"Trường học Athens" - tranh của họa sĩ Raphael |
Triết học: Phương pháp Sokrates
Có lẽ đóng góp quan trọng nhất của ông cho tư tưởng phương Tây là phương pháp truy vấn biện chứng, được biết đến dưới tên gọi: “phương pháp Socrates” hay phương pháp “bác bỏ bằng logic” (elenchus). Ông đã áp dụng phương pháp này chủ yếu cho việc kiểm nghiệm các khái niệm quan trọng về mặt đạo đức như Tốt đẹp và Công bằng. Plato là người đầu tiên miêu tả phương pháp này tác phẩm “Các cuộc hội thoại của Socrates”. Để giải quyết một vấn đề, người ta chia nhỏ nó thành một hệ thống các câu hỏi, các câu trả lời sẽ dần dần kết tinh ra lời giải mà ta tìm kiếm. Ngày nay, ảnh hưởng của cách tiếp cận này có thể thấy rõ nhất ở việc sử dụng phương pháp khoa học, mà bước đầu tiên là đặt ra giả thuyết. Sự phát triển và sử dụng phương pháp này là một trong những đóng góp bền vững nhất của Sokrates, đó là thành tố chính trong việc đánh giá ông là cha đẻ của triết học chính trị, luân lý học và là người khởi đầu của các xu hướng chính trong triết học phương Tây.
Phương pháp Sokrates có thể được diễn tả như sau; một loạt câu hỏi được đặt ra để giúp một người hay một nhóm người xác định được niềm tin cơ bản và giới hạn của kiến thức họ. Phương pháp Sokrates là phương pháp loại bỏ các giả thuyết, theo đó người ta tìm ra các giả thuyết tốt hơn bằng cách từng bước xác định và loại bỏ các giả thuyết dẫn tới mâu thuẫn. Nó được thiết kế để người ta buộc phải xem xét lại các niềm tin của chính mình và tính đúng đắn của các niềm tin đó. Thực tế, Socrates từng nói, “Tôi biết anh sẽ không tin tôi, nhưng hình thức cao nhất của tinh túy con người là tự hỏi và hỏi người khác”.
Có lẽ đóng góp quan trọng nhất của ông cho tư tưởng phương Tây là phương pháp truy vấn biện chứng, được biết đến dưới tên gọi: “phương pháp Socrates” hay phương pháp “bác bỏ bằng logic” (elenchus). Ông đã áp dụng phương pháp này chủ yếu cho việc kiểm nghiệm các khái niệm quan trọng về mặt đạo đức như Tốt đẹp và Công bằng. Plato là người đầu tiên miêu tả phương pháp này tác phẩm “Các cuộc hội thoại của Socrates”. Để giải quyết một vấn đề, người ta chia nhỏ nó thành một hệ thống các câu hỏi, các câu trả lời sẽ dần dần kết tinh ra lời giải mà ta tìm kiếm. Ngày nay, ảnh hưởng của cách tiếp cận này có thể thấy rõ nhất ở việc sử dụng phương pháp khoa học, mà bước đầu tiên là đặt ra giả thuyết. Sự phát triển và sử dụng phương pháp này là một trong những đóng góp bền vững nhất của Sokrates, đó là thành tố chính trong việc đánh giá ông là cha đẻ của triết học chính trị, luân lý học và là người khởi đầu của các xu hướng chính trong triết học phương Tây.
Phương pháp Sokrates có thể được diễn tả như sau; một loạt câu hỏi được đặt ra để giúp một người hay một nhóm người xác định được niềm tin cơ bản và giới hạn của kiến thức họ. Phương pháp Sokrates là phương pháp loại bỏ các giả thuyết, theo đó người ta tìm ra các giả thuyết tốt hơn bằng cách từng bước xác định và loại bỏ các giả thuyết dẫn tới mâu thuẫn. Nó được thiết kế để người ta buộc phải xem xét lại các niềm tin của chính mình và tính đúng đắn của các niềm tin đó. Thực tế, Socrates từng nói, “Tôi biết anh sẽ không tin tôi, nhưng hình thức cao nhất của tinh túy con người là tự hỏi và hỏi người khác”.
"Phục hưng" - Hoa hậu Nga Irina Travkina |
Người ta khó phân biệt giữa các niềm tin triết học của Sokrates và của Platon. Có rất ít các căn cứ cụ thể cho việc tách biệt quan điểm của hai ông. Các lý thuyết dài biểu đạt trong đa số các đoạn hội thoại là của Plato, và một số học giả cho rằng Platon đã tiếp nhận phong cách Sokrates đến mức lảm cho nhân vật văn học và chính nhà triết học trở nên không thể phân biệt được. Một số khác phản đối rằng ông cũng có những học thuyết và niềm tin riêng. Nhưng do khó khăn trong việc tách biệt Sokrates ra khỏi Plato và khó khăn của việc diễn giải ngay cả những tác phẩm kịch liên quan đến Sokrates, nên đã có rất nhiều tranh cãi xung quanh việc Plato đã có những học thuyết và niềm tin riêng nào. Vấn đề này còn phức tạp hơn nữa bởi thực tế rằng nhân vật Sokrates trong lịch sử có vẻ như nổi tiếng là người chỉ hỏi mà không trả lời với lý do mà ông đưa ra là: mình không đủ kiến thức về chủ đề mà ông hỏi người khác.
Nếu có một nhận xét tổng quát về niềm tin triết học của Sokrates, thì có thể nói rằng về mặt đạo đức, tri thức, và chính trị, ông đi ngược lại những nguời đồng hương Athena. Khi bị xử vì tội dị giáo và làm lũng đoạn tâm thức của giới trẻ Athena, ông dùng phương pháp phản bác bằng lôgic của mình để chứng minh cho bồi thẩm đoàn rằng giá trị đạo đức của họ đã lạc đường. Ông nói với họ rằng chúng liên quan đến gia đình, nghề nghiệp và trách nhiệm chính trị của họ trong khi đáng ra họ cần lo lắng về “hạnh phúc của tâm hồn họ”. Niềm tin của Sokrates về sự bất tử của linh hồn và sự tin tưởng chắc chắn rằng thần linh đã chọn ông làm một phái viên có vẻ như đã làm những người khác tức giận, nếu không phải là buồn cười hay ít ra là khó chịu. Sokrates còn chất vấn học thuyết của các học giả đương thời rằng người ta có thể trở nên đức hạnh nhờ giáo dục. Ông thích quan sát những ông bố thành công (chẳng hạn vị tướng tài Pericles) nhưng không sinh ra những đứa con giỏi giang như mình. Sokrates lập luận rằng sự ưu tú về đạo đức là một di sản thần thánh hơn là do sự giáo dục của cha mẹ. Niềm tin đó có thể đã có phần trong việc ông không lo lắng về tương lai các con trai của mình.
Sokrates thường xuyên nói rằng tư tưởng của ông không phải là của ông mà là của các thầy ông. Ông đề cập đến một vài người có ảnh hưởng đến ông: nhà hùng biện Prodicus và nhà khoa học Anaxagoras. Người ta có thể ngạc nhiên về tuyên bố của Sokrates rằng ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai người phụ nữ ngoài mẹ ông. Ông nói rằng Diotima, một phù thủy và nữ tu xứ Mantinea dạy ông tất cả những gì ông biết về tình yêu, và Aspasia, tình nhân của Pericles, đã dạy ông nghệ thuật viết điếu văn. Jonh Burnet cho rằng người thầy chính của ông là Archelaus (người chịu ảnh hưởng của Anaxagoras), nhưng tư tưởng của ông thì như Plato miêu tả. Còn Eric A. Havelock thì coi mối quan hệ của Sokrates với những người theo thuyết Anaxagoras là căn cứ phân biệt giữa triết học Platon và Sokrates.
Bến đò (Lai Châu) - ảnh Việt Nam xưa |
Nghịch lý Sokrates
Nhiều niềm tin triết học cổ xưa cho rằng tiểu sử của Sokrates đã được biểu thị như một "nghịch lý" bởi chúng có vẻ như mâu thuẫn với nhận thức thông thường. Những câu sau nằm trong số những nghịch lý được cho là của Sokrates:
- Không ai muốn làm điều ác.
- Không ai làm điều ác hay sai trái có chủ ý.
- Đạo đức - tất cả mọi đạo đức - là kiến thức.
- Đạo đức là đủ cho hạnh phúc.
Cụm từ "Nghịch lý Sokrates" cũng có thể đề cập đến một nghịch lý tự phủ nhận, bắt nguồn từ một thành ngữ của Sokrates: “Tôi biết rằng tôi không biết gì cả” (Hy Lạp cổ: ἓν οἶδα ὅτι οὐδὲν οἶδα hen oída hoti oudén oída; tiếng Latin: scio me nihil scire hay scio me nescire).
Nhận thức
Sokrates thường nói sự khôn ngoan của ông ấy rất hạn chế để có thể nhận thức được sự ngu ngốc của ông. Sokrates tin rằng những việc làm sai là kết quả của sự ngu ngốc và những nguời đó thường không biết cách làm tốt hơn. Một điều mà Sokrates luôn một mực cho rằng kiến thức vốn là “nghệ thuật của sự ham thích” điều mà ông liên kết tới quan niệm về “Ham thích sự thông thái”. Ông ấy không bao giờ thực sự tự nhận rằng mình khôn ngoan, dù chỉ là để hiểu cách thức mà người ham chuộng sự khôn ngoan nên làm để theo đuổi được điều đó. Điều đó gây nên tranh lụân khi mà Sokrates tin rằng con người (với sự chống đối các vị thần như Apollo) có thể thật sự trở nên khôn ngoan. Mặt khác, ông cố gắng vạch ra một đường phân biệt giữa sự ngu ngốc của con người và kiến thức lý tưởng; hơn nữa, Symposium của Platon (phát biểu của Diotima) và Republic (Ngụ ngôn về cái hang) diễn tả một phương pháp để tiến đến sự khôn ngoan.
Trong "Theaetus" của Platon (150a) Sokrates so sánh bản thân với một người làm mối đúng đắn như là sự phân biệt với một tên ma cô. Sự phân bịêt này lặp lại trong Symposium của Xenophon (3.20), khi Sokrates bỡn cợt về một điều chắc chắn để có thể tạo một gia tài, nếu ông chọn để thực hành nghệ thuật ma cô. Với vai trò là một nhà truy vấn triết học, ông dẫn dắt người đối thọai tới một nhận thức sáng rõ khôn ngoan, dù cho ông không bao giờ thừa nhận mình là một thầy giáo (Apology). Theo ông thì vai trò của ông có thể hiểu đúng đắn hơn là một bà đỡ. Sokrates giải thích rằng bản thân ông là một thứ lý thuyết khô khan, nhưng ông biết cách để làm cho thuyết của người khác có thể ra đời và quyết định khi nào họ xứng đáng hoặc chỉ là “trứng thiếu”. Có lẽ theo một cách diễn đạt đặc biệt, ông ấy chỉ ra rằng những bà đỡ thường hiếm muộn do tuổi tác, và phụ nữ không bao giờ sinh thì không thể trở thành bà đỡ; một người phụ nữ hiếm muộn đúng nghĩa nhưng không có kinh nghiệm hay kiến thức về sinh sản và không thể tách đứa trẻ sơ sinh với những gì nên bỏ lại để đứa bé có thể chào đời. Để phán đóan được điều đó, bà đỡ cần phải có kinh nghiệm và kiến thức về việc mà bà đang làm.
Nhiều niềm tin triết học cổ xưa cho rằng tiểu sử của Sokrates đã được biểu thị như một "nghịch lý" bởi chúng có vẻ như mâu thuẫn với nhận thức thông thường. Những câu sau nằm trong số những nghịch lý được cho là của Sokrates:
- Không ai muốn làm điều ác.
- Không ai làm điều ác hay sai trái có chủ ý.
- Đạo đức - tất cả mọi đạo đức - là kiến thức.
- Đạo đức là đủ cho hạnh phúc.
Cụm từ "Nghịch lý Sokrates" cũng có thể đề cập đến một nghịch lý tự phủ nhận, bắt nguồn từ một thành ngữ của Sokrates: “Tôi biết rằng tôi không biết gì cả” (Hy Lạp cổ: ἓν οἶδα ὅτι οὐδὲν οἶδα hen oída hoti oudén oída; tiếng Latin: scio me nihil scire hay scio me nescire).
Nhận thức
Sokrates thường nói sự khôn ngoan của ông ấy rất hạn chế để có thể nhận thức được sự ngu ngốc của ông. Sokrates tin rằng những việc làm sai là kết quả của sự ngu ngốc và những nguời đó thường không biết cách làm tốt hơn. Một điều mà Sokrates luôn một mực cho rằng kiến thức vốn là “nghệ thuật của sự ham thích” điều mà ông liên kết tới quan niệm về “Ham thích sự thông thái”. Ông ấy không bao giờ thực sự tự nhận rằng mình khôn ngoan, dù chỉ là để hiểu cách thức mà người ham chuộng sự khôn ngoan nên làm để theo đuổi được điều đó. Điều đó gây nên tranh lụân khi mà Sokrates tin rằng con người (với sự chống đối các vị thần như Apollo) có thể thật sự trở nên khôn ngoan. Mặt khác, ông cố gắng vạch ra một đường phân biệt giữa sự ngu ngốc của con người và kiến thức lý tưởng; hơn nữa, Symposium của Platon (phát biểu của Diotima) và Republic (Ngụ ngôn về cái hang) diễn tả một phương pháp để tiến đến sự khôn ngoan.
Trong "Theaetus" của Platon (150a) Sokrates so sánh bản thân với một người làm mối đúng đắn như là sự phân biệt với một tên ma cô. Sự phân bịêt này lặp lại trong Symposium của Xenophon (3.20), khi Sokrates bỡn cợt về một điều chắc chắn để có thể tạo một gia tài, nếu ông chọn để thực hành nghệ thuật ma cô. Với vai trò là một nhà truy vấn triết học, ông dẫn dắt người đối thọai tới một nhận thức sáng rõ khôn ngoan, dù cho ông không bao giờ thừa nhận mình là một thầy giáo (Apology). Theo ông thì vai trò của ông có thể hiểu đúng đắn hơn là một bà đỡ. Sokrates giải thích rằng bản thân ông là một thứ lý thuyết khô khan, nhưng ông biết cách để làm cho thuyết của người khác có thể ra đời và quyết định khi nào họ xứng đáng hoặc chỉ là “trứng thiếu”. Có lẽ theo một cách diễn đạt đặc biệt, ông ấy chỉ ra rằng những bà đỡ thường hiếm muộn do tuổi tác, và phụ nữ không bao giờ sinh thì không thể trở thành bà đỡ; một người phụ nữ hiếm muộn đúng nghĩa nhưng không có kinh nghiệm hay kiến thức về sinh sản và không thể tách đứa trẻ sơ sinh với những gì nên bỏ lại để đứa bé có thể chào đời. Để phán đóan được điều đó, bà đỡ cần phải có kinh nghiệm và kiến thức về việc mà bà đang làm.
"Dáng lạ" - Hotgirl Trung Quốc Trương Hinh Dư |
Phương pháp giảng dạy
Các bài dạy của ông thường được chia làm hai phần dựa trên sự đối thoại:
- Phần thứ nhất: Phần hỏi và trả lời cho đến khi người đối thoại nhận thức là mình sai.
- Phần thứ hai: Đây là phần lập luận: Ông giúp cho người đối thoại hiểu và tự tìm lấy câu trả lời. Ông nói: “Mẹ tôi đỡ đẻ cho sản phụ, còn tôi đỡ đẻ cho những bộ óc”.
Tư tưởng
-“Hãy tự biết lấy chính mình”.
-“Con người không hề muốn hung ác tàn bạo”.
-“Việc gọi là tốt khi nó có ích”.
-“Đạo đức là khoa học là lối sống”.
-“Hạnh phúc có được khi nó dung hòa với đạo đức”.
-“Điều bị bắt buộc phải làm cũng là điều hữu ích”.
Sưu tầm trên Internet
Các bài dạy của ông thường được chia làm hai phần dựa trên sự đối thoại:
- Phần thứ nhất: Phần hỏi và trả lời cho đến khi người đối thoại nhận thức là mình sai.
- Phần thứ hai: Đây là phần lập luận: Ông giúp cho người đối thoại hiểu và tự tìm lấy câu trả lời. Ông nói: “Mẹ tôi đỡ đẻ cho sản phụ, còn tôi đỡ đẻ cho những bộ óc”.
Tư tưởng
-“Hãy tự biết lấy chính mình”.
-“Con người không hề muốn hung ác tàn bạo”.
-“Việc gọi là tốt khi nó có ích”.
-“Đạo đức là khoa học là lối sống”.
-“Hạnh phúc có được khi nó dung hòa với đạo đức”.
-“Điều bị bắt buộc phải làm cũng là điều hữu ích”.
Sưu tầm trên Internet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét