và đi dựng cờ
Thánh Giá để những ai mến yêu nhân đức sẽ đến đứng dưới bóng cờ này.
Mẹ cùng Chúa lại bỏ nhà đi Giêrusalem.
Trong thời gian này Chúa làm những phép lạ như: cho Lazarô sống lại, cứu
Madalena khỏi tội. Chính căn nguyên này mà Giuđa quyết định tìm cách hại Thầy
mình. Mẹ can ngăn y nhưng lòng ác quái của y không làm y mềm lòng. Y sắt đá
thêm và thâm hiểm im lặng, để giữ chặt mối căm phẫn của y. Mẹ trở lại tìm Chúa
Giêsu, hai Mẹ Con cùng cầu nguyện với tâm hồn nhẫn nhục cao vời. Chúa Cha đưa
Mẹ và Chúa Giêsu lên ngai tòa hằng hữu. Chúa Cha phán với Ngôi Con: "Cha chấp nhận lễ hy sinh của
Con và bằng lòng thi hành phép công thẳng của Cha trên Con, để tha tội cho loài
người và Con nữa. Hỡi Maria, Cha muốn Con theo gương Cha mà trao nộp Con của
Con để cứu rỗi loài người". Mẹ trả lời: "Lạy Chúa, Con chỉ là tạo vật,
là tro bụi bất xứng, Con xin dâng Người cùng chính mình Con, cho ý định ngàn
đời của Cha, để chịu đau khổ mà cứu chuộc nhân loại". Thiên Chúa nâng
cả hai Mẹ Con và đặt Ngôi Lời Nhập Thể trên ngai của Ngài. Nhìn thấy vậy Mẹ vui
mừng khôn tả, miệng ca lên lời Thánh Vịnh cao quang.
Để sửa soạn cho cuộc khải hoàn vinh thắng,
và để chứng tỏ cho ma quỉ và các thủ hạ phải kinh hoàng. Chúa Giêsu tiến vào
thành Giêrusalem một cách long trọng, mọi người say sưa hoan hô Chúa: "Vạn tuế Đức Vua nhân danh
Chúa đến với chúng ta. Hoan hô Con Vua David". Tại Bethania, nơi Mẹ
lưu ngụ, Mẹ nhìn thấy tất cả quang cảnh tưng bừng ấy, và nghe thấy tiếng Thiên
Chúa Cha phán tỏ cho mọi người tham dự, đều nghe hiểu được: "Cha đã tôn vinh Con rồi, Cha
sẽ còn tôn vinh Con nữa". Thiên Chúa cũng sai Đức Tổng Thần Micae đem
tin xuống ngục Tổ. Tại đây, các Thánh được thấy tất cả diễn biến tại
Giêrusalem. Các Ngài hát ca mừng Chúa Cứu Chuộc chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Trái lại, trong ngày ấy ma quỉ bị xô xuống hoả ngục hết. Chúng điên cuồng lên
vì phải ở trong hỏa ngục. Luxiphe suy đoán rằng, người vào thành long trọng ấy
là Đấng Cứu Thế, nên nó xúi dục người Do Thái giết Ngài.
Phần Chúa Giêsu, Ngài cứ chuẩn bị cho các
Môn Đệ suốt trong ba ngày sau cuộc khải hoàn, để các Ngài vững lòng về cuộc tử
nạn của Ngài.
Ngày thứ Năm Tuần Thánh, trước khi mặt
trời mọc, Chúa Giêsu gọi Mẹ lại mà nói: "Đây
là giờ Con phải thi hành việc cứu chuộc thế gian. Mẹ đã tình nguyện thưa xin
vâng lúc Con nhập thể, Con muốn Mẹ cũng thưa xin vâng khi Con chịu tử nạn. Xin
Mẹ bằng lòng cho Con đi chịu chết cho loài người, và xin Mẹ đồng công với lễ hy
sinh này để cứu rỗi họ".
Nghe lời đó, tâm hồn Mẹ đau khổ mãnh liệt.
Mẹ sấp mình xuống hôn chân Ngài mà nói: "Con
là Thiên Chúa tối cao, Mẹ là đầy tớ của Con, Mẹ xin tuân hợp thánh ý Cha Hằng
Hữu, và thánh ý Con để đồng công cứu chuộc loài người. Và Nếu đẹp lòng Con, thì
xin cho Mẹ được tham dự vào nhiệm tích Thánh Thể mà con quyết định sáng lập.
Nhờ cuộc chiếm hữu Con một lần cho Mẹ được sống với Con. Con là Chúa của Mẹ,
xin Con cứ cư ngụ nơi lòng Mẹ, nơi Con đã cư ngụ trước kia, để Mẹ Con ta hợp
nhất khăng khít mãi ở đó, trong một tình yêu tha thiết mới". Chúa
Giêsu cũng trả lời một cách thật tình và quả quyết là Mẹ sẽ được thỏa nguyện
khi Ngài lập nhiệm tích tôn thờ ấy.
Liền đấy, Chúa Giêsu tạ biệt Mẹ và rời
khỏi Bêthania vào lúc trước giờ trưa một chút, có các Tông Đồ đi theo. Ngài sai
Phêrô và Gioan đi trước để chuẩn bị tiệc Chiên Vượt Qua theo lề luật dạy. Theo
dấu hiệu Ngài chỉ trước, hai ông chu toàn sứ mệnh trong nhà một nhân vật rất
giầu sang và rất tận tâm với Chúa. Chúa Giêsu tới nơi được một lúc thì Mẹ cũng
đến. Theo lời Chúa, Mẹ và đoàn phụ nữ tiến sang phòng bên cạnh, nơi đây, trong
cuộc chiêm niệm, Mẹ tham dự được tất cả những việc xẩy ra trong đêm kỷ niệm ấy
rõ ràng như ở trước mắt.
Chúa Giêsu vào căn phòng đã dành cho Chúa.
Ngài cảm tạ Cha Hằng Hữu, rồi vào dự tiệc Chiên Vượt Qua cuối cùng của đời
Ngài. Vào cuối bữa ăn, Ngài đứng dậy, cởi áo choàng ra, áo mà Mẹ đã may cho
Ngài mặc bên ngoài, áo không có đường chỉ. Ngài lấy một chiếc khăn vải thắt
lưng, lấy nước đổ vào chậu và rửa chân cho các Tông Đồ.
Sau khi làm xong những nghi thức chuẩn bị,
Chúa Giêsu mặc áo choàng lại và ngồi vào bàn ăn. Ngài cũng ban cho các Tông Đồ
những ánh sáng mới để hiểu và chuẩn bị lãnh nhận mầu nhiệm Thánh Thể. Ngài còn
mặc khải cho các ông những lời tâm huyết, như những mũi tên bừng lửa tình yêu,
làm các ông sốt sắng và hợp nhất với Chúa. Lúc đó, Ngài cầm bánh và rượu trên
tay thánh thiện, ngước mắt lên trời, nhìn Chúa Cha hằng hữu và Thánh Linh, đọc
lời hiến thánh hai hình bánh rượu. Mẹ sấp mình xuống cùng với các Tông Đồ thờ
lạy Thánh Thể. Sau khi dâng cao Thánh Thể, Chúa Giêsu bẻ một phần, rồi tự mình
rước lấy với tư cách là Linh Mục tối cao và đầu tiên. Lúc đó linh hồn vinh hiển
của Ngài giãi sáng ra nơi thân xác Ngài một lúc, như trên núi Taborê, nhưng chỉ
một mình Mẹ nhận thấy thôi.
Ngài lại bẻ một phần Bánh Thánh Hiến trao
cho Tổng Thần Gabriel đem đến cho Mẹ. Mẹ chịu lấy Thánh Thể từ tay Tổng Thần.
Thánh Thể được đặt vào Trái Tim Mẹ như vào trong Nhà Tạm xứng đáng nhất của
Thiên Chúa, và cứ còn ở đó nguyên vẹn mãi cho tới khi Mẹ hiệp lễ lần sau. Mẹ là
người thứ nhất hiệp lễ sau Chúa Giêsu. Sau khi Mẹ nhận Thánh Thể rồi, Chúa
Giêsu lại trao Bánh Thánh Hiến cho các Tông Đồ, truyền cho các ông chia nhau
ăn. Bằng lệnh truyền đó, Ngài đã lập chức Linh Mục. Các Tông Đồ thi hành chức
vụ ấy trong khi tự mình rước lễ với một niềm tôn kính cao vời và chảy nước mắt
nhiệt tâm.
Sau khi mọi người hiệp lễ, Chúa Giêsu lại
tạ ơn Cha một lần nữa. Ngài ban lời sau hết và chấm dứt mầu nhiệm Tiệc Thánh,
để bắt đầu thể hiện mầu nhiệm Tử Nạn Cứu Chuộc.
Chúa Giêsu rời khỏi nhà Tiệc Ly, Ngài lên
núi Cây Dầu cùng với mười một môn đệ, còn Giuđa đã ra đi ngay sau khi ăn miếng
bánh Chúa trao trong nhà Tiệc Ly. Ông ta đi báo tin cho các Thượng Tế cơ hội
tốt đẹp Chúa lên núi để họ bắt Thầy mình.
Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu dâng mình
cho Chúa Cha để làm nguôi phép công bằng của Cha và cứu chuộc nhân loại. Ngài
cho phép những cực hình được tự do hành hạ cảm tính trong nhân tính của Ngài,
để nhân tính được hoàn toàn chịu các cực hình tới độ sầu thảm nhất. Vì thế Ngài
đã nói với các môn đệ: "Linh
hồn Thầy buồn sầu đến chết được". Ngài sấp mặt xuống đất 3 lần mà kêu
với Chúa Cha: "Lạy Cha,
nếu có thể, xin Cha cất chén đắng này đi khỏi con". Trong khi cơn sợ
hãi và buồn sầu ghê sợ chợt đến cho mình.
Từ nhà Tiệc Ly, Mẹ thấy rõ tất cả những sự
kiện xẩy ra tại vườn Cây Dầu. Mẹ cũng xin cho được chịu trong thân xác Mẹ, hết
những cực hình Chúa sắp sửa chịu trong cuộc tử nạn. Vì thế Mẹ được chịu những
đau đớn dữ dằn khủng khiếp Chúa chịu, nếu Chúa không ban ơn trợ giúp cách lạ,
thì Mẹ đã chết đi nhiều lần. Mẹ cũng đã hấp hối giống như Chúa, Mồ hôi máu toàn
thân Mẹ cũng toát ra giống Chúa. Mẹ khủng khiếp biết bao khi thấy một đoàn binh
lính cùng Thượng Tế kéo đến, có Giuda hướng dẫn tiến vào. Thấy trước mắt những
xỉ nhục mà bọn người đó sẽ làm cho Chúa. Mẹ mời các Thiên Thần thờ lạy, tin yêu
Chúa bù lại. Mẹ cũng cầu xin Chúa soi sáng cho người tông đồ khốn nạn đó, nhưng
than ôi! Hạt giống chí thánh ấy không sinh hiệu quả nào trong tâm hồn cứng rắn
và bạo tàn của tên phản bội.
Trong bọn người đến bắt Chúa tại vườn Cây
Dầu, có cả Luxiphe và đông đảo thần dữ trà trộn. Chúng xúi dục Giuda và bọn
quân dữ đem tất cả bạo lực của chúng ra hành hạ Chúa Giêsu. Khi bọn này trả lời
Chúa là đi bắt Giêsu Nazareth, Chúa trả lời rằng: "Ta đây". Lời ngắn
gọn ấy quật ngã tất cả: người, ngựa và cả đám đông ma quỉ thúc bách chúng nữa.
Chúa cảm thương nhìn chúng nằm xo giụi ngổn ngang trước mắt mình, như đoàn
người bị đọa phạt. Với lòng đầy trắc ẩn, Mẹ xin Chúa cho phép những kẻ khốn nạn
ấy được đứng dậy và Chúa cũng đã quyết định chỉ cho chúng đứng dậy khi có lời
Mẹ cầu xin.
Rồi lúc Phêrô rút gươm chém đứt tai tên
đầy tớ Manchu, Chúa vừa làm phép lạ chữa lành cho chúng vừa bảo Phêrô: "Hãy xỏ gươm vào vỏ. Giáo Hội
mà con làm đầu không phải bảo vệ bằng gươm giáo, nhưng bằng khí giới vô hình là
lời cầu nguyện và nhân đức". Hai phép lạ đó làm chúng cảm động, nhưng
chúng vẫn cứng lòng. Được Chúa cho phép bắt Ngài, chúng nhảy bổ vào Ngài như
những con thú dữ. Chúng trói Ngài bằng dây xích sắt và còng tay Ngài bằng những
còng sắt, buộc giật cánh tay lại đàng sau lưng. Để chắc ăn hơn, chúng lấy dây
thừng cột chặt hai cánh tay vào mình, chừa lại hai đầu dây để kéo cả đàng trước
lẫn đàng sau. Mẹ xin Chúa cho đồng chịu khổ với Ngài, nên Mẹ cũng cảm nghiệm
được trong thân xác Mẹ, những đau khổ do xiềng xích và dây trói ghì lại như
chính thân mình Mẹ bị vậy. Bọn chúng lôi kéo Chúa ra khỏi vườn, giữa tiếng reo
hò gào thét ghê sợ. Chúng vừa phun ra những lời nói độc địa ghê tởm nhất, vừa
hành hạ Chúa không nương tay. Với thái độ bình tĩnh, nhân từ của Chúa, lại càng
làm cho bọn quỉ dữ bực tức và thắc mắc: Có lẽ Chúa là Đấng Cứu Thế mà chúng
không thể thắng nổi chăng? Nên bọn chúng quyết định ức bách Chúa một cách hung
hãn nhất, để nếu Chúa chỉ là con người, Ngài sẽ mất nhẫn nại. Thấy rõ ý định
hỏa ngục của chúng, Mẹ cấm không cho chúng đến gần Chúa. Ngay lúc đó chúng mất
hết mọi nghị lực. Tuy nhiên chúng vẫn được phép xúi dục bọn người Do Thái căm
giận Ngài và muốn giết Ngài cho hả dạ.
Tâm hồn các Tông Đồ thật hốt hoảng. Náo
động và sợ sệt làm tê liệt lòng can đảm của các ông, các ông bỏ chạy toán loạn,
lòng hoang mang, chẳng còn biết đâu là chắc nữa. Tuy nhiên, Phêrô và Gioan
cương nghị hơn các Tông Đồ khác. Hai ông đi theo quan sát nhưng vẫn đề phòng.
Mẹ thấy rõ từng tình ý, từng hành vi của các ông. Mẹ thương cảm cho sự yếu đuối
ấy. Mẹ quì gối, sấp mình xuống để cầu nguyện, để thờ lạy Thánh Thể Chúa đang bị
hành hạ.
Khi đã điệu Chúa Giêsu đến nhà Thượng Tế
Anna. Bọn chúng nộp Ngài cho Thượng Tế thẩm vấn. Chính lúc đó, Gioan và Phêrô
vào được trong sân tiếp giáp với phòng xử án. Phêrô chối Thầy lần thứ nhất, làm
cho Mẹ đau khổ hơn cả những tạt vả người ta đánh lên Chúa. Lòng Mẹ cảm thương
rất chua xót đến rơi lệ máu.
Trước mặt Thượng Tế Caipha, vị này đem hết
cung giọng châm biếm, chế diễu ra mà tiếp đón Chúa như một kẻ thua trận. Thực
ra Chúa đã thắng tội lỗi, sự chết, và hỏa ngục, bằng đức nhẫn nại, chịu đựng,
khiêm nhường và thương yêu của Ngài. Khi nghe các chứng nhân dối trá, vị Thượng
Tế lại được Luxiphe xúi giục hỏi xem có phải Ngài là Đấng Kitô Con Thiên Chúa
không. Tất cả mọi người có mặt lúc ấy đều run sợ trước câu trả lời minh bạch
của Chúa: "Phải, Tôi là
Con Thiên Chúa". Bọn quỉ kinh hoàng nhất, chúng có thể xô nhau xuống
hỏa ngục không dám xuất hiện trước tôn nhan Chúa, nếu Chúa quan phòng không xê
xếp cho chúng nảy ra những hoài nghi mới. Caipha bực bội vì lời mà ông cho là
phạm thượng đó. Còn dân chúng thì gào lên: "Nó
đáng chết". Thế rồi mọi người đồng loạt nhào vào đánh đập Chúa Giêsu
như một người đáng khinh bỉ nhất. Mẹ được đón chịu tất cả những đòn vọt, những
vết máu đổ ra trên thân thể Chúa, nếu không có sức mạnh Thần Linh gìn giữ, thì
Mẹ có thể chết ngất dưới sự đau đớn ấy.
Mẹ đặc biệt quan tâm đến Phêrô lúc ấy.
Luxiphe kích động bọn nữ tì và quân lính đến hạch hỏi ông, đồng thời nó cám dỗ
ông rất mạnh làm ông nao núng. Ông đã chối Thầy mình lần thứ nhất trong sân
Caipha. Trước khi gà gáy lần thứ hai ông lại chối lần nữa, chối xong ông định bụng
lẻn ra ngoài, nhưng vừa không thuộc lối vừa không dám ra phía cổng, bị canh giữ
nghiêm ngặt, ông cứ luẩn quẩn mãi trong sân, cho tới lúc người bà con của
Manchu nhận ra ông ở vườn Cây Dầu, mới quả quyết ông thuộc bọn Giêsu. Ông chối
lần thứ ba. Thấy cảnh tượng ấy, Mẹ sấp mình xuống đất, châu lệ chan hòa, Mẹ xin
ơn tha thứ cho ông. Chúa Giêsu tỏ tình thương ghé mắt nhìn ông, và ông hối hận
cay đắng trong lòng. Ông lủi thủi lẻn ra một góc nhà mà chua xót tội mình.
Giuda cũng vào dinh Thượng Tế Caipha. Khi
thấy Thầy mình bị lên án bất công và bị hành hạ quá dã man, y đay nghiến tội ác
mình. Ma quỉ lại thúc đẩy y điên cuồng căm phẫn chính mình, muốn lên tầng lầu
nhẩy xuống mà chết, nhưng không đạt được ý định, y lao mình ra đường phố như
một con thú điên khùng, nguyền rủa và chửi bới chính mình. Y đem tiền trả cho
các Thượng Tế, rồi đi thắt cổ trên một cây khô. Ma quỉ ném linh hồn y vào hỏa
ngục.
Tra vấn Chúa đến quá nửa đêm, Caipha ra
lệnh đem giam Chúa vào hầm tối. Vừa dong Chúa đi, bọn lính vừa đánh đập cho
thỏa lòng nghen ghét, mà ma quỉ đã khơi lên trong lòng chúng. Chúng treo Chúa
vào cột đá, treo lưng chừng không ngồi được, cũng không đứng được. Sau một hồi
đánh khảo và chửi rủa, chúng khạc nhổ vào mặt, lấy giầy đánh ngang mặt, để
cưỡng bách Chúa phải dùng tà thuật mà chống lại như chúng nghĩ. Nhưng Chúa
không hề ngước mắt lên, không hề động đậy. Sự hiền từ vô địch ấy không làm
chúng xúc động, mà lại làm chúng nổi xung cuồng bạo hơn. Chúng cởi dây trói,
dẫn Chúa ra giữa nhà, để hành hạ cho dễ hơn. Chúng lấy khăn bịt mặt lại rồi lần
lượt đánh đập, khạc nhổ, reo hò chế nhạo: "Bói
thử đi, ai đánh ngươi?" Chúng
cười cợt và nói những lời rất tục tằn. Chúa vẫn hoàn toàn bình thản như một con
chiên hiền từ. Điên giận lên, chúng lột trần Chúa ra để chọc chơi hết sức bất
kính. Thấy vậy, Mẹ liền can thiệp. Với quyền lực thống trị muôn loài Chúa ban,
Mẹ làm chúng tê bại cả chân tay lẫn trí óc. Bọn chúng tưởng là Chúa dùng phù
phép làm hại chúng, nên chúng nói Chúa là một pháp sư cao tay. Chúng bèn bỏ ý
định chơi cái trò bỉ ổi đó, và tứ chi chúng trở lại bình thường. Mặt Chúa đã
biến dạng, sưng húp lên vì đánh đập, tạt vả, không còn hình giống người
nữa.
Vào tảng sáng ngày thứ Sáu, các Thượng Tế
tới giải Chúa Giêsu qua dinh Trấn Thủ Philatô. Thành phố ồn ào nhộn nhịp đầy
những người từ khắp nơi trẩy đến dự lễ Vượt Qua. Các Thiên Thần cũng dẫn Mẹ
vượt qua đám đông ồn ào lộn xộn để gặp Chúa. Gặp được Chúa, Mẹ sấp mình xuống
trước mặt Chúa, thờ lạy Chúa với một tâm hồn tôn kính cao vời. Khi Mẹ đứng dậy,
hai Mẹ Con nhìn nhau rất thiết tha mà cũng đau đớn khôn tả. Mẹ đi lùi lại sau
Chúa Giêsu một chút, rồi vừa đi theo vừa đem tâm hồn đàm đạo với Chúa và với
Cha Hằng Hữu, không ngôn ngữ loài người nào có thể diễn tả được.
Sau cùng, Chúa tới dinh Trấn Thủ, theo sau
là rất đông nhân viên Hội Đồng Cộng Tọa Do Thái và dân chúng đủ mọi tầng lớp.
Theo tục lệ Do Thái cấm không cho người vào nhà, nên Philatô ra ngoài tiếp họ.
Ông hỏi họ: "Các ông tố
cáo người này vì tội gì?". Các Trưởng Tế trả lời: "Bẩm, Hắn đã gây xáo động khắp
nước, Hắn tự xưng làm vua, cấm nhân dân nộp thuế cho Hoàng Đế và còn tự xưng
mình là Con Thiên Chúa". Nghe nói đến Con Thiên Chúa, ông e ngại nói
lảng đi: "Thế các ông cứ
chiếu theo luật mà xét xử, bản chức chả có quyền gì để xét xử". Họ trả lời: "Chúng tôi không có quyền lên
án ai cả". Philatô đem Chúa Giêsu vào trong dinh để tra hỏi. Nhưng ông
biết chỉ vì ghen tức mà bọn họ lên án Ngài. Ông đi ra ngoài dinh, nói với người
Do Thái rằng: "Bản chức
không có lý do để kết án". Người Do Thái làm ầm lên: "Sao lại không có lý do? Nó
giảng đạo và kích động quần chúng suốt từ Galilê đến đây". Nghe nói
đến Galilê, Philatô thở phào như trút được gánh nặng, ông chuyển vụ rắc rối này
đến nhà cầm quyền xứ đó. Thế là họ giải Chúa nộp cho Hêrôdê ngay lúc bấy giờ.
Herôđê hoan hỉ tiếp đón Chúa Giêsu, với hy
vọng Chúa làm cho ông một phép lạ coi chơi. Ông cũng vẫn coi Chúa là tay phù
thủy. Ông hỏi Chúa rất nhiều điều, nhưng Chúa cứ im lặng, không đáp lại một lời
nào. Các Thượng Tế và Kỳ Lão hết sức vu khống Ngài, nhưng Chúa Giêsu cũng im
lặng. Hêrodê cố áp bức Ngài trả lời lấy một câu nhưng không được, nên ông căm
tức mà nhạo cười. Bọn cận thần cũng nhạo cười Ngài như một người điên. Họ mặc
cho Chúa một chiếc áo trắng, áo mà người Do Thái vẫn mặc cho người điên, để
người ta thấy mà tránh. Nhưng đối với Chúa, áo đó lại là biểu tượng sự vô tội
hoàn toàn của Ngài. Mẹ thờ lạy Chúa đang mặc chiếc áo trắng dài mầu nhiệm, mà
Mẹ hiểu rõ được ý nghĩa tượng trưng ấy.
Bọn Thượng Tế lại giải Ngài về dinh
Philatô. Dân chúng xô đẩy nhau, hối thúc nhau ào ào, làm Chúa ngã xuống đất
nhiều lần. Bọn lính bất nhân cầm dây trói giật mạnh một cách hung tàn, nên máu
từ thân thể Chúa bắn ra, Chúa không dễ dàng đứng dậy được, vì hai tay bị ghì
chặt vào thân thể. Trước cảnh tượng hung bạo tàn tệ ấy, Mẹ càng thêm đau khổ
thống thiết hơn.
Philatô thấy Hêrôdê không xử mà trao lại
cho mình, ông bối rối về sự vô tội của Chúa và về mối căm hờn của người Do
Thái, ông bí mật cho gọi nhiều viên quan chức và thân hữu của các vị Thượng Tế
vào bàn với họ nên trả tự do cho Chúa sau khi sửa phạt Ngài qua loa. Theo tục
lệ tha cho một tội nhân vào dịp lễ Vượt Qua, để kỷ niệm việc thoát cảnh nô lệ
Ai Cập, ông đề nghị với họ đừng tha cho Baraba mà tha cho Chúa Giêsu. Nhưng
cuộc mật đàm không kết quả.
Lúc đó bà vợ của Philatô là Prôcula, sai
người đến nói với ông là: "Chớ
lên án kẻ vô tội, vì trong giấc mộng bà đã phải khổ nhiều". Philatô
cũng do dự, nhưng những tiếng hô hoán đả đảo, đã thắng tính nhu nhược hèn nhát
của ông. Mẹ nghe những tiếng gào thét man rợ đó một cách bình thản, nhịn nhục
vô lượng, mặc dù tiếng đó xuyên thủng Trái Tim Mẹ. Mẹ rất bình tâm, mặc dù buồn
thảm đến đâu cũng không làm Mẹ giảm bớt nhiệt tâm và đau khổ, đến đâu cũng
không làm suy sút đức ái tuyệt vời, để xin Chúa nhân từ tha thứ hết những tội
ác ấy.
Với hy vọng hão huyền là dẹp yên được cơn
cuồng nộ của người Do Thái, nên Philatô ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu để rồi tha
cho Người. Bọn chúng chọn 6 tên lính vạm vỡ và tàn nhẫn để đánh Chúa. Trước hết
chúng lột áo trắng ra, trói Chúa vào cột đá, rồi thay nhau đánh Chúa một cách
hung dữ chưa từng có. Thân thể Chúa xé rách thành từng mảnh thịt. Có mảnh đứt
ra rơi xuống đất, để lộ những mẩu xương rướm máu. Chúng còn đánh vào tay, vào
chân, vào mặt, gây nên những vết thương không ai tưởng tượng được. Số các roi
đòn in trên mình Chúa là 5115 lần.
Dân chúng đứng đầy sân dinh Trấn Thủ và
các đường phố, đợi xem công việc kết quả ra sao. Cùng với thánh Gioan và ba bà
Maria, Mẹ đứng trong góc sân. Mẹ đã được thị kiến và cảm nhận hết những roi đòn
ấy, khiến mặt Mẹ biến dạng không còn nhận ra mặt Mẹ nữa.
Sau khi đánh Chúa, bọn lý hình cởi trói và
mặc áo lại cho Ngài. Được viên Trấn Thủ cho phép, chúng đem Chúa Giêsu vào dinh
phủ, sỗ sàng lột áo trắng ra và khoác cho Ngài một áo choàng đỏ, vừa rách vừa
bẩn, để làm trò cười cho mọi người. Chúng đặt trên đầu Ngài một triều thiên kết
bằng những cành gai nhọn. Chúng ấn mạnh xuống, khiến những chiếc gai nhọn ngập
vào óc, lọt xuống tai, thấu đến tận mắt. Giả vương trượng, chúng bắt Ngài cầm
que sậy, và quàng vào vai Ngài một tấm vải tím y như vị hoàng đế khoác long
bào, rồi quì xuống mà chế nhạo "Tâu
vua Do Thái". Có kẻ lấy cây sậy đập vào đầu Ngài, có kẻ khạc nhổ vào
mặt Ngài.
Thấy Chúa đáng thương như thế, Philatô ngờ
rằng những kẻ thù của Ngài có thể xúc động. Ông đem Ngài ra trình bày trước dân
chúng: "Người này là
Người". Nhưng không hề xúc động, bọn dân vô tâm lại thét lên: "Đóng đanh nó đi, đóng đanh nó
vào thập giá". Philatô
phàn nàn trước những cử chỉ ngỗ nghịch ấy. Ông nỗ lực cứu Chúa khỏi chết. Ông
đưa Chúa vào dinh, nói với Chúa một câu chuyện riêng làm lương tâm ông xao
xuyến, nhưng Chúa không nói lời nào, cho tới khi ông gằn giọng quyền thế ra mà
hỏi, Chúa mới đáp lời: "Ơn
Trên không ban cho, ông chẳng có quyền gì trên tôi cả. Vì thế kẻ nộp tôi cho
ông có tội nặng hơn". Ông lại đưa ra những cố gắng sau cùng để tha
Chúa. Nhưng người Do Thái đã nắm được nhược điểm của ông, bèn la lên: "Nếu ngài tha cho nó, ngài sẽ
thất sủng với Hoàng Đế Roma". Philatô
kinh hoàng vì lời đe dọa này, nên ông đành nhượng bộ người Do Thái. Ông cho làm
án xử tử Chúa Giêsu.
Từ khắp các ngả đường, qua bản án được
thông tri, người ta kéo nhau về dinh phủ và đến đồi Golgotha, để xem cuộc hành
quyết. Khi thấy Chúa xuất hiện, những tiếng nhộn nhạo ầm ầm nổi lên, chẳng phân
biệt được ai nói ai nghe. Các Thượng Tế thì vui mừng hân hoan vì thắng cuộc. Họ
yêu cầu dân chúng im lặng để họ đọc lại bản án. Những bạn bè, thân nhân và
những người chịu ơn Chúa khóc xướt mướt. Nhiều người có cảm tình với Chúa đứng
ngây ra như lạc mất hồn phách. Thánh Gioan và ba bà Maria đau đớn quá ngất lịm
ngã xuống đất. Chỉ có mình Mẹ can đảm phi thường, dầu rất đau đớn nhưng rất
bình tĩnh, không thấy nơi Mẹ tỏ ra yếu đuối nhát đảm như những người khác. Mẹ
còn cầu xin cho họ đi với Mẹ cho tới lúc chấm dứt cuộc tử nạn của Chúa.
Người ta đã đọc xong bản án giết Chúa và
đem Thánh Giá lại. Nhìn thấy Thánh Giá Chúa Giêsu tỏ dạ vui mừng. Mẹ cũng hợp
với những tâm tình đó vì Mẹ biết rõ giá trị vô cùng của cây Thánh Giá đem lại,
khi tiếp xúc với Thần Tính của Chúa Giêsu. Mẹ tôn kính và thờ lạy Thánh Giá cao
quí ấy. Các Thiên Thần cũng thờ lạy Thánh Giá Chúa theo gương Mẹ.
Thánh Giá ấy rất dầy, bằng gỗ nặng, dài
gần 5 mét. Bọn lính cởi tay Chúa ra để Chúa có thể giữ và vác lấy Thánh Giá,
nhưng không cởi dây trói thân, vì chúng muốn buộc vào thân mình để kéo Chúa đi.
Chúng lại buộc vào cổ Chúa một dây khác. Tên lính rao bản án đi trước. Theo sau
là dân chúng ô hợp và quân lính chen chúc nhau, vừa vô trật tự vừa la ó om xòm.
Bọn lính cầm dây đàng trước kéo Chúa đi, tên cầm dây đàng sau ghì lại. Những
giằng co hung hăng ấy khiến Chúa nhiều phen phải nấc lên, ngã dúi dụi. Hai đầu
gối quị xuống đá mặt đường nhiều lần vọt máu. Thánh Giá nặng đè xiết trên vai
rách nát, làm thành một vết thương rất lớn. Những lôi kéo đun đẩy của bọn lính
làm cho Thánh Giá va mạnh vào đầu, làm cho những gai nhọn ở đầu cắm sâu thêm
vào những phần dễ cảm nhất trên da thịt. Chúa đã bị khổ sở thế mà bọn lính còn
chửi rủa những lời bỉ ổi, bốc bụi đường ném lên Chúa. Mắt Chúa mờ trong bụi
nhơ, trong máu lệ, nhưng vẫn nhìn chúng một cách nhân từ thương hại. Muốn giết
Chúa cho sớm, bọn lính cứ thúc Chúa dồn dập. Thân xác Chúa bị chèn vào một tình
trạng yếu nhược, tưởng như sắp gục chết dưới bấy nhiêu cực hình tàn khốc.
Nhưng trong Trái Tim Mẹ, Chúa gặp được một
niềm an ủi rất phấn khởi. Mẹ rời dinh Philatô đi theo Chúa, cùng với Thánh
Gioan và ba bà Maria. Dân chúng đông quá không thể gần Chúa được, Mẹ xin Chúa
cho Mẹ được đứng gần cây Thánh Giá. Mẹ ra lệnh cho các Thiên Thần dẫn Mẹ đi qua
một dẫy phố tắt. Ở cuối phố Mẹ và Chúa gặp nhau. Hai Mẹ Con gặp nhau mà lòng
quặn đau, không nói nên lời. Thấy Chúa gập mình dưới Thánh Giá nặng nề, Mẹ cầu
xin Chúa gợi ý cho bọn lý hình bắt một ai vác đỡ Chúa. Muốn làm vui lòng Mẹ,
Chúa sai Simon Cyrênê thân phụ của Alêxan và Ruphô vác đỡ. Vừa đi Mẹ vừa suy
niệm những mầu nhiệm Cứu Chuộc.
Cũng có đám đông phụ nữ đi theo Chúa mà
khóc thương. Chúa quay lại nói với họ: "Hỡi
các thiếu nữ thành Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, nhưng hãy khóc thương con
cái mình". Một lát sau khi đã kiệt sức, Chúa cũng đã lên tới núi Sọ,
ngọn núi mà xưa kia Abraham đã sát tế con mình là Isaac, hình ảnh Chúa Cứu
Chuộc. Trước khi đóng đanh vào Thập Giá, chúng pha mật đắng vào rượu cho tử tội
uống thêm sức mạnh. Chúa chỉ nếm chứ không uống, để chịu hết mọi cực hình,
không chối bỏ một đau khổ nào.
Bấy giờ là giữa trưa ngày thứ Sáu, chúng
lột áo Chúa ra khiến Chúa phải đau đớn kinh hồn. Nhưng không lột quần ngắn,
chiếc quần mà chúng làm hết sức cũng không lột ra được. Quần ấy được táng vào
mồ cùng với thân xác Chúa sau này. Bọn chúng dằn ngửa Chúa ra trên cây Thánh
Gía. Một tên cầm tay Ngài đặt vào lỗ đinh, một tên khác dùng búa lớn đóng đinh
xuyên qua tay Chúa. Khi đóng tay thứ hai, vì lỗ đinh quá xa không thể đóng
được, chúng cột dây kéo ra cho tới lỗ đinh. Chúng cũng kéo thẳng hai chân xếp
lên nhau rồi đóng hai chân vào một lỗ bằng chiếc đinh to và dài hơn. Xương cốt
bị dãn ra, người ta có thể đếm được từng cái như Tiên Tri David đã nói. Chúng
dựng Thánh Giá lên, Chúa mới thật là đau đớn, máu xối xả chảy xuống. Trước sự
dã man không ngờ tới, dân chúng thất thanh kêu lên phản đối ầm ầm. Có người
quay đi bưng mặt khóc không dám nhìn. Trong khi các Tư Tế, các Luật Sĩ bước đi
bước lại, vừa nhạo cười vừa hãnh diện vì mình đã thắng thế. Mẹ rất đau đớn tỏ
niềm tôn kính đến tạ Chúa. Mẹ sấp mình dưới chân Thánh Giá, nài xin Cha Hằng
Hữu tỏ ra những dấu lạ hiển hách bênh vực cho danh dự của Con Mẹ. Mẹ ra lệnh
cho mặt trời, mặt trăng ngừng chuyển vận, núi non vỡ ra, mồ mả mở tung, màn
trong đền thờ xé làm đôi, mặt trời tối sầm lại và trái đất chìm vào tang chế và
mọi loài hãy tôn vinh Chúa Cứu Thế.
Nhìn các Thượng Tế, các binh lính và lũ
dân chúng, Ngài cảm thương nên cất lời: "Lạy
Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Nghe lời
ấy, một trong hai đạo tặc cùng bị đóng đanh với Ngài, tên là Dimas nhận ra tình
thương nhân hậu của Chúa, nên y tự trách mình và quở trách tên đồng bạn đã phạm
thượng. Y kêu lên: "Lạy
Chúa, xin nhớ đến tôi khi Ngài vào nước thiên đàng". Và Chúa Giêsu đã
trả lời: "Hôm nay con sẽ
được ở cùng Ta trên nơi hằng sống". Sau cuộc ban ân sủng chinh phục
đó, Chúa Giêsu thưa với Mẹ: "Thưa
Mẹ, đấy là con Mẹ". Rồi nói với Gioan: "Mẹ của con đấy". Qua
lời ấy, Gioan nhận được ánh sáng mới về những vẻ cao trọng của Mẹ, và phục vụ
Mẹ cách hoàn hảo hơn.
Khoảng 3 giờ chiều, Chúa Giêsu kêu lớn
tiếng: "Ôi Thiên Chúa,
sao Ngài bỏ Con?" Bấy
giờ Ngài nhìn thấy bao kẻ bị trầm luân, Ngài đau đớn như ở vườn Cây Dầu trong
đêm qua. Để tỏ tâm tình khát khao cho mọi người được cứu rỗi, Ngài kêu lên: "Ta Khát". Nhưng bọn
lý hình hiểu nghĩa thường, chúng lấy bọt biển thấm dấm chua cắm vào đầu cây
gậy, nâng lên tới miệng Ngài. Để làm trọn lời Tiên Tri David, Ngài nhấm một chút,
tỏ ra rằng Ngài thương số phận của những kẻ bị trầm luân.
Sau cùng Ngài ngước mắt lên trời nói lời
thứ bảy: "Lạy Cha, Con
phó linh hồn trong tay Cha". Sau lời cuối cùng này, Ngài gục đầu xuống
mà trút linh hồn. Với tư cách là Mẹ Đồng Công, Mẹ thấu hiểu tất cả những mầu
nhiệm đau khổ trong cuộc tử nạn của Chúa, là một công trình cứu chuộc vĩ đại,
Mẹ đã hoàn thành theo ý Chúa, nên Mẹ muốn cho mọi người biết bằng cách khiến
cho trời đất rung động, các tầng trời ngưng vận chuyển, núi non vỡ ra, màn trong
đền thờ xé ra làm hai, khiến nhiều người xúc động, sợ hãi, chạy toán loạn trước
biến cố lạ lùng ấy, đã nhận biết Chúa Giêsu là Đấng Thánh, là Đấng Cứu Độ muôn
dân. Phần Mẹ, Mẹ vẫn đứng bên Thánh Giá vững vàng như một cột đồng trụ, giữa
muôn lớp sóng đau khổ mãnh liệt hãi hùng. Mẹ hiểu ơn cứu chuộc của Chúa như
trong bể bao la và Mẹ càng nghĩ đến sự bội bạc của loài người, Mẹ càng đau đớn.
Niềm đau này lớn nhất trong mọi niềm đau của Mẹ.
Để chuẩn bị cho ngày mừng lễ mà không bận
tâm đến tử thi, người Do Thái đến xin Philatô cho tháo xác tử thi xuống ngay
chiều hôm ấy. Bọn lính đến đánh dập ống chân hai tử tội cho chóng chết mà tháo
xác xuống. Đến lượt Chúa Giêsu, thấy Ngài đã chết, chúng không đánh dập ống
chân nữa, nhưng một tên lính là Longinô muốn chắc Ngài đã chết thật, đã lấy
lưỡi đòng đâm vào ngực Chúa. Đòng cắm vào thấu Trái Tim Chúa, liền có nước và
máu chảy ra.
Mẹ cũng cảm nhận lưỡi đòng đâm vào lòng Mẹ
nhức nhối hơn, nhưng cảm thương Longinô, Mẹ xin Chúa tha cho anh ta. Tức thì
máu và nước từ trái tim Chúa rơi vào mắt anh ta, Longinô liền được
sáng mắt, đồng thời mắt linh hồn anh ta cũng mở ra, nhìn nhận Chúa Giêsu là
Thiên Chúa thật mà anh ta đã đả thương. Anh ta ra đi mà khóc lóc tội mình.
Lát sau, một lũ người vác thang tiến lên
núi. Đấy là ông Giuse người Arimathê và ông Nicodêmô cùng các gia nhân, họ là
thân hữu và môn đệ của Chúa. Giuse đã can đảm đến xin Philatô cho tháo xác Chúa
xuống. Đến đỉnh núi, họ phủ phục dưới chân Mẹ, tỏ lòng khiêm tốn và ý định của
mình. Mẹ cảm ơn lòng đạo hạnh của hai ông. Đoạn hai ông bắt tay vào việc tháo
xác Chúa xuống.
Hai ông đã hạ xác thánh Chúa xuống, Mẹ
cung kính quì gối đón nhận xác thân rất thánh Con Mẹ mà ẵm vào lòng. Các Thiên
Thần, Thánh Gioan và tất cả những người khác lần lượt thờ lạy Xác Thánh rất
cung kính thiết tha. Sau cùng hai ông xin phép Mẹ cho khâm liệm Xác Thánh mà an
táng. Các ông xức thuốc thơm trên mình, rồi liệm khăn lại đưa vào trong mồ. Mẹ
đau khổ theo dõi từng chi tiết nhỏ. Mẹ mời gọi các Thiên Thần từ trời xuống hợp
với các Thiên Thần hầu cận, dự lễ an táng Chúa trong mồ. Trước khi ra về các
ông vần một tảng đá lớn lấp cửa hang lại.
Lúc ấy mặt trời đã lặn, Mẹ từ núi Canvê
trở về nhà Tiệc Ly, có đoàn người đáng kính đi theo. Mẹ vào nhà với Gioan cùng
các bà phụ nữ, còn các người khác trở về nhà mình. Họ ra về với lòng tràn ngập
ân sủng và cảm động vì đức khiêm nhu của Mẹ. Nhớ lại lời Chúa hứa trước là Ngài
sẽ sống lại 3 ngày sau khi chết, họ xin Philatô cho đặt lính canh mồ Chúa.
Nhưng sự đề phòng nham hiểm của họ chỉ làm vững vàng thêm cho phép lạ lẫy lừng
Phục Sinh mà Chúa đã báo trước.
Trong nhà Tiệc Ly, Mẹ cùng các phụ nữ đàm
đạo. Mẹ cám ơn họ đã đi theo Mẹ suốt cuộc Tử Nạn của Chúa. Đoạn Mẹ giục họ đi
ăn uống nghỉ ngơi, còn Mẹ vào trong phòng ẩn dật chờ Con Chí Thánh của Mẹ sống
lại. Suốt đêm đó Mẹ thức trắng để chiêm niệm cuộc đời. Mẹ vừa tôn vinh Chúa vừa
mặc cho tình yêu đổ dào dạt trên Mẹ. Mẹ xin Thánh Gioan đi tìm các môn đệ khác
về. Ra khỏi nhà Gioan gặp Phêrô trước nhất. Ông đi ra từ hang ông đã ẩn, để
khóc lóc tội mình đã chối Thầy. Khi gặp Mẹ ông sấp mình dưới chân Mẹ mà đau đớn
xin Mẹ tha tội. Được Mẹ an ủi, ông vững mạnh trong niềm vui hy vọng. Dần dần
các ông khác cũng về gặp Mẹ trong hối hận tha thiết. Mẹ lấy cơ hội ấy củng cố đức
tin và nhóm thêm lửa yêu mến trong lòng các ông.
Buổi tối, Mẹ tạm biệt các ông lui vào
phòng riêng mà suy niệm những việc Con Chí Thánh Mẹ làm từ khi lìa khỏi xác.
Chúa Giêsu xuống ngục Tổ Tông. Linh hồn những bậc công chính được thấy Thần
Tính Chúa, được hạnh phúc thiên đàng, nên hát lên nhiều bài ca chúc tụng Chúa
Cứu Thế. Hôm ấy cũng là ngày kinh hoàng cho hỏa ngục. Ma quỉ rụng rời hoảng
hốt, chen nhau chui rúc vào hang thẳm, chịu khổ hình nhục nhã đau đớn. Mẹ được
biết rõ những mầu nhiệm ấy, Mẹ cảm thấy một nguồn vui khôn tả. Mẹ dâng lên Chúa
những lời tán tạ không nguôi.
Vào 3 giờ sáng ngày Chúa Nhật, Linh Hồn
Rất Thánh Chúa Giêsu vinh hiển trở lại mồ đá, theo sau là đoàn tháp tùng các
Thần Thánh vừa được giải thoát khỏi ngục Tổ. Trong mồ cũng có rất nhiều các
Thiên Thần canh giữ, để tôn kính Xác Thánh Chúa. Linh hồn Chúa Giêsu lại hợp
nhất với Xác Ngài, làm cho sống động và mặc thêm cho một vinh quang bất tử. Ánh
ngời sáng của thân xác vinh hiển của Chúa, vượt cao trên hết các xác thể vinh
hiển khác, như ngày vượt trên đêm. Tính bất cảm thụ làm cho thân xác Chúa vượt
bỏ tất cả những gì biến đổi. Tính linh mẫn thanh luyện khỏi hết những gì phàm
tục, làm cho xác nên giống như Thiên Thần, thấu nhập vào được hết mọi vật thể
khác, mà không gì ngăn cản nổi. Các vết đinh ở tay chân vẫn còn, và sáng láng
rạng rỡ, tăng thêm vẻ đẹp cho toàn thân lên một cách kỳ thú, như một nét đặc
sắc lạ lùng nhất. Chúa Giêsu ra khỏi mồ rực rỡ với tất cả tráng lệ và huy
hoàng, Chúa hứa cho loài người cũng được sống lại như hiệu quả cuộc phục sinh
của Ngài, và hứa cho người công chính sau này cũng được vinh quang nơi thân xác
như vậy. Nơi căn phòng ẩn dật tại nhà Tiệc Ly, Mẹ thấu triệt hết những sự lạ
lùng ấy, và Mẹ tham dự vào tất cả qua một thị kiến đặc biệt. Thân xác Mẹ được hưởng
nguồn vui từ linh hồn Mẹ thông sang, vào chính lúc Linh Hồn Chúa hợp nhất với
Thân Xác Ngài. Tức thì Mẹ thoát khỏi mọi buồn khổ và biến sang một niềm vui
thiên giới.
Chúa Giêsu vào phòng Mẹ với cả đoàn Thiên
Thần vinh hiển. Mẹ phủ phục xuống thờ lạy rất thẳm sâu. Chúa nâng Mẹ dậy và ban
tặng Mẹ một ân huệ mà nếu không có Chúa tăng sức cho thì Mẹ ngất lịm. Ân huệ đó
là Thân Xác vinh hiển của Chúa thấm nhập vào thân xác rất trinh sáng trong ngời
của Mẹ, làm cho trở nên hoàn toàn thấu suốt như một trái cầu pha lê chứa đựng
toàn thể mặt trời. Ân huệ rất phi thường này nâng Mẹ lên chiêm niệm những mầu
nhiệm tuyệt vời cao cả.
Sau khi đã lãnh những ân huệ đó, Mẹ truyện
trò với Các Thánh đi theo Chúa Giêsu. Mẹ vừa nhận ra các vị ấy, vừa ca tụng
Thiên Chúa vì ơn này. Mẹ hàn huyên với Thánh Giuse, Gioakim, Anna và Thánh
Gioan Tẩy Giả, Tổ Phụ Adong và Eva. Các vị đều phủ phục dưới chân Mẹ với niềm
tôn kính là Mẹ Đấng Cứu Thế. Sau cuộc tiếp xúc đó, Mẹ mời các vị cùng ca lên
những khúc hát tôn vinh Thiên Chúa, Đấng chiến thắng tội lỗi, sự chết và hỏa
ngục.
Sau cuộc thăm viếng Mẹ, Ngài hiện ra trước
hết với Maria Madalena, sau đó với các bạn hữu của bà. Mãi sau Chúa mới hiện ra
với Phêrô, với hai môn đệ làng Emmau là Luca và Clêôpha. Ít lâu sau lại hiện ra
với các Tông Đồ tụ họp với nhau trong nhà. Chúa cũng đã hiện ra với Tôma nữa.
Mẹ còn biết rõ những cuộc hiện ra khác nữa của Con Chí Thánh Mẹ. Mẹ rất là hạnh
phúc, vì Chúa vẫn ở lại với Mẹ trong nhà Tiệc Ly cho tới ngày Ngài về trời.
Ngài cũng tụ họp cả 120 người, trong số đó
có 11 Tông Đồ, 72 môn đệ và các vị khác, khuyên giải nhiều điều trước khi Ngài
về trời. Sau cùng, tới giờ Chúa phải về trời, Ngài cùng với 120 người ra khỏi
nhà Tiệc Ly, đi qua thành phố Giêrusalem, qua Bêtania rồi lên núi Cây Dầu. Tới
nơi, đoàn người vây quanh Chúa. Mẹ sấp mình thờ lạy Chúa và xin Chúa ban phép
lành lần cuối cùng. Sau khi đã nói lời cuối cùng, Chúa Giêsu chắp tay lại tỏ vẻ
uy nghiêm lộng lẫy, rồi bắt đầu tự nâng mình lên cao khỏi đất, để lại hai vết
chân thánh của Ngài trên đá. Các môn đệ say sưa nhìn ngắm trong mê man. Một đám
mây trắng đến che khuất Chúa khỏi tầm mắt họ. Các Thiên Thần từ giã Mẹ để về
trời. Các vị chúc mừng trái đất vì có Mẹ là Đấng Nữ Vương của các vị cùng
ở.
Mẹ trở về nhà Tiệc Ly với tư cách là người
thay Con Mẹ trong Giáo Hội mới. Mẹ trở về tràn ngập những ân sủng cao vời để
thi hành chức vụ. Mẹ chuẩn bị tâm hồn cho các Tông Đồ lãnh nhận ơn Chúa Thánh
Thần. Mẹ an ủi họ, hàng ngày Mẹ dành thì giờ để giải thích cho họ về các mầu
nhiệm đức tin, dạy họ cách cầu nguyện và đọc Thánh Vịnh. Chiều về, dùng bữa với
một chút bánh và cá khô, ngủ cũng ít, để trong những ngày chay tịnh và cầu
nguyện, họ sốt sáng dọn mình lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần.
Khi tuần tĩnh tâm chấm dứt, Thiên Chúa báo
cho Mẹ biết phải tìm một vị Tông Đồ bù vào chỗ của Giuda cho đủ số. Mẹ chuyển
lệnh cho 11 Tông Đồ đang hội họp tại nhà Tiệc Ly. Các vị xin Mẹ tự ý đặt, nhưng
với trí năng khôn ngoan và sâu sắc, Mẹ hiểu chính vị nguyên thủ Giáo Hội phải
lo việc ấy mới hợp lẽ. Nên Mẹ nói với Phêrô tổ chức cuộc tuyển chọn. Phêrô viết
hai tên Giuse và Mathia bỏ vào một cái bình, rồi mọi người cầu nguyện và bốc
thăm. Phêrô rút thăm được Mathia, tức thì mọi người đều hân hoan nhìn nhận ông
là Tông Đồ. Các vị kia ôm hôn chúc mừng rồi mọi người ý hiệp tâm đầu cầu nguyện
xin Chúa Thánh Thần ngự đến.
Chín giờ sáng hôm sau, bỗng dưng nghe thấy
từ trên trời vang xuống như tiếng sấm sét, và một hơi gió mạnh có chen lẫn
những chớp sáng lòa. Hiện tượng ấy bùng ra trên nhà Tiệc Ly. Rồi ánh sáng tràn
vào đầy nhà, lửa Thần Linh chan đổ trên đầu từng người có mặt tại đó, với hình
một lưỡi lửa. Đó chính là Thánh Linh ngự trên họ. Tất cả mọi người đều cảm thấy
hậu quả của Chúa Thánh Linh hiện xuống một cách lạ lùng, nhưng không ai tuyệt
diệu như Mẹ. Mẹ hoàn toàn ngây ngất, được lên tới tận lòng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúa đổi mới tất cả các hồng ân đã ban cho Mẹ từ trước. Mẹ tán dương tạ ơn Chúa
trong vinh quang chói ngời.
Các Tông Đồ được tràn đầy Thánh Thần, đầy
khôn ngoan, hiểu biết, minh luận, đạo đức, lo liệu, sức mạnh và kính sợ Thiên
Chúa. Các ông bắt đầu ngay vào việc thiết lập Giáo Hội và vui mừng thực hiện
việc giảng dạy. Cả những môn đệ không có mặt ở nhà Tiệc Ly lúc ấy, cũng được
phúc thông phần những ân sủng này.
Toàn dân Giêrusalem đều xúc động trước
những việc xẩy ra ở nhà Tiệc Ly. Một số đông người ngoại quốc ùn ùn kéo đến
nghe các Tông Đồ giảng dạy. Mẹ sấp mình xin Chúa cho mọi người trở lại. Kết quả
thật đáng lạ lùng. Các Tông Đồ chỉ giảng bằng tiếng Do Thái mà thính giả nghe
ra tiếng nước mình. Phép lạ bất ngờ và sự can đảm của các Tông Đồ trước đó thật
yếu hèn, nhất là hiệu năng ân sủng đã kích động họ sốt sắng gia nhập Giáo Hội
mới. Nhưng cũng có người không tin, nổi giận
với các Tông Đồ và coi các vị là phường say rượu.
Trong tuần tám ngày sau khi Chúa Thánh
Thần ngự xuống, các Tông Đồ cứ tiếp tục nói tiếng mọi nước, làm nhiều phép lạ
mà khuyên dụ nhiều người trở lại. Cả thành phố Giêrusalem nhôn nhao lên, đâu
đâu người ta cũng nghe nói đến những việc lạ lùng ấy. Cả ngoài thành người ta
cũng vào thành để chứng kiến. Lúc trở về không những họ được ơn lạ chữa bệnh
phần xác mà lành cả bệnh linh hồn nữa. Số tín hữu mỗi ngày một tăng thêm. Đức
tin của họ thật sống động và đức mến thật nhiệt thành. Họ theo gương Thầy Chí
Thánh sống đời trong sạch, đơn giản, khiêm nhu và cầu nguyện, chỉ lo đến phần
rỗi đời đời thôi. Họ bỏ của cải làm của chung. Giáo Hội lúc này thật hạnh
phúc.
Giáo Hội khởi đầu thành lập được hưởng
bình an hưng thịnh trong một thời gian dưới sự hướng dẫn của Mẹ. Một hôm Mẹ
dâng lên Chúa cả mạng sống Mẹ và cả đoàn chiên nhỏ Chúa trao cho Mẹ và xin ơn
gìn giữ chúng. Chúa Giêsu trả lời Mẹ: "Giáo
Hội Con thành lập phải theo vết chân Con, do đó phải đi trên đường khổ giá.
Giáo Hội phải chịu nhiều sự bách hại". Mẹ biết được ý Chúa nên sấp
mình suy phục và chỉ cầu nguyện cho Giáo Hội được phát triển theo thánh ý Chúa.
Hồi đó, Thánh Phêrô và Thánh Gioan vừa
chữa lành cho một người bất toại ở cửa đền thờ, các Tư Tế liền cho điệu hai
ngài đến hạch hỏi và cấm không được nói đến danh hiệu Giêsu nữa rồi thả cho về.
Các ngài về thuật lại cho Mẹ, tưởng rằng Mẹ chưa biết. Mẹ cầu nguyện cho các
ông được tinh tấn thêm lên. Lần khác nhân vụ vợ chồng Anania và Saphira hà
tiện, bị ma quỉ cám dỗ, chừa lại một phần tiền bán gia sản, không nộp cho Giáo
Hội. Khi Thánh Phêrô tỏ cho họ biết sự gian dối, họ liền ngã chết dưới chân
ngài. Hình phạt khủng khiếp đó làm náo động toàn thể dân thành. Các quan chức
bèn bắt giam các ngài. Được ánh sáng Chúa ban, Mẹ thấy áp lực của ma quỉ, liền
sấp mình giang tay xin Chúa thương cứu thoát các ông, để các ông hoạt động cho
Giáo Hội. Được Chúa chấp nhận, Mẹ sai Thiên Thần vào tù cứu hai vị Tông Đồ ra.
Các ngài lại tiếp tục đi giảng, rồi lại bị giam lần nữa. Lần này Mẹ không lo
cứu các ngài bằng phép lạ nữa. Mẹ sai các Thiên Thần đến dinh quan và các Tư
Tế, xua đuổi ma quỉ ra khỏi họ và gợi cho họ những tư tưởng khoan dung, công
bằng với hai Tông Đồ. Nhờ sự can thiệp đó mà Tiến Sĩ Luật Gamaliel lên tiếng
trong hội đồng, khiến các quan chức cho điệu hai Tông Đồ vào nơi hội nghị,
truyền đánh đòn rồi tha về.
Gioan và Phêrô vui mừng vì đã được chịu xỉ
nhục vì danh Chúa Giêsu, các ngài về thuật lại mọi biến cố đó cho Mẹ nghe. Mẹ
tiếp đón các ngài với hết tình từ mẫu úy lạo. Không phải Mẹ chỉ nâng đỡ các
ngài ở Giêrusalem mà thôi, nhưng bất cứ chỗ nào các ngài đến, đều có Mẹ theo
giúp, bằng lời cầu nguyện và bằng ánh nhìn trong tâm hồn. Hễ thấy các ngài bị
lâm khổ là Mẹ sai Thiên Thần đến an ủi và xua đuổi ma qủi đang bách hại các
ngài. Mẹ cũng săn sóc các giáo hữu nữa. Mẹ cứu trợ họ trong những nhu cầu hồn
xác: Chữa lành bệnh tật, thăm viếng, an ủi và mang tặng họ những gì họ
cần.
Khi Chúa Giêsu trao quyền chỉ đạo Giáo Hội
cho Mẹ, Ngài cũng thông cho Mẹ một tri thức cân xứng với chức vụ ấy. Không
những Mẹ nhận biết tất cả các tin hữu, mà còn biết tất cả các công việc họ làm,
nên Mẹ cư xử với họ rất công bằng. Mẹ để các Tông Đồ toàn quyền chỉ đạo, Mẹ chỉ
cầu nguyện xin Chúa ban ơn soi sáng và chỉ dẫn các ngài, vì các ngài thường đến
học hỏi nơi sự khôn ngoan thần linh của Mẹ.
Một trong những người Mẹ đặc biệt âu yếm
là Thánh Stêphanô, một trong 7 vị Phó Tế đầu tiên. Ông có tâm hồn khiêm nhượng,
hiền hòa và trong sạch. Ông nuôi chí quả cảm vô địch, dám tranh luận với các
Luật Sĩ Do Thái thông minh, và nói thẳng với họ là mình khát khao được chết vì
Chúa. Ông là người đầu tiên chịu tử vì đạo. Sau cái chết của Stêphanô, cuộc
bách đạo bùng lên dữ dội. Mẹ củng cố các Tông Đồ và khuyên họ tản ra khắp xứ
Giuđê. Khi họ gặp thử thách, Mẹ sai Thiên Thần đến cứu trợ, khuyến khích họ và
đem họ đi như trường hợp Thầy Phó Tế Philiphê trên dải Gaza. Những ai nguy tử
Mẹ sai Thiên Thần đến giúp và không quên họ khi họ đã xuống luyện ngục. Mẹ săn
sóc cho từng nhu cầu, lo lắng đến từng hoàn cảnh. Mẹ hành động cách tràn đầy
khôn ngoan thánh thiện, hiền từ và nghiêm nghị tùy từng trường hợp.
Mẹ nghĩ đã đến lúc phải có một bản tổng
yếu về đức tin, để mọi tín hữu có thể học hỏi và Giáo Hội vững lòng tin giữ,
nên Mẹ đã cầu nguyện, ăn chay 40 ngày để chuẩn bị. Chúa hiện đến cho Mẹ biết:
Không những Chúa hứa trợ lực các Tông Đồ trong việc soạn thảo kinh Tin Kính, mà
còn mạc khải cho Mẹ biết từng lời của Tín Biểu ấy nữa. Chúa muốn Mẹ phải khiêm
nhường chịu nhận việc dành cho Mẹ một khoản trong kinh ấy cách rất hiển vinh.
Chúa lại ban cho Mẹ nhiều ơn mới và chúc lành cho Mẹ rồi Chúa về trời.
Từ trên trời Chúa soi sáng cho Thánh Phêrô
và các Tông Đồ ý định cùng nhau làm một bản Tín Biểu. Các Ngài bàn luận với Mẹ
và hợp lòng ăn chay cầu nguyện trong 10 ngày để chuẩn bị. Tới ngày đó mọi người
tụ họp trong phòng, cử hành Thánh Lễ, Mẹ cùng các Tông Đồ đều hiệp lễ, rồi tất
cả cùng cầu nguyện xin Thánh Linh soi sáng. Một lúc sau nghe có tiếng động lớn,
nhà Tiệc Ly rực sáng và mọi người đều được ơn Chúa Thánh Thần. Bấy giờ Mẹ mời
các Tông Đồ đọc lên một khoản phải tin, theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Bắt
đầu từ Thánh Phêrô rồi đến các Tông Đồ khác. Bản Tuyên Tín như sau:
Thánh Phêrô: "Tôi tin kính một Thiên Chúa,
là Cha toàn năng. Đấng tạo thành trời đất".
Thánh Anrê: "Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô,
Con một Thiên Chúa, Chúa chúng tôi".
Thánh Giacôbê Trưởng: "Bởi phép Chúa Thánh Thần,
Người chịu thai, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria".
Thánh Gioan: "Người chịu nạn đời Phongxiô
Philatô, chịu đóng đanh vào Thập Gía, chịu chết và chịu mai táng".
Thánh Tôma: "Người xuống ngục Tổ Tông và
ngày thứ ba Người sống lại từ cõi chết".
Thánh Giacôbê Thứ: "Người lên trời, ngự bên hữu
Thiên Chúa toàn năng".
Thánh Philiphê: "Và Người sẽ phán xét kẻ sống
và kẻ chết".
Thánh Batôlômêô: "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh
Thần".
Thánh Mathêu: "Tôi tin Giáo Hội Công Giáo,
Các Thánh hiệp thông".
Thánh Simon: "Tôi tin phép Tha Tội".
Thánh Tađêô: "Tôi tin xác thể sống
lại".
Thánh Mathia: "Tôi tin sự sống đời đời.
Amen".
Kinh Tin Kính vừa làm xong, Thánh Thần
chuẩn y qua lời nói: "Các
con đã định tín rất đúng". Tất cả mọi người đều cảm tạ Thiên Chúa. Còn
Mẹ, Mẹ đến quì dưới chân Thánh Phêrô mà tuyên nhận các chân lý các Tông Đồ vừa
định tín, rồi Mẹ hôn kính tay Ngài. Sau đó Mẹ cho sao ra nhiều bản và nhờ các
môn đệ đem chia cho các nơi. Chúa Thánh Thần đã làm nhiều phép lạ khi bản tuyên
xưng này được đọc lên.
Một năm trôi qua kể từ khi Chúa Giêsu chịu
chết, các Tông Đồ được ơn Chúa soi sáng, quyết định đi rao giảng khắp thế giới.
Để biết mỗi vị phải đi xứ nào, các ngài đã nghe lời khuyên của Mẹ là hợp lòng
ăn chay cầu nguyện trong suốt 10 ngày liên tiếp, để xin Chúa chỉ định. Sau
những ngày cầu nguyện, một ánh sáng hiện xuống trong nhà Tiệc Ly, bao phủ mọi
người và có tiếng phán rằng: "Vị
đại diện của Thầy chỉ cho mỗi người những địa phương thuộc về phần mình. Thầy
sẽ ban ơn Thánh Linh soi sáng cho". Phêrô liền chia thế giới thành các
phần như sau: Ngài nhận các xứ Pongtiô, Galatia, Bitinia, Capađocia, Antiôkia
và Roma nơi đế đô của Giáo Hội hoàn cầu. Thánh Anrê đi xứ Sythia, Epina, Tracia
và Ahai. Thánh Giacôbê đi xứ Giuđê, Samari và Tây Ban Nha. Thánh Gioan ở lại
với Mẹ tại Giêrusalem và khi Mẹ lên trời sẽ đi Tiểu Á. Thánh Tôma sang Persia.
Thánh Giacôbê Thứ ở lại Giêrusalem. Thánh Philiphê giảng cho xứ Prysia và
Sythia. Thánh Bartolômêô đem tin mừng cho xứ Lycaoni, Ấn độ và Tiểu Amêni.
Thánh Mathêu đi Ai Cập và Ethiôpi. Thánh Simon cũng đi Ai Cập và Ba Tư. Thánh
Tađêô sang Mesopotania, Babylon và Persia. Sau cùng Thánh Mathia đi Ethiôpi, A
rập và Palestina.
Phêrô vừa công bố xong thì nhà Tiệc Ly
vang lên một tiếng động lớn, tràn đầy ánh sáng, mọi người đều nghe thấy tiếng
êm ả: "Mỗi người hãy nhận
lấy phần mình". Mọi người đều phủ phục tỏ một niềm hoan hỉ nhận phần
mình, lại được ơn nhận biết đầy đủ về địa phương mình rao giảng, các ngài mau
lẹ đi khắp các xứ và được Thiên Chúa ở cùng. Mẹ được Chúa cho tri thức vượt
trên các Tông Đồ, lại còn nhìn thấy các đau khổ mà các ngài phải chịu nữa.
Sau khi các ngài phân tán, Chúa quan phòng
lại ban tiếp cho các ngài một vị tông đồ nữa. Ngài là một người thông minh, có
trí khôn sắc sảo, tâm hồn quảng đại và tính tình cương nghị. Thanh niên đó là
Saulô, ông đã từng tham dự vào việc giết Stêphanô. Thấy con người sắc sảo sẽ
đem lại nhiều ích lợi cho Giáo Hội, Mẹ xin Chúa biến đổi lòng ông. Chúa nhận
lời và kéo ông trở lại. Chúa rất mãn nguyện, vì ông là khí dụng ưu tuyển của
Hội Thánh.
Sau khi Thánh Phaolô trở lại, ma quỉ căm
phẫn vùng lên khát vọng báo thù các tín hữu, nhất là Mẹ. Chúng định một phen
quyết chiến ghê gớm. Mẹ thấy rõ những ý định đen tối của chúng, nhưng Chúa
không cho phép, nó chẳng làm gì được. Lúc ấy Mẹ xuất thần và được các Thiên
Thần đưa lên trước ngai tòa Chúa Ba Ngôi. Mẹ sấp mình thờ lạy Chúa và khấn dâng
mình cho Chúa, để chịu mọi đau khổ của Giáo Hội thay cho các Tông Đồ. Chúa Ba
Ngôi hoan hỉ nhậm lời, và ban cho Mẹ nhiều ơn mới để chiến đấu và chúc lành cho
Mẹ. Các Thiên Thần lại đem Mẹ về phòng nguyện tại nhà Tiệc Ly. Sau cơn xuất
thần Mẹ sấp mình cảm tạ Thiên Chúa vì những ân huệ Chúa đã ban cho Mẹ.
Mẹ nghĩ, nên báo tin cho các Tông Đồ và
môn đệ biết những gian nan thử thách các ngài sắp phải chịu. Chính Mẹ loan báo
cho Thánh Phêrô, cho Thánh Gioan và các Tông Đồ khác ở Giêrusalem. Những vị ở
xa Mẹ sai các Thiên Thần đến báo tin. Tất cả đều đầy tri ân, hoan hỉ và can đảm
đoan hứa sẵn sàng chịu chết cho vinh danh Chúa. Sau này để củng cố đức tin cho
các Tông Đồ, Mẹ cũng thân hành đến Saragôxa, Tây Ban Nha, sang Ephêsô và cả
Giêrusalem nữa. Xong việc Mẹ lại trở về nhà Tiệc Ly.
Khi Mẹ được rước lên thiên đàng vào ngày
Chúa Giêsu lên trời, Thiên Chúa ban cho Mẹ tri thức rất vững vàng về tất cả
những mầu nhiệm của lề luật mới, cũng như về Phúc Âm và các Sách Thánh sẽ dùng
vào việc thiết lập bộ Luật Mới ấy. Ngay từ những ngày đó, Mẹ đã cầu xin Chúa
soi sáng cho các Thánh Ký viết Phúc Âm. Thánh Phêrô đã chỉ định Thánh Mathêu
viết Tim Mừng trước hết, về cuộc đời Chúa Cứu Thế. Thánh Marcô thứ hai, Thánh
Luca thứ ba, Thánh Gioan thứ bốn. Sau mấy ngày Thánh Mathêu quyết định khởi đầu
viết Phúc Âm. Ngài vào phòng cầu nguyện xin ơn trợ lực. Mẹ cũng xuất hiện để
giúp ngài hoàn thành bố cục. Hồi ấy là năm 42 sau khi Chúa Giêsu giáng sinh.
Bốn năm sau, trong khi đang ở Palestina,
Thánh Marcô cũng viết Phúc Âm mà ngài dự định. Mẹ cũng được rước đến nơi Thánh
Ký ở và giúp ngài như đã giúp Mathêu. Thánh Linh hiện xuống trên ngài giữa huy
hoàng lộng lẫy. Ngài bắt đầu viết Phúc Âm với sự săn sóc của Mẹ.
Cách hai năm sau đó, đến lượt Thánh Luca
quyết định viết Tin Mừng của Chúa theo như Thánh Phêrô đã phân công. Lúc đó
ngài đang ở xứ Ahai thuộc xứ Hy Lạp. Mẹ cũng hiện đến với ngài. Ngài trình bày
với Mẹ về nhận xét, đã đến lúc phải trình bày nhiều về Mẹ. Mẹ chấp thuận. Vì
thế, Phúc Âm theo Thánh Luca nói nhiều về mầu nhiệm này hơn hai Thánh Ký trước.
Sau cùng, mãi 10 năm sau, tức là vào năm
58 Thánh Gioan mới viết hạnh tích Con Chí Thánh Mẹ, trong đó ngài trình bày
nhiều về Thần Tính của Chúa, về những mầu nhiệm về Mẹ mà ngài chưa tiết lộ.
Mẹ luôn đem hết tình mẫu tử ân cần lo lắng
đến Giáo Hội, và mỗi ngày mở rộng các cuộc chinh phục trên khắp thế giới. Mẹ
đặc biệt săn sóc đến các nhu cầu tinh thần của các Tông Đồ, mau mắn cứu giúp các
ngài khỏi lao tù, dẫn đưa các ngài trên đường hành trình, cũng như đem các ngài
từ nơi này tới nơi khác. Tắt một lời, Mẹ hoạt động nơi tất cả các ngài.
Mẹ trợ giúp Thánh Phêrô là vị nguyên thủ
Giáo Hội các riêng. Khi lập tông tòa ở Antiôkia, ngài phải ưu tư nhiều, Mẹ hiện
đến thăm và đàm đạo thân mật với ngài, để giải thoát các mối ưu tư. Khi thành
lập Tông Tòa hẳn ở Rôma như Chúa truyền dạy, Mẹ lại hiện đến và khuyên nhủ
nhiều điều. Thánh Phêrô quyết định mừng các ngày Chúa nhật, và mừng các lễ kính
nhớ của Chúa như lễ Lên Trời, lễ Hiển Linh và nhiều tục lệ khác mà Giáo Hội vẫn
giữ từ ngày đó.
Mẹ đã tới 67 tuổi, mà Mẹ vẫn chưa nghỉ
hoạt động và yêu mến. Thiên Chúa đặc phái Tổng Thần Gabriel đến gặp Mẹ, để báo
tin cuộc lưu đầy của Mẹ sắp chấm dứt. Mẹ chỉ còn được ở trần gian 3 năm nữa.
Hết hạn đó, Mẹ sẽ lên hưởng phúc vĩnh cửu trên trời. Mẹ chìm sâu xuống vực thẳm
hư vô trả lời Sứ Thần: "Này
nữ tỳ Chúa đây, xin cứ thể hiện cho tôi theo lời Sứ Thần truyền". Sau
đó, Mẹ xin các Thiên Thần giúp Mẹ sửa soạn từ giã cõi trần.
Khi ở một mình, Mẹ rơi lệ vì hân hoan và
hôn đất tạ ơn Chúa, đã dung dưỡng Mẹ một thời gian thật lâu ở dưới thế. Mẹ lại
viết thư cho các Tông Đồ và môn đệ, phấn khích các vị chủ chăn lo cho thế giới
bằng những bằng chứng nhiệt tâm nhất. Trước bao nhiêu than tiếc, bao nhiêu lệ
thảm, tâm hồn Mẹ rất xúc động. Mẹ xin ân sủng Chúa đổ tràn trề trên Giáo Hội
cũng như đông đảo các giáo hữu. Mẹ xin Thánh Gioan dẫn Mẹ đi thăm viếng lại
những nơi thánh một lần cuối. Mẹ dừng lại rất lâu ở những nơi thánh ấy, để suy
niệm và hôn kính những dấu tích cực thánh ấy lần cuối.
Trước khi về trời, Mẹ viết một chúc thư
dài để lại cho Giáo Hội mà sau đây là vài nét chính: "Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Con
là một con sâu đất hèn hạ, Con thờ lạy và tôn vinh Ba Ngôi Thiên Chúa. Con xin
tạ ơn tất cả thụ tạo, vì đã vâng ý Chúa mà phục vụ Con. Con ước mong mọi thụ
tạo đều ca tụng Chúa và cung cấp nhu cầu cho loài người được tồn tại. Con để
lại cho Gioan con yêu dấu, hai chiếc áo ngắn và một khăn con dùng. Con xin cho
đất nhận lấy xác Con, vì đất là mẹ chung của mọi người. Con xin phó linh hồn
Con trong tay Chúa, để nó mến yêu và tôn kính Chúa đời đời. Và xin trối lại cho
Giáo Hội tất cả những kho tàng con đã nhờ ơn Chúa mà thu kiếm được. Con xin
dâng tất cả các linh mục có mặt tại đây và mai sau, cho những người sùng kính
con. Và sau cùng, cho tội nhân được trở lại, những tội nhân mà bao lâu vũ trụ
còn tồn tại, Con sẽ còn cầu xin cho chúng trước mặt Chúa".
Chúa đã chấp nhận chúc thư này bằng lời: "Hãy thể hiện điều Mẹ mong
muốn và ban lệnh". Chúa lại sai các Thiên Thần đi báo tin cho các Tông
Đồ và môn đệ trở về nhà Tiệc Ly.
Ba ngày trước khi Mẹ từ trần, các Tông Đồ
và Môn Đệ đã tụ họp đông đủ tại Giêrusalem trong mái ấm nhà Tiệc Ly. Phêrô đến
trước nhất, đến Phaolô rồi đến các Tông Đồ khác. Mẹ tiếp đón các ngài bằng một
tình thương hiền ái, Mẹ xin các vị ban phép lành trong xúc động. Mẹ từ giã từng
Môn Đệ, từng Tông Đồ và chung tất cả những người tham dự, rồi Mẹ đứng lên và
nói với các Tông Đồ rằng: "Hỡi
các con yêu dấu, các con là Thầy của Mẹ, Mẹ thiết tha yêu thương các con trong
Con Chí Thánh của Mẹ. Theo ý Người, Mẹ sắp sửa về trời, nhưng ở đó, Mẹ hứa sẽ
ấp ủ các con trong Trái Tim Mẹ như một người Mẹ. Xin các con hãy cố gắng làm
vinh danh Chúa và truyền bá đức tin. Các con hãy giữ lời Con Chí Thánh Mẹ, hãy
tưởng niệm cuộc sống và cái chết của Người, hãy thực hành giáo lý của Người,
hãy yêu mến Giáo Hội. Các con hãy yêu thương nhau trong mối dây Đức Ái hòa
thuận. Còn con, hỡi Phêrô, Mẹ xin trao phó cho con Gioan và tất cả mọi
người".
Lời đó như mũi tên lửa xuyên cắm vào tâm
hồn mỗi người hiện diện. Ai cũng tê tái đau khổ trào lệ xuống tay Mẹ yêu dấu
của mình. Một lúc sau Mẹ khuyên mọi người im lặng cầu nguyện với Mẹ. Nhà Tiệc
Ly ngập đầy hương thơm thiên quốc. Một ánh sáng chói lọi từ nhà phát ra, ai ai
cũng nhìn thấy. Mẹ cúi mình trên chiếc sập gỗ nhỏ, chắp tay lại, mắt nhìn cắm
vào Chúa Giêsu, Trái Tim Mẹ cháy bừng lên trong tình yêu mến Chúa. Các Thiên
Thần hát lên những bản tình ca diễm lệ. Mẹ thốt lên lời cuối cùng của Chúa
Giêsu trên cây thánh giá: "Con
phó linh hồn con trong tay Chúa". Mẹ nhắn mắt, tắt thở. Mẹ đã tắt thở
vì tình yêu Chúa mãnh liệt, không còn phép lạ nào ngăn cản nữa, nên đã phá vỡ
những ràng buộc của thân xác, chứ không phải một suy nhược bệnh tật hay tai nạn
nào. Mẹ sống nhờ phép lạ. Phép lạ ngừng, Mẹ đi vào cõi chết.
Linh Hồn nguyên tuyền của Mẹ từ giã Thân
Xác Trinh Vẹn của Mẹ, Ngay lúc đó, Mẹ được tôn lên ngai trong một vinh quang
khôn tả. Tại nhà Tiệc Ly, mọi người được nghe tiếng nhạc thiên quốc xa dần
trong không gian. Đoàn Thần Thánh tháp tùng đã đi theo Chúa Giêsu và Mẹ lên
trời .
Thân xác Mẹ là cung thánh của Thiên Chúa
ngự trị, mặc một vẻ lộng lẫy chói ngời, và tỏa hương thơm thanh thoát. Các Tông
Đồ buồn nhưng thanh thoát hân hoan trước những sự việc lạ lùng vô song ấy. Tất
cả đều như ngất ngây một lúc dài, rồi mới bắt đầu hát lên được bài thánh ca
mừng Mẹ. Mẹ qua đời vào ngày thứ sáu, lúc 3 giờ chiều, ngày 13 tháng 8 năm 55
sau Chúa Giáng Sinh. Năm ấy Mẹ được 70 tuổi kém 16 ngày.
Các Tông Đồ lấy áo quan đem vào bên giường
Mẹ. Hai ngài kính cẩn nương nhẹ thi thể Mẹ đặt vào áo quan. Ánh ngời chói giảm
đi mãi cho tới lúc mọi người nhìn thấy gương mặt Mẹ và đôi tay. Các Tông Đồ
khiêng Xác Thánh Mẹ qua phố Giêrusalem đến mồ. Có hàng ngàn vạn các Thiên Thần
từ trời xuống đưa xác Mẹ. Thánh Phêrô và Gioan đặt Xác Thánh Mẹ vào mồ, với
niềm tin kính và dễ dàng như khi đặt vào áo quan. Các ngài lăn tảng đá lớn lấp
cửa mồ theo phong tục. Lễ an táng xong, Các Thánh trở về trời, nhưng các Thiên
Thần hầu cận vẫn còn ở lại tiếp tục tấu nhạc cho tới khi dân chúng giải tán
hết.
Linh hồn rất thánh Mẹ đã hưởng phúc thiên
đàng được 3 ngày, Thiên Chúa tỏ cho các Thần Thánh biết quyết định hằng hữu của
Ngài, là phục sinh cho Xác Thể đáng kính của Mẹ. Tới lúc đó, Chúa Giêsu từ trời
đem linh hồn Mẹ xuống mồ thánh của Mẹ, giữa muôn vàn Thiên Thần, các thánh và
các Tổ Phụ, các Tiên Tri. Đến mồ thánh, Chúa phán: "Mẹ của Cha đã được dựng thai
Vô Nhiễm, Cha đã mặc lấy Nhân
Tính từ nơi bản thể vô nhiễm ấy. Thể Xác Cha là Thể Xác của Mẹ. Mẹ cũng đã đồng
công vào mọi công trình cứu chuộc của Cha, nên Cha phải phục sinh cho Mẹ để Mẹ
nên giống Cha mọi sự". Toàn
thể Các Thánh đều ca tụng, tán dương trước lời công bố của Chúa. Tức thì linh
hồn vinh hiển của Mẹ vào lại thân xác đồng trinh của Mẹ, trả lại sự sống và tất
cả mỹ lệ cho thân xác ấy mà không hề chạm đến tảng đá che cửa mồ. Hôm đó là
ngày Chúa Nhật,15 tháng 8, liền sau nửa đêm Xác Thánh Mẹ ở trong mồ 30 giờ, như
xác Thánh của Chúa.
Một cuộc cung nghinh trang trọng đầy hoan
lạc không thể tả được, giữa các Thần Thánh rước Mẹ về thiên đàng. Chúa Cha ra
tiếp đón Mẹ với một cuộc tiếp đón thỏa lòng nhất. Chúa Cha phán: "Con yêu dấu, Con hãy lên
hưởng vinh quang hơn hết các thụ tạo". Mẹ chìm ngập trong đại dương vô
cùng của Thần Tính Thiên Chúa. Chúa Cha lại phán: "Maria nữ tì của Chúng Ta, Con
đã làm cho Chúng Ta thỏa lòng. Con có toàn quyền trên Vương Quốc Chúng Ta, và
được tôn phong làm Chủ Mẫu, làm Nữ Vương độc nhất của Thiên Quốc".
Ba Ngôi Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một
Vương Miện Vinh Quang cực kỳ lộng lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ. Cùng lúc
ấy từ ngai Chúa phán ra: "Hỡi
người con chí ái, Vương Quốc của Ta là Vương Quốc của Con. Con là Chủ Mẫu, là
Nữ Vương các loài thụ tạo. Từ ngai cao cả này Con sẽ thống trị toàn thể thụ
tạo: hoả ngục, trần gian và thiên đàng. Mọi loài đều phải phục tùng Con. Chúng
Ta trao ủy cho Con quyền bính Thần Linh của Chúng Ta, để Con nâng đỡ, ủi an,
bảo trợ và làm Mẹ hết mọi người công chính và là Mẹ Giáo Hội chiến đấu trần
gian".
Trong lúc ở thiên đàng xẩy ra sự kiện vinh
quang đó, thì ở trần gian, nơi phần mộ của Mẹ, Thánh Phêrô và Thánh Gioan nhận
thấy tiếng nhạc Thần Trời đã ngưng, nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, các ngài kết luận: "Mẹ đã phục sinh và lên trời
cả hồn cả xác". Tảng đá che cửa mồ được cất ra, mọi người chỉ còn thấy
trong mồ chiếc áo còn nguyên trạng thái khi liệm. Thánh Phêrô nâng áo lên rồi
quì xuống, tỏ lòng tôn kính tin phục Mẹ đã phục sinh và lên trời.
Bà đáng kính Agrêđa chấm dứt bộ sách của
bà ở đây và viết rằng: "Có
nhiều tác giả thuật lại nhiều sự kiện khác nữa. Nhưng vì Chúa không tỏ cho tôi
thấy những sự kiện ấy, nên tôi không viết ở đây, mặt khác, trong khi viết toàn
bộ truyện thần linh này, tôi không tìm tòi chọn lựa một tài liệu nào. Tôi chỉ
có thể nói ra những gì Chúa đã dạy tôi và truyền cho tôi phải viết thôi".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét