Jennifer Lopez bên thảm trái cây đa màu sắc |
Bài viết này xuất
hiện lần đầu tiên trên tạp chí Vìmamsà của Hội Phật Giáo Queensland vào tháng
10 năm 1983. Rồi sau đó được in lại trên Tạp chí Người Phật Tử Trẻ (Young
Buddhist) tại Singapore. Sau đó lại được phát hành trên loạt bài về Phật Giáo
của Hội Phật Giáo Queensland, và các bản in không còn lưu hành nữa. (ảnh không liên quan đến bài viết)
Xét thấy có nhiều người rất quan tâm đến chủ đề này chúng tôi lại cho tái xuất bản trong một tập sách nhỏ. Ðây cũng là cơ hội để có thể thực hiện một số thay đổi văn phong, thêm vào một vài tư liệu bổ sung và cước chú. Tuy nhiên, không có thay đổi nào về các luận cứ trình bài trong tập sách.
Xét thấy có nhiều người rất quan tâm đến chủ đề này chúng tôi lại cho tái xuất bản trong một tập sách nhỏ. Ðây cũng là cơ hội để có thể thực hiện một số thay đổi văn phong, thêm vào một vài tư liệu bổ sung và cước chú. Tuy nhiên, không có thay đổi nào về các luận cứ trình bài trong tập sách.
Xá lợi của Đức Phật |
Ăn
chay là một sự thực hành đang phát triển trong xã hội hiện đại và một số người
nhiệt tình mới nổi lên đã chỉ tay phê phán nhắm vào Ðức Phật là nguời đã sử
dụng thịt như được ghi chép lại, và nhắm cả tới những Phật tử hiện đại đã sử
dụng thịt. Ðây cũng là cơ hội đáng để chúng ta nghiên cứu lại thái độ của Ðức
Phật về việc sử dụng thịt cá. Trước tiên chúng ta sẽ nói rõ giới luật Ðức Phật
đã để lại có liên quan đến việc sử dụng thịt cá, và rồi sẽ điều tra nghiên cứu
các bài phân tích về giới luật này. Mặc dù giới luật của Ðức Phật đã được công
bố rất nhiều lần, có rất ít bàn luận về lý lẽ cơ bản của qui luật này. Chính vì
điều đó mà bài viết này được tạo ra.
Có
đôi điều gây tranh cãi về thành phần món ăn cuối cùng "sùkaramaddava", mà
Ðức Phật đã dùng. Một số người (tin theo lời bình luận của ngài Buddhaghosa -
Phật Âm) cho là Ngài đã dùng thịt heo, một số người khác (tin theo trường phái
Bắc Tông - Mahayana) lại cho đó là dược liệu hay chỉ là một loại nấm rừng. Tuy
nhiên còn có một số sự kiện khác được ghi lại về Ðức Phật cũng như các Tỳ Kheo
tiên khởi đã ăn thịt. Chi tiết cổ xưa nhất liên quan đến vụ này được ghi trong
câu chuyện viết về việc "cải
đạo" của vị Tướng Quân Siha đã được ghi trong Luật Tạng (Mahàvagga,
VI, 31-2). Vị tướng quân này đã mời Ðức Phật và các vị Tỳ Kheo của ngài dùng
một bữa trai Tăng trong đó thịt đã được cúng duờng. Những người Kỳ na giáo vốn
đã được hưởng sự bảo trợ đặc biệt của viên tướng này từ trước, đã lan truyền
câu chuyện là vị Tướng Quân Siha đã giết một "con vật béo" (thùla
pasu) vào dịp đó và chính Ðức Phật đã cố ý tham dự bữa tiệc đó, và như thế,
Ngài đã phạm phải một hành vi gây hậu quả nghiệp chướng nghiêm trọng (pàticcakamma).
Trong thực tế, con vật đã không được giết mổ chỉ để dành riêng cho dịp đó,
nhưng thịt đã được mua ở chợ. Ðức Phật đã tận dụng cơ hội này, Ngài đã đề ra
một giới luật có liên quan đến việc sử dụng thịt và cá.
"Giọt sương mai" - người mẫu Diễm My 9x |
Với
sự căn bản của luật Tam tịnh nhục đó, các kinh văn Pàli đã phân biệt có hai
loại thịt, gọi là"uddissakatamasa" và "pavattamasa". Danh từ thứ nhất - uddissakatamasa - được dùng để chỉ loại thịt được giết
mổ chỉ dành riêng cho một người tiêu thụ nào đó. Loại thịt này không được luật
Tam tịnh nhục cho phép ăn. Cho dù không xác minh, một tiêu chuẩn thô sơ có thể
dùng để xác định loại thịt này là do người giết mổ đã có ý định rõ ràng chỉ
dành riêng cho một người cá biệt nào đó sử dụng, và nếu như người đó sử dụng
thì không những người đó cùng chia sẻ thịt không mà thôi, mà còn chia sẻ cả những
hậu quả nghiệp chướng gắn liền với việc cung cấp loại thịt đó. Danh từ thứ hai
được dùng để chỉ một loại thịt khác được phép dùng - pavattamasa - theo nghĩa đen được hiểu là "loại thịt đã sẵn có" (bà
Horner, Hội Thánh điển Pàli, dịch là "thịt có sẵn trong tay"). Từ đó,
đã có một số vụ tranh cãi để xem những loại thịt nào thuộc vào loại "loại
thịt đã sẵn có". Một số người giải thích cho là đó là loại thịt những con
vật bị giết một cách tình cờ, hay bị các con vật khác giết chết. Nhưng trong
thực tế nó gồm cả thịt được bán ở ngoài thị trường. Ðiều này được làm rõ bằng
một sự kiện ghi chép trong tạng Luật, kể về bà Suppiyà sai tớ gái ra chợ để mua
thịt về (nấu súp cho một vị sư ốm nặng) và người đầy tớ gái về cho bà biết là
không thể kiếm đuợc loại thịt đã giết mổ sẵn vì "hôm nay không phải là
ngày giết mổ". Ðiều này cho thấy thịt giết mổ bán ở ngoài chợ được coi như
là loại thịt pavatta-masa,
và do đó là loại thịt được phép sử dụng. Loại thịt này được xem như là "vô
can". Vì loại này thuộc dạng nghiệp chướng trung hòa đối với người tiêu
dùng (nhưng đương nhiên người giết mổ và cung cấp phải chịu trách nhiệm nghiệp
chướng). Chúng ta sẽ đề cập đến hai loại thịt này như là "thịt nghiệp tác" (karmically effective) và "thịt nghiệp trơ" (karmically neutral, "thịt có nghiệp
trung tính, vô can") [3]. Một phiên bản ngắn về sự kiện này đã được ghi
lại trong Tăng Chi Bộ Kinh.
"Chùa Báo Thiên" - ảnh Việt Nam xưa |
Dựa
theo quan điểm loại thịt nghiệp trơ mới được phép sử dụng trong cộng đồng Phật
giáo, Ðức Phật đã yêu cầu không được sử dụng bất kỳ loại thịt nào mà không tìm
hiểu rõ ràng căn nguyên "na
ca bhikkhave appativekkhitvà masam paribhunjitabbam". Thiếu hiểu biết
không thể là lý do để tự bào chữa được nếu như một loại thịt sai quy định đã
được sử dụng. Ðây là trách nhiệm của người sử dụng để xác định loại thịt nào là
thích hợp để tiêu dùng. Những giới luật được đề ra chủ yếu liên quan đến các vị
tăng ni, nhưng cũng được áp dụng rộng rãi cho toàn thể cộng đồng Phật tử, tu sĩ
lẫn cư sĩ.
"Kim cương hồng" - người đẹp Mexico Perla Beltran |
Quan
điểm các tôn giáo khác về việc ăn thịt.
Những
quan điểm của Ðức Phật về ăn thịt phải được xét đến trong khung cảnh thời đại
của Ngài. Các bản văn tôn giáo Ấn độ sớm nhất, như Vệ đà, lại không cấm sử dụng
thịt hay giết mổ súc vật. Thực vậy, một số lớn các nghi thức sát tế đã trở
thành qui luật, đặc biệt là nghi thức tàn nhẫn Asvamedha đã dần dà được thừa
nhận là cách tỏ rõ sức mạnh của các nhà cầm quyền đang gia tăng.
Thoạt
đầu mang tính thăm dò, chính những người Upanishads đã đề ra nguyên tắc
"không gây tổn thương" (ahimsà - vô hại) vào cuộc sống tôn giáo Ấn
độ. Nhưng ngay cả nghi thức sát tế cho các thần linh cũng được cho phép, tuy
nhiên không phải trên qui mô được thừa nhận dưới thời Vệ dà sau này. Nơi những
người Upanishads đầu tiên, như Chandogya, lại cho phép sử dụng thịt đặc biệt
nếu một phần thịt đó đã được cúng cho các vị thần linh. Chỉ sau thời Đức Phật,
một số người theo đạo Hindu (Ấn độ giáo, Bà la môn giáo) mới chấp nhận việc ăn
chay như một luật chung. Nhưng giới luật này cũng không phổ biến mấy và một số
giáo phái Hindu như những người theo việc thờ cúng Tara lại dính líu đến nghi
thức giết mổ và sử dụng thịt. Tuy nhiên đa số tín đồ Hindu lại là người ăn
chay, hay ít nhất cũng tránh sử dụng một vài loại thịt, như là thịt bò.
"Nắng mai" - thiếu nữ Hà Nội |
Thịt bò Kobe món ăn nổi tiếng đắt đỏ của Nhật Bản |
1.
Những thú vật hiện nay có thể là bạn bè họ hàng với chúng ta trong quá khứ.
2. Chính cha mẹ và họ hàng chúng ta có thể được tái sinh là một con vật trong cuộc sống mai sau.
3. Theo lý lẽ thông thường thì không có lý do gì để cấm dùng thịt một số loài vật, đang khi đó lại không cấm sử dụng tất cả các loại thịt khác.
4. Thịt luôn được xem là ô uế vì nó luôn luôn bị nhiễm các chất phóng uế của thân xác
5. Viễn cảnh bị giết thịt có thể khiến cho thú vật phải kinh hoàng.
6. Toàn bộ thịt chẳng là gì khác hơn là xác chết thối rữa.
7. Việc dùng thịt có thể kiến cho người sử dụng trở nên độc ác và gợi cảm nhục dục.
8. Theo bản chất tự nhiên, con người không phải là con vật ăn thịt.
2. Chính cha mẹ và họ hàng chúng ta có thể được tái sinh là một con vật trong cuộc sống mai sau.
3. Theo lý lẽ thông thường thì không có lý do gì để cấm dùng thịt một số loài vật, đang khi đó lại không cấm sử dụng tất cả các loại thịt khác.
4. Thịt luôn được xem là ô uế vì nó luôn luôn bị nhiễm các chất phóng uế của thân xác
5. Viễn cảnh bị giết thịt có thể khiến cho thú vật phải kinh hoàng.
6. Toàn bộ thịt chẳng là gì khác hơn là xác chết thối rữa.
7. Việc dùng thịt có thể kiến cho người sử dụng trở nên độc ác và gợi cảm nhục dục.
8. Theo bản chất tự nhiên, con người không phải là con vật ăn thịt.
Trong
kinh này, Đức Phật đã chỉ vẽ cho Bồ Tát Đại Huệ như sau: "Không có loại
thịt nào lại tinh khiết, xét theo ba cách thức sau đây: không được dự tính
trước; không được yêu cầu; không bi ép buộc; chính vì vậy mà nên tránh không
ăn thịt".
"Cuối thu" - người mẫu châu Âu |
Như
chúng ta đã thấy, phái Nam Tông cố gắng tuân giữ giới luật của Ðức Phật. Duy
chỉ có một ngoại lệ đáng chú ý nhất đó là cuộc ly khai của Ðề Bà Ðạt Ða, trong
đó Ðức Phật đã thẳng thắng từ khước ngay việc đưa ăn chay thành giới luật. Tuy
vậy một số tàn dư của của cuộc ly khai bởi Ðề Bà Ðạt Ða vẫn thấy xuất hiện nơi
một vài phái Tàpasa trong Nam Tông. [6]
Chúng
ta sẽ thấy Phật giáo giữ một vị thế trung dung giữa lý tưởng Vô hại của Kỳ na
giáo và sự bỏ rơi hoàn toàn trong vị thế của Do thái, Ky tô, Hồi giáo.
Ðâu
là lý lẽ căn bản của giới luật Tam Tịnh Nhục của Ðức Phật về việc ăn thịt?
Không thể cho là bàn tay của người tiêu thụ loại "thịt nghiệp trơ" là
hoàn toàn tinh khiết, đặc biệt nếu như ta ra chợ mua thứ thịt đó như trường hợp
của hầu hết những người tiêu thụ. Chính vì luật thị trường cho thấy là nếu
không có cầu thì cũng không có cung [7]. Vấn đề ở đây là mức độ can dự vào hành
vi sát sinh nếu là thịt thuộc bất kỳ loại nào được tiêu thụ (ngoại trừ khi con
vật bị được giết một cách vô tình, hoặc con vật chết một cách tự nhiên.) Chúng
ta có thể xác định được nhiều mức độ can dự của người tiêu thụ với hành vi sát
sinh:
-
Mức độ trực tiếp nhất là khi người tiêu thụ trực tiếp giết con vật để lấy thịt
sử dụng.
-
Mức độ can dự thứ hai là khi người làm công của ai đó dưới quyền trực tiếp của
người tiêu thụ được yêu cầu thực hiện việc sát sinh đó. Các chi tiết khác nhau
về mức độ can dự này là: khi người tiêu thụ dùng bữa với món thịt do người bạn
gửi tặng hay một người trong gia đình lần lượt hoặc trực tiếp sát sinh hoặc tạo
cớ cho con vật trực tiếp bị giết. Cả hai mức độ can dự nêu trên đều nằm ngoài
phạm vi Tam Tịnh Nhục của Ðức Phật và đều bị nghiêm cấm đối với cộng đồng Phật
tử.
-
Mức độ can dự thứ ba là khi người tiêu thụ mua thịt ở chợ. Hình như đức Phật đã
xem mức độ này là phù hợp với luật Tam Tịnh Nhục của Ngài, và mức độ này được
xem như "nghiệp trơ" hay "nghiệp trung tính". Những lý do
thừa nhận mức độ dính líu thứ ba này với hành động sát sinh đã không được trực
tiếp bàn đến trong Thánh điển. Cho nên, các lý do đó chỉ được phỏng đoán từ vị thế
của đức Phật nói chung. Đó là lý lẽ chúng tôi hy vọng sẽ được trình bày trong
chương này.
"Ngại ngùng" - người mẫu Tianna |
Tranh trừu tượng của họa sĩ Pierre Fava |
Ðiều
căn bản nhất nơi giáo lý của Ðức Phật chính là toàn bộ sự hiện hữu luân hồi đều
dính líu đến một vài hình thức giết hại. Ðó chính là khía cạnh của đau khổ
(dukkha), một thực tế luôn luôn tồn tại khắp nơi. Thay vì phải cố gắng vô vọng
để kết thúc mọi hình thức sát sanh và biến thế giới trở nên hoàn hảo theo kiểu
đó, Ðức Phật đã tạo ra một lối thoát khỏi cõi Ta bà và mọi khiếm khuyết của nó.
Ðiều này bao gồm sự xa lánh những hình thức thô sơ của tội lỗi, kể cả việc
tránh sử dụng "thịt nghiệp tác", cùng với việc phát triển những yếu
tố khác của Bát Chánh Ðạo.
"Mận trắng" - người mẫu Trung quốc Phùng Vũ Chi |
Cách
tiếp cận vấn đề của Ðức Phật được minh chứng nơi học thuyết Darwin. Ông Darwin
cho rằng muôn loài vạn vật đều xung đột liên tục với nhau và chỉ có loài nào
mạnh nhất mới tồn tại được. Theo học thuyết này thì sự sống còn của bất kỳ một
chủng loại nào đều gây ra sự hủy hoại cho bất kỳ chủng loại nào khác đang tranh
dành lấy cùng một không gian sinh học có giới hạn. Sự sống còn và sự sinh sôi
nảy nở của nhân loại cần thiết phải dính líu đến sự hủy diệt của vô số sinh vật
khác, bất kể chế độ ăn uống của nhân loại có tên là ăn chay hay ăn mặn.
Kế đến, chúng ta
phải xem xét đến ý nghĩa đạo đức và những tác động khác của chủ nghĩa ăn rau
đậu. Có nhiều luận chứng được đưa ra về vấn đề ăn chay, trong số đó những luận
chứng sau đây cần phải cứu xét: luận chứng đạo đức, sinh học, sinh thái, và văn
hóa - xã hội.
-
Xét theo quan điểm tôn giáo thì luận chứng đạo đức là quan trọng nhất và sẽ
được đề cập đến đầu tiên. Nhiều người ăn chay rất thích thú dùng cơ sở đạo đức
cao. Họ cho là khẩu phần ăn của họ không liên quan gì đến sát sinh và gây đau
khổ cho thú vật, hoặc cho dù nếu có liên quan đi chăng nữa thì nếu họ chấp nhận
chế độ không ăn chay thì mức độ gây đau khổ cho súc vật và sát sinh sẽ còn lớn
hơn. Tuy nhiên, một thực tế đơn giản là nền nông nghiệp thương mại, vốn là căn
bản cho khẩu phần ăn chay, sẽ không thể thực thi được nếu không có sự hủy diệt
sự sống. Ngay cả chỉ một hành động cày đất thôi thì cũng đã hủy hoại cuộc sống
của nhiều côn trùng sống trong đất, nhưng hình thức sát sinh chính yếu lại xuất
hiện từ nhu cầu bảo vệ mùa màng và vụ thu hoạch khỏi côn trùng, dã thú và một
số thú vật phá hoại khác. Chúng ta chỉ cần ngẫm nghĩ đến việc giết hại toàn bộ
các loài heo rừng, thỏ rừng, kăng gu ru... cho mục đích này. Các loại thuốc
độc, cạm bẫy, và những bệnh dịch cho chính con người gây ra đã tạo ra những sự
hủy diệt chết chóc tàn bạo và khủng khiếp. Những con ốc sên, châu chấu, các con
giòi, cào cào, và nhiều côn trùng khác đã bị hủy diệt bằng các chất thuốc trừ
sâu cực mạnh, và con số phải lên đến hàng triệu. Ngay cả số chuột bị tiêu diệt
để bảo vệ những kho chứa ngũ cốc khỏi bị chúng phá hoại thì còn lớn hơn con số
đoàn gia súc bị giết mổ để phục vụ cho những người sử dụng thịt. Thật thế, có
thể tranh luận là con số thú vật và côn trùng bị giết hại để làm ra một bữa ăn
trung bình cho người ăn chay còn lớn hơn con số súc vật bị giết để làm ra một
bữa ăn cho người ăn thịt với cùng một giá trị dinh dưỡng. Nếu quả đúng như thế,
sự chấp nhận khẩu phần ăn chay thực sự có thể gia tăng số sinh vật bị giết
trong quy trình sản xuất thực phẩm.
"Dốc vàng" - người mẫu Nhật Bản Aki Hoshino |
-
Luận chứng sinh học cho chủ nghĩa ăn rau đậu có giá trị hơn luận chứng đạo đức.
Một điều rất rõ ràng là cơ thể con người không được thiết kế để tồn tại chỉ nhờ
vào thịt (như là kinh Lăng Già khẳng định). Hai khía cạnh cơ thể học con người
cho thấy thực phẩm chay là thực phẩm thích hợp cho con người. Ðầu tiên là cấu
tạo của răng con người (trong đó răng hàm lại quan trọng hơn là răng cửa) và
một khía cạnh khác nữa là ruột con người chiếm một tỷ lệ chiều dài, dài hơn là
cơ thể con người. Những loài thú ăn thịt có răng cửa sắc bén để xé thịt, và có
bộ ruột ngắn hơn để cho lượng thịt bị thối rữa nhiễm trùng có thể được tống ra
khỏi cơ thể càng nhanh càng tốt. Cơ thể con người ta thường giống hơn với loài
vật ăn cỏ, nhưng không hoàn toàn là loại ăn cỏ vì chúng lại có một cấu trúc dạ
dày khắc hẳn. Thực ra, cơ thể con người là một sự thỏa hiệp giữa loài ăn cỏ
thuần túy và loài ăn thịt thuần túy - do đó, con người là một loài ăn tạp. Còn
nữa, hiệu quả gây tác hại từ việc sử dụng các sản phẩm động vật (thí dụ
Cholesterol) đã không được cân bằng do thiếu hụt các chất đạm cao trong các thức
ăn chay. Sau khi cân nhắc kỹ, thì luận chứng sinh học xem ra có phần thiên về
ăn chay hơn là ăn thịt.
-
Luận chứng sinh thái cũng có phần thiên về ăn chay. Thịt là một cách thức thiếu
hiệu quả để chuyển đổi toàn bộ năng lượng thành thực phẩm. Thật dễ dàng và rẻ
tiền hơn nhiều để chuyển đổi năng lượng thành sinh khối (biomass) rất thích hợp
cho con người tiêu thụ trực tiếp hơn là một cách gián tiếp sau khi đưa sinh
khối đó vào thú vật và rồi lại tiêu thụ thịt thú vật. Sản xuất hàng loạt gia
súc (gà, heo, bò) có thể dẫn đến hoặc là phá hủy toàn bộ những cánh rừng nguyên
sinh để tạo đồng cỏ chăn nuôi, hoặc là với phương pháp nuôi gà công nghiệp dẫn
đến sự tàn nhẫn cùng cực, thải ra lượng khí mêtan... Sự gây giống chọn lọc
ở các trại chăn nuôi súc vật và việc sử dụng hóa chất và các chất kích thích
hóc môn để làm tăng trọng có thể tạo ra những hậu quả phụ thuộc không ngờ được
trong một số lãnh vực khác. Nhưng cũng cần phải được đề cập đến ở đây là việc
chuyển đổi sang chế độ ăn chay sẽ không nhất thiết có thể cải thiện được môi
trường sinh thái. Ðiều cần thiết chính là giảm gia tăng dân số và áp dụng những
tiêu chuẩn sinh sống lâu bền mà không gây tác hại đến môi trường.
Hình ảnh Sài Gòn xưa |
Kết luận.
Những luận chứng
trên đây không nên xem như là cách bào chữa cho việc ăn thịt. Ðiều chúng tôi
quan tâm là cố suy đoán về những lý lẽ căn bản đằng sau giới luật Tam Tịnh Nhục
vốn đã được Ðức Phật đặt ra và phản bác lời chỉ trích rằng giới luật của Ðức
Phật hàm chứa một mâu thuẫn luân lý với những phần giáo lý khác của Ðức Phật,
vì Ngài đã từng nhấn mạnh đến lòng từ bi và giới luật cấm sát sinh.
Có
nhiều luận chứng có tính thuyết phục về việc ăn chay, quan trọng nhất là về
khía cạnh sinh học, môi sinh và xã hội mà chúng tôi đã xác định ở phần trên.
Luận chứng đạo đức mà nhiều người ăn chay chấp nhận, để cho là có đạo đức còn
cao hơn cả điều Ðức Phật đã dạy, đã được cho thấy là không có giá trị. Thật ra,
nếu chúng ta chuyển từ ăn thịt sang ăn rau đậu, vẫn không cần thiết phải có sự
sút giảm về số lượng sát sinh và sự tàn nhẫn liên quan đến việc cung cấp thực
phẩm. Chỉ có những loại sinh vật khác có thể phải chịu đau khổ.
"Sáng và tối" - người mẫu Hoàng Oanh |
Yêu
cầu của Ðức Phật chỉ nhằm đạt đến sự điều độ trong ăn uống (mattamuta ca
bhattasmi). Dù các chế độ ăn uống có thể là ăn chay hay ăn thịt thì việc ăn
uống nên phải được hạn chế tới mức tối thiểu, chỉ cần thiết để giữ cho các chức
năng cơ thể tiếp tục hoạt động. Giới luật không được ăn sau giờ ngọ có liên
quan với qui luật giữ điều độ trong việc ăn uống. Nhưng cho dù có cẩn thận đến
đâu trong chế độ ăn uống, cũng không có cách nào duy trì thể xác chúng ta ổn
định về mặt thể chất mà lại không gây tác hại cho một số sinh vật khác. Vì có
phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh vật, sự sống còn của bất cứ một loại sinh vật
nào - kể cả loài người chúng ta nữa - chắc chắn đưa đến sự tàn phá những dạng
thức khác của sự sống. Ngay
cả nếu như không có qui định bao trùm về ăn thịt trong trong giáo lý của Ðức
Phật, giới luật Tam Tịnh Nhục mà Ngài đã đề ra vẫn có giá trị đáng kể. Ðức Phật
quan tâm đến việc đặt ra một giới luật thực tiễn có thể hài hòa được vấn đề nan
giải liên quan đến việc sống trong cõi Ta bà và cho phép những sinh dạng khác
được hiện hữu. Sự kiện mà luật Tam Tịnh Nhục không là một quy luật lý tưởng
không phản ảnh vào Đức Phật, mà là phản ảnh của một thực trạng của thế giới
Ta bà này, liên quan đến sự tác hại đến các sinh vật khác. Giải pháp tối hậu
của Đức Phật có lẽ là một phương cách duy nhất để vấn đề này được giải quyết ổn
thỏa. Giải pháp đó là vạch ra một hướng đi để thoát ra khỏi sự hiện hữu, có
nghĩa là vạch ra con đường đưa đến Niết bàn.
1.
Chữ "parisuddha" được dịch sát nghĩa nhất có thể là "không chê được, không khiển trách được", đúng hơn là dịch "tinh khiết". Đó cũng là cách dịch mà bà Horner thích dùng (bà đã dịch tạng Luật
cho Pàli Text Society). Nó có nghĩa là một đặc tính nghiệp chướng về thịt rất quan
trọng, không phải là sự tinh khiết của thịt về các khía cạnh khác.
2.
Chữ "meat - thịt" được dùng để chỉ tất cả các loại thực phẩm có xuất
xứ từ loài vật. Cho dù là cá, thịt hay là gia cầm (gà, vịt, chim), từ góc độ
luân lý đạo đức không hề có sự khác biệt cơ bản nào giữa các loại thịt đó.
3.
Mối tương quan giữa ăn thịt và nghiệp đã không được Ðức Phật xác định cụ thể.
Sự phân biệt chúng ta bàn luận ở đây phải được xem xét một cách cẩn thận. Ngay
cả những việc tiêu thụ những thứ mà chúng ta qui cho là loại thịt "nghiệp
trơ" hay "nghiệp chướng vô can", "nghiệp trung tính" có thể tạo nghiệp xấu tùy thuộc vào các sát na tâm đi kèm
với việc sử dụng loại thịt đó. Tuy nhiên, tiêu thụ loại thịt "nghiệp
tác" (karmically effective) thì luôn luôn sẽ có nghiệp quả xấu, còn tiêu
thụ loại thịt "nghiệp trơ" thì có thể có hoặc không có nghiệp quả
xấu. Trong cả hai trường hợp, không thể có nghiệp quả tốt.
4.
Giới luật về ăn chay là giới luật thứ năm trong danh sách mà Đề bà đạt đa đã đề
nghị với Ðức Phật. Đề bà đạt đa là một người lập nên phong trào Tàpasa trong
Phật giáo và những giới luật đặc biệt của ông ta có liên quan đến những cách
hành trì mang tính khổ hạnh khắc nghiệt (sống trong rừng, chỉ mặc y rách...) Ðức Phật đã bác bỏ tất cả các đề nghị của
Đề bà đạt đa . Và cũng chính
vì liên quan đến vấn đề này mà Ngài đã tái khẳng định lại giới luật
Tikoiparisuddha (về vấn đề này, xin đọc cuốn "Western Buddhism and a
Theravada Heterodoxy" của tác giả).
5.
Nhìn chung, Ðức Phật thường có khuynh hướng chấp nhận những phong tục xã hội
đang thịnh hành, chỉ trừ khi có gì mâu thuẫn với những nguyên lý giáo pháp của
Ngài. Trong trường hợp này, không cần thiết phải có những thay đổi hiện hành.
Thật thú vị khi ghi nhận rằng trong 10 con vật lại không có con bò đực hay bò
cái trong đó. Sau này bò cái lại trở thành một trong những vật cấm kỵ lớn nhất
trong Ấn Độ giáo. Có lẽ ở vào thời Ðức Phật, khía cạnh Ấn Độ giáo (Hinhduism)
này chưa được phát triển và sự quan trọng của nó sau này mới được thừa nhận.
6.
Về vấn đề này, xin đọc cuốn "Western Buddhism and a Theravada
Heterodoxy" của tác giả.
7.
Luận chứng cho là súc vật đã chết khi chúng ta mua thịt là không có cơ sở. Ða
số những người bán thịt và các cửa hàng bán thịt đều bán hết số lượng hàng tồn
kho. Khi đã hoàn tất bán lượng hàng đó, người buôn lại đặt thêm hàng hóa để
thay thế số lượng hàng đã bán ra. Như thế, khi gà được làm thịt đã bán hết thì
nhà buôn lại viết đơn đặt hàng để nhiều con gà khác được giết để thay vào số
thịt gà đã bán.
Nguyên tác: "Buddhism and Vegetarianism - The
Rationale for the Buddha's View on the Consumption of Meat", V.A. Gunesekara.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét