Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

Mẹ Maria (phần 1)

"Đức mẹ Sầu Bi" - tranh của họa sĩ Sassoferato
Lược chuyện cuộc đời Đức Mẹ. (Theo Bà đáng kính Maria Agrêđa Mẹ Bề trên Dòng Thánh nữ Clara)

1. Lời mở đầu:
Lược chuyện Cuộc đời Đức Mẹ là bản tóm lược những chi tiết quan trọng về câu chuyện ký sự của Đức Mẹ đã được Mẹ đáng kính Bề trên Dòng Thánh nữ Clara viết lại theo sự mặc khải của Đức Mẹ, vì cuộc đời Đức Mẹ kể như bị che khuất quá nhiều. Ngay cả Phúc Âm cũng nói rất ít về Mẹ. Ngoài một vài chi tiết quá gọn ghẽ, ít ỏi, liên quan đến cuộc đời Chúa Giêsu. Còn việc sinh ra và ly trần cách nào cũng không được biết, giữa lúc con cái Mẹ luôn khát khao được biết về cuộc đời của Mẹ, để mến yêu Mẹ hơn. Vì thế vào thế kỷ thứ 17, Mẹ đã được Thiên Chúa cho phép tỏ tất cả cuộc đời của Mẹ trong một cuộc mạc khải tư, cho bà đáng kính Maria Agrêđa thuộc đan viện Dòng thánh nữ Clara để bà viết lại cho mọi người được biết. 
Hoa hồng leo
2. Những lời phê chuẩn của Giáo Quyền:
- Đức Giám Mục Ratisbon phê chuẩn: "Chúng tôi hoan hỷ ký chuẩn ấn cho bản dịch "Mistica Ciudad de Dios" của Nữ tu Maria Đệ Giêsu từ nguyên bản tiếng Tây Ban Nha và khuyến khích đọc sách này, tác phẩm này chắc chắn sẽ soi sáng mọi người đọc và là cơ hội cho những ân sủng thiêng liêng lớn lao." (Ignatius, Giám Mục Ratisbon, ngày 29 tháng 9 năm 1885).
- Đức Tổng Giám Mục Salzburg phê chuẩn: "Theo những Sắc Chỉ của Đức Giáo Hoàng Innocent XI và Clement XI các tín hữu có thể đọc tác phẩm "Mistica Ciudad de Dios" mà tác giả là nữ tu Maria đệ Giêsu thành Agreda".
Một số lời phê chuẩn, khuyến cáo của các trường đại học: Toulouse, Salamanca, Alcala, Louvain và vô số thành viên danh tiếng thuộc nhiều dòng tu khác nhau, đều đồng thanh tán tụng tác phẩm nói trên. Đức Hồng Y uyên bác D'Aguirre đã coi tất cả mọi học hỏi trong 50 năm trước trong cuộc đời ngài có kết quả hết sức nhỏ nhoi so với các học thuyết tìm thấy trong sách này, mọi thứ đều phù hợp với Thánh Kinh, với các Đức Thánh Cha và các Hội Đồng Giáo Hội. Cha Emery, Bề Trên Cả đáng kính tu hội St.Pulpice, nói thêm: "Chỉ từ khi tôi đọc các mạc khải do Mẹ Bề trên Maria đệ Agrêda viết, tôi mới biết được Chúa Giêsu và Đức Hiền Mẫu rất Thánh của Chúa một cách rõ ràng nhất".
Franz Albert, Tổng Giám mục Tòa Tổng Giám mục Salzburg: "Vì thế, chúng tôi không ngần ngại phê Chuẩn Ấn cho "Mistica Ciudad de Dios" và ước mong giới thiệu sách này với các tín hữu, đặc biệt là với hàng Giáo sĩ". (12-9-1885).
- Đức Giám Mục Tarazona phê chuẩn: "Chúng tôi, Tiến Sĩ James Ozoidi, Hồng y Udave, Giám Mục Tarazona... Chính chúng tôi duyệt lại phần lớn bản thảo, được dùng làm bản chính ấn bản mới tác phẩm "Mistica Ciudad de Dios" sắp được các nữ tu của tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Agreda ấn hành. Thể theo lời chúng tôi yêu cầu, linh mục Don Eduarda Royo, tuyên úy và cha giải tội tại tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Agreda, đã cẩn thận và cặn kẽ so sánh ấn bản này với bản viết tay được minh chứng là nguyên tác xác thực hiện nay lưu trữ tại tu viện nói trên. Vì thế bây giờ chúng tôi chứng thực rằng ấn bản hiện nay của tác phẩm "Mistica Ciudad de Dios" với một vài sửa đổi chính tả, hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc do Mẹ Bề Trên Đáng Kính Maria đệ Giêsu thành Agreda". (Giacôbê, Giám Mục Tarazoma. 7-4-1911).
- Đức Giám Mục Aleding chuẩn ấn: "Tôi vui lòng cấp "Chuẩn Ấn" cho bản dịch Anh Ngữ tác phẩm "Mistica Ciudad de Dios". Cầu chúc cha (George J.Blatter) mọi ơn lành." (H.J.Alerding, Giám Mục Fort Wayne. Rome City, 24-8-1912).

"Tuổi hoa" - nữ sinh Sài Gòn
3. Bà đáng kính Maria Agrêda:
Sinh ngày 2-4-1602 tại thị trấn Agrêda (Tây Ban Nha). Ông thân sinh là Phanxicô Coronel và bà Catarina Arana, cả hai cùng thuộc dòng quí tộc. Hai ông bà sinh được 11 người con, nhưng 7 người mất sớm. Về sau, cả gia đình đều dâng mình cho Chúa: Cha và hai con trai vào Dòng Anh Em Hèn Mọn. Mẹ và hai con gái biến nhà mình thành một đan viện theo luật Dòng Thánh Nữ Clara.
Maria Agrêđa từ nhỏ đã sống tốt lành như một thiên thần. Từ lúc 11 tuổi bà đã được hưởng nhiều ơn lạ siêu nhiên. Năm 25 tuổi bà được đặt làm bề trên đan viện mới lập tại nhà mình. Bà không dám nhận, nhưng Đức Mẹ đã hiện đến an ủi và Đức Mẹ tự nhận làm bề trên thay cho bà. Từ đó, Mẹ ban nhiều ơn cho bà và tỏ cho bà biết tất cả các mầu nhiệm về cuộc đời của Mẹ. Mẹ đã dục bà viết lại những gì bà đã thấy về cuộc đời Mẹ, nhưng bà thấy mình không có khả năng. Mãi tới năm 1637 bà đã vâng lời Đức Mẹ và các bề trên để viết ra. Viết xong, chuyện được tâu lên Hoàng Đế Philip IV, ngài là vị vua rất đạo đức nên đã đặt bà làm cố vấn qua các thư tín. Nhà vua cho sao lại một bản và trả lại bản chính cho bà. Bản chính này được đốt đi cùng với nhiều bút tích khác, theo lệnh cha giải tội đến hướng dẫn bà thay cho cha giải tội thường xuyên của bà và các bề trên lại ra lệnh cho bà phải viết lại. Vâng lời bề trên bà làm công việc này thật cam go đến nỗi chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria phải đích thân hiện đến can thiệp. Ngày 6-5-1660, bà viết xong hạnh tích Mẹ Maria lần thứ hai. Bà đặt tên là "La Mistica Ciudad De Dios" (Thần Đô Huyền Nhiệm). Bà đệ lên bề trên để thẩm xét.
Năm năm sau, ngày 24-5-1665, bà từ trần, thọ 63 tuổi. Bà được Giáo Hội tôn phong lên bậc Đáng Kính. Sách được phát hành năm 1670. Tuy có đôi lần bị cấm đoán (năm 1680, 1704), nhưng đến thời Đức Giáo Hoàng Piô 12 ngày 11-10-1954 lại xác nhận sách có giá trị về tu đức và giáo hóa.
Những chú cá mòi bị mắc lưới ở vùng biển Địa Trung Hải trong mùa thu hoạch cá
4. Maria trong ơn tiền định:
Ngay trong bóng tối dày đặc của tội lỗi, Thiên Chúa xét đã tới lúc thắp sáng ngọn đuốc rất sáng, báo tin mặt trời công chính sẽ mọc. Hai ngọn đuốc đó là Thánh Gioakim và Thánh Nữ Anna.
Gioakim sinh trưởng tại Nazareth, Ngài là người nhu mì, trong sạch, đầy nhiệt tâm và Thánh thiện. Được ánh sáng siêu nhiên soi chiếu, Ngài thâm hiểu mầu nhiệm trong Thánh Kinh. Ngài thiết tha nài xin Thiên Chúa cho Đấng Cứu Thế đã hứa mau đến.
Thánh Nữ Anna sinh trú tại Belem, từ nhỏ bà đã có một đức thanh tịnh, đức khiêm nhu, một nền đạo đức và một vẻ đẹp hoàn toàn xuất chúng. Đức tin, đức cậy, đức mến của bà thật vô song. Vì thế bà được liệt vào số những vị cao niên nhất trong các thánh thời Cựu Ước. Bà sống đời chiêm niệm tuyệt vời. Bà không ngừng cầu xin cho bà một người bạn trăm năm tốt lành để cùng phụng sự Chúa. Thiên Chúa đã duyên kết Gioakim và Anna nên một và quyết định cho các ngài sinh ra Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể. 
Chúa Jêsu ra đời
5. Maria được tác sinh:
Chúa tỏ thánh lệnh ấy cho các Thiên Thần, các Ngài liền ca vang chúc tụng Mẹ Thiên Chúa. Và để thi hành thánh lệnh ấy, Tổng Thần Gabriel được trao sứ mệnh đến báo tin cho hai vị thánh đang cư ngụ tại Nazareth, để báo tin ông bà sẽ sinh một người con và đặt tên là Maria. Niềm vui tràn ngập tâm hồn, Cả hai ông bà đều sung sướng lên đền thờ tạ ơn Thiên Chúa. Thiên Chúa đặc biệt đổ tràn những ân huệ cao quí nhất cho bà Anna, để chuẩn bị cho Maria một người mẹ hết niềm tôn kính, yêu mến và tán tụng xứng với Mẹ của Con Chúa Chí Thánh sau này.
"Tháng ba" - tranh của họa sĩ Levitan
6. Maria vô nhiễm từ đầu thai:
Theo cách nói của loài người thì khi mọi sự đã sẵn sàng, Thiên Chúa đã thực hiện việc sáng tạo Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể, một người Mẹ đầy kỳ công do quyền năng vô song của Thiên Chúa, một người nữ thánh thiện tràn trề sự trọn lành mà quỉ hỏa ngục cũng không thể làm gì được.
Xác thể Đức Mẹ được hình thành vào ngày Chúa Nhật, tương ứng với ngày đầu tiên trong cuộc sáng tạo. Thể xác Mẹ tiếp nhận đầy ân sủng, nên rất trọn vẹn và rất siêu nhiên, đến nỗi không một thể xác con người nào được toàn vẹn đến thế. Ngày Thứ Bảy kế tiếp đó, là ngày chung kết việc tạo dựng, Thiên Chúa tạo nên linh hồn Đức Mẹ. Thiên Chúa Ba Ngôi đã nói: "Ta sáng tạo Maria giống hình ảnh Ta và làm cho Maria nên Nữ Tỳ, nên Hiền Thê thật của Ta, để Maria xứng đáng làm Mẹ Con duy nhất của Cha Hằng Hữu". Lúc đó, Thánh nữ Anna chìm sâu vào cơn xuất thần tuyệt vời. Bà tiếp nhận ánh sáng linh động, hiểu được mầu nhiệm rất sâu xa. Phần Maria, Mẹ được hưởng ơn nhìn thấy Thần Tính Thiên Chúa, một thị kiến cao hơn tất cả các thị kiến, các mạc khải các Thánh, chỉ trừ có phúc thấy Chúa trên thiên đàng.
Maria vì thế không những không có tội nguyên tổ, linh hồn Mẹ còn rực rỡ với nguồn ơn cao cả, mà Thiên Chúa ban riêng cho tới mức độ tuyệt vời, đến nỗi hết các nhân đức của các bậc thần thánh hợp lại cũng không sánh bằng. Trí năng và linh hồn của Mẹ hầu như vô cùng. Mẹ thấu hiểu hết các mầu nhiệm về Chúa Ba Ngôi, về ơn nhập thể và cứu chuộc, về mọi sự siêu nhiên và tự nhiên. Tâm hồn Mẹ được trang điểm bằng những ơn Thánh Linh và các nhân đức tới mức độ hoàn toàn lạ lùng. 

"Óng vàng" - siêu mẫu Hàn Quốc 
7. Quãng đời thai nhi:
Mẹ được nhìn thấy Thiên Chúa thiêng liêng từ khi đầu thai, nên Mẹ đã chiêm ngắm Hữu Thể Thiên Chúa một cách tỏ tường và tâm hồn Mẹ cháy lên niềm mến yêu Thiên Chúa. Mẹ không hề ngừng thờ lạy Thiên Chúa.
Vào áp ngày sinh ra, Thiên Chúa đã cho Mẹ biết đã đến lúc xuất hiện trên trần gian. Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa và thưa rằng: "Lạy Chúa uy linh cao cả, chủ quyền tuyệt đối trên con, con chỉ là hư vô Chúa làm cho nên hiện hữu, đã cho con đầy ân sủng, Chúa cho con sinh ra và cư ngụ giữa loài người, xin cho con được trọn ý Chúa".
Về phần thân mẫu Mẹ, Chúa cũng cho bà được nên người thiêng liêng hoàn toàn, nhưng cũng để cho bà chịu một ít phiền não, để che mắt bọn quỉ Satan, để chúng không thể biết được kho tàng bà đang cưu mang trong lòng. Các Thiên Thần cũng gìn giữ bà và giúp bà bình thản chờ đợi giờ hạnh phúc được nhìn ngắm người con chí ái chào đời.
Gấu Bắc cực
8. Sinh vào trần thế:
Đến ngày 8-9, bà Anna biết mình sắp sinh ái nữ, bà sấp mình cầu xin Chúa chúc lành cho mình. Bà được ơn gìn giữ khỏi những cơn đau thông thường nơi các bà mẹ sinh con, nên bà dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Các Thiên Thần hầu cận Mẹ hát lên những khúc ca thiên đàng. Mẹ xinh đẹp nằm gọn trên tay thân mẫu mình. Mẹ xin các Thiên Thần ca tụng Chúa với Mẹ và nhân danh Mẹ. Tổng Thần Gabriel được sai đến ngục Tổ Tông, để báo cho các Thánh tin Mẹ Chúa Cứu Thế đã sinh ra, một tin mừng làm cho các ngài hoan hỷ và tri ân vô ngần.
Thiên Chúa lại sai các Thiên Thần rước Mẹ về trời, trước ngai uy linh Thiên Chúa, Mẹ sấp mình thờ lạy Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngôi Lời nâng Mẹ dậy và đặt ngồi bên hữu mình. Mẹ lãnh nhận nhiều mạc khải mới và lòng Mẹ bừng lên niềm vinh quang. Mẹ xin Chúa mau thi hành ơn nhập thể để cứu độ trần gian. Thiên Chúa đoan quyết với Mẹ là sắp được thực hiện. Thiên Chúa còn cho các Thiên Thần biết, Chúa rất hài lòng về danh hiệu Maria và Giêsu mà từ ngàn đời Ngài đã thỏa lòng.
Tám ngày sau, cha mẹ đặt tên cho con trẻ là Maria, tên mà Thiên Chúa đã dành cho Mẹ. Các Thiên Thần ca lên những khúc hát tuyệt vời mà chỉ hai mẹ con bà Anna được thưởng thức. 

"Nhà Thờ Lớn Hà Nội" - ảnh Việt Nam xưa
9. Cuộc sống ba năm đầu:
Theo luật Lêvi, 60 ngày con gái mới sinh phải đem vào đền thờ dâng cho Chúa như lời bà đã hứa, với của lễ là một con chiên một tuổi và một con chim gáy. Thân mẫu Anna vâng theo lề luật dạy đã sung sướng dâng Mẹ cho Thiên Chúa, người con mà Chúa đã ban cho bà.
Nhìn đền thờ uy nghiêm, Mẹ muốn hôn kính đền thờ rồi tự tâm hồn Mẹ cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa đáng muôn loài chúc tụng, trong đền thờ này, con tán dương Chúa và cảm tạ lòng khoan dung Chúa, đã ban cho con hạnh phúc nhìn thấy đền thờ nơi Cha Ông con đã từng tôn kính Chúa. Xin đoái thương nhận con vào, hầu con được phụng sự Chúa tại đây".
Khi nhìn thấy những việc lạ lùng, Luxiphe muốn hiểu ra bí mật, nhưng Thiên Chúa đã dấu kín, chỉ cho biết những việc bề ngoài, để chúng yên lòng, mặc dầu hai mẹ con có thánh thiện hơn những người khác. Khi các nghi lễ đã xong, hai mẹ con hoan hỉ trở về Nazareth. Ở đây, Mẹ được nuôi dưỡng như các trẻ đương thời. Mẹ rất ngoan và gây nhiều thiện cảm, nhưng cũng rất oai nghi buộc ai đến gần phải tôn kính. Mẹ cũng hay khóc nhưng là khóc thương tội lỗi trần gian và nài xin Đấng Cứu Chuộc mau đến. Ở Mẹ không có chút gì là con nít, nhưng Mẹ cũng để cho thân mẫu nựng chiều. Mẹ cầu nguyện cùng Chúa, cả trong giấc ngủ cũng không gián đoạn, vì trí năng có thể hoạt động không cần giác quan giúp đỡ.
Với song thân, Mẹ tỏ hết tâm tình của một người con. Đôi khi Mẹ cầm tay cha mẹ mà hôn kính, trân trọng thật tình. Suốt đời Mẹ cư xử như thế, không bao giờ tỏ ra một chút bất bình.
Tuổi thơ của Mẹ cứ thế qua đi trong những cuộc truyện vãn thánh thiện hoặc với các Thiên Thần hoặc với chính Thiên Chúa. Những đặc ân ấy không hề làm cho Mẹ kiêu căng, song lại tăng thêm đức khiêm nhường của Mẹ. Mẹ tin Mẹ là cuối cùng trong mọi loài thụ tạo, mặc dù Mẹ là Nữ Vương, là Chủ Mẫu vũ trụ.
Sau 18 tháng Mẹ mới bắt đầu nói. Trước khi nói với loài người, Mẹ được Thiên Chúa dạy cho cầu nguyện mỗi ngày nhiều lần, để Con Chúa mau nhập thể. Mẹ cũng nói với song thân và cám ơn các ngài đã cho Mẹ một thân xác sống giữa trần ai. Ông bà rất sung sướng khi thấy con cất tiếng lần đầu và thấy những bước đầu tiên Mẹ đi một mình.

Trong 18 tháng kế tiếp, nghĩa là cho tới khi Mẹ lên 3 tuổi, Mẹ nói rất ít. Mẹ khôn ngoan vượt trên các con cháu Adong, nhưng khi đó Mẹ lại rất khiêm tốn, ngoan ngoãn hỏi han thân mẫu nhiều điều để học hỏi. Mẹ thích làm những việc thấp hèn nhất trong nhà, nhưng chẳng ai nỡ để Mẹ làm. Vì thế, lúc có một mình Mẹ cố gắng ra sức làm việc. Vì sức Mẹ chưa làm nổi nên các Thiên Thần thường giúp Mẹ làm để Mẹ thỏa chí và thêm phần thưởng khiêm nhu.
Khi đã trọn hai tuổi, Mẹ bắt đầu thi hành việc bác ái với người nghèo. Mẹ xin thân mẫu cho của này vật nọ để đem đi bố thí. Mẹ thường nói trong lòng: "Tôi không đáng có thì lại có, nên tôi mắc nợ người anh em này vì họ không có gì".
Thời gian trôi qua, Mẹ cảm thấy hạnh phúc vì khám phá ra nơi mình nhiều điều kỳ diệu Chúa thương ban cho, còn thân mẫu Anna thì đau lòng khi nghĩ đến ngày sắp phải lìa con theo lời đã hứa. Bà buồn có thể đến chết đi được, nếu Chúa không giúp sức cho. Vì thế 6 tháng trước khi chẵn ba tuổi, Mẹ đã năng nhắc đến để chuẩn bị tâm hồn thân mẫu cho ngày biệt ly và giúp bà nguôi buồn.

Ít ngày trước khi trọn 3 tuổi, Mẹ được Chúa tỏ cho xem thấy Ngài trong một lần thị kiến, Ngài cho Mẹ biết đã gần đến giờ Mẹ được tận hiến cho Ngài trong đền thờ. Lòng đầy hoan hỉ và tri ân, Mẹ thưa lên: "Lạy Chúa cao cả của Tổ Phụ con, tự con chẳng xứng đáng, nhưng Chúa đã vô cùng nhân từ nhìn đến một nữ tì thấp hèn ti tiện này. Bởi đâu con được ơn trọng, là được nhận vào nhà Chúa để phụng sự Chúa, trong khi con chỉ đáng bỏ quên trong một xó rất khốn nạn trên trần gian. Chúa thương ban cho con vinh dự này, thì xin Chúa hướng lòng cha mẹ con thực thi ý Chúa".
Nhận lời Mẹ xin, Chúa đã soi sáng cho song thân Mẹ thực hiện lời hứa và thêm ơn can đảm để ông bà bớt đau đớn khi phải lìa biệt Mẹ, một niềm an ủi dịu ngọt trong lúc tuổi già.
Vũ khúc đại dương
10. Dâng con trong đền thờ:
Trong ý định của Thiên Chúa, Chúa đã quan phòng cho Mẹ một cách khôn khéo là không để cho mấy ai biết đến Mẹ là Mẹ Thiên Chúa khi còn tại thế. Bởi thế, trước mặt người đời việc Mẹ dâng mình trong đền thờ chẳng có gì đáng trọng, đáng chú ý.
Song thân từ Nazareth đưa Mẹ lên đền thờ Giêrusalem với mấy người thân thuộc đơn sơ, không ồn ào, không long trọng, nhưng có đoàn Thiên Thần hộ tống theo hầu. Các Ngài vừa đi vừa hát những khúc ca tán tụng Thiên Chúa, nhưng chỉ mình Mẹ nhìn thấy và nghe thấy tiếng các Ngài hát. Trên quãng đường dài, song thân của Mẹ cũng được hưởng một nguồn an ủi thiêng liêng tràn ngập.
Khi tới đền thờ, các ngài cầm tay Mẹ dẫn vào nội điện. Cả ba cùng sốt sắng cầu nguyện, rồi ông bà hiến dâng Mẹ cho Thiên Chúa. Mẹ cũng tự hiến dâng trọn vẹn mình dứt khoát cho Ngài. Trong ánh sáng huy hoàng tràn ngập đền thờ, Mẹ nghe thấy rõ tiếng Thiên Chúa ưng nhận lễ vật là chính toàn thân Mẹ. Sau khi cầu nguyện, hai ông bà dẫn Mẹ đến giới thiệu với vị Tư Tế. Ngài chúc lành cho Mẹ rồi tất cả đưa Mẹ tới khu nhà giáo dục dành cho nữ giới. Mẹ được các vị Tư Tế ra cầu thang 15 bậc đón Mẹ vào. Vị hướng dẫn Mẹ là một vị Tư Tế có phẩm trật thấp nhất. Ông đặt Mẹ lên bậc cầu thang thứ nhất. Mẹ quay lại qùi xuống, cúi đầu bái tạ song thân và xin cha mẹ ban phép lành. Cha mẹ bùi ngùi nhỏ lệ chúc lành cho Mẹ, sau đó một mình Mẹ quả quyết bước lên bậc thang không quay lại, không rơi lệ, không tỏ cử chỉ ấu trĩ nào, không phàn nàn vì phải rời xa cha mẹ. Trái lại dung mạo Mẹ đều tỏ cử chỉ vui mừng, uy nghi, dịu dàng, làm mọi người sững sờ thán phục. Thượng Tế Simêon đón Mẹ ở đầu nấc thang và trao cho các cô đạo đức việc đào tạo Mẹ. Bà Tiên Tri Anna được Chúa soi dẫn và chỉ định coi sóc Mẹ. Bà thật đức hạnh và thánh thiện, xứng đáng là một mẫu sư trong đền thờ. Ông Simêon không biết gì về mầu nhiệm dấu kín nơi Mẹ cả. Ông chỉ được soi cho biết Mẹ là một nữ nhi thánh thiện thôi. Sống trong đền thờ Mẹ được bà giáo tận tình hướng dẫn, săn sóc và giáo hóa. Mẹ cũng được Chúa tỏ cho rất nhiều ân huệ cao vời. Mẹ tạ ơn Chúa và khấn giữ bốn lời khấn: Khiết tịnh, Thanh bần, Vâng lời và Nội vi ở trong đền thờ. Nhưng Chúa chỉ cho phép Mẹ thực hiện hết khả năng tùy hoàn cảnh thôi, ngoại trừ đức Khiết tịnh thì Chúa chấp nhận. Suốt cuộc đời Mẹ giữ tỉ mỉ, nhiệt thành, trung tín chu toàn mọi quyết định.
Hội ý với Thượng Tế Simêon, bà Anna vạch cho Mẹ một luật sống. Mẹ đã xin Chúa cho Mẹ được ơn siêu thoát khỏi mọi thụ tạo và cả chính mình để chỉ sống trong tình yêu Chúa, nên Mẹ rất hân hoan đón nhận sự chỉ dạy của mẫu sư Anna. Luật đó là phải hết lòng phụng sự Chúa và ham mê thực hành các nhân đức và mau mắn tuân phục. Mẹ cúi đầu vâng ý Thầy Thượng Tế và bà giáo Anna.
Từ đó Mẹ hòa mình vào nếp sống với chị em, mặc dù quan điểm của Mẹ cao vượt hơn. Mẹ biết rằng vâng phục không lý luận bao giờ cũng tốt hơn theo tư kiến, dù là tư kiến tốt, vì Chúa đã sống và dạy các ngài làm. Bà Anna cũng vạch cho Mẹ một chương trình sống, là hết sức nhiệt thành tham dự các giờ tán dương Thiên Chúa, cầu nguyện cho đền thờ và dân riêng của Chúa, cho Đấng Cứu Chuộc mau đến. Buổi tối đi ngủ lúc 8 giờ. Sáng thức dậy sớm cầu nguyện đến 9 giờ. Từ đó tới chiều làm việc thủ công và đọc sách. Mẹ cũng rất tiết độ khi ăn khi ngủ. Mẹ dùng thì giờ rất khéo và khít khao. Thời giờ Mẹ dùng nhiều nhất là đọc và học Thánh Kinh. Mẹ am tường ý nghĩa nhập thể, nhờ có trí thức Chúa ban dư tràn đến nỗi có thể giải thích về mầu nhiệm ấy với các Thiên Thần. Mẹ hiểu hết nhưng bề ngoài Mẹ vẫn học hỏi như không biết gì. Mẹ lớn dần về tuổi và ân sủng trước mặt Chúa và loài người. Mẹ cũng rất khiêm nhường không bao giờ tỏ cho loài người biết những ơn lạ lùng Mẹ có được. Mẹ giữ kín đáo các ơn ấy. 

"Black" - siêu mẫu châu Âu Sigrid Agren
11. Những thử thách trong đền thờ:
Để đón nhận được những đau khổ mà nên hoàn thiện, Mẹ đã thật quả cảm, cái quả cảm vượt trên cả các Thánh Tử Đạo chỉ vì mến Chúa. Cơn đau khổ đầu tiên Chúa dành cho Mẹ, là Chúa cho Mẹ biết thân phụ Mẹ đã đến ngày mãn phần. Ngài sẽ xuống ngục Tổ Tông cùng với các thánh khác.
Nỗi đau khổ hơn thế nữa, là Chúa không cho Mẹ thấy Ngài và cả các Thiên Thần nữa. Mẹ rơi vào đêm tối tăm và lòng Mẹ phiền não, cay đắng vì khuất mặt Chúa. Mẹ cũng than thở với các Thiên Thần và các thụ tạo. Thực thế không thể có nỗi khổ nào sánh bằng nỗi đau khổ Mẹ phải chịu. Chưa hết, Chúa quan phòng còn chuẩn bị cho Mẹ mạnh mẽ hơn nữa để chiến thắng ma lực do rắn hỏa ngục bày ra: Dâm dật, giả hình, kiêu ngạo, ghen ghét... và mọi hình thức cám dỗ loài người nó dành đổ vào Mẹ. Nhưng Mẹ một lòng cậy trông vào sự che chở của Chúa.
Ma quỷ cũng nhóm lên trong lòng các chị em đồng tu ngọn lửa căm hờn, ganh ghét, hành hạ, buông những lời nặng nhẹ chê bai, xoi mói, xỉa xói chua cay và buộc tội Mẹ để gây xáo trộn là kẻ giả hình, đưa điều, báo cáo, ton hót với Bề Trên và coi Mẹ như một con quỷ con. Phần Mẹ đối với họ vẫn nhu mì thực hiện đức ái tới mức lạ thường, lấy ơn trả oán, chúc phúc thay nguyền rủa, cầu nguyện thay xỉ báng, yêu thương thay hận thù. Công đức Mẹ lập khi đó vượt xa trên công đức của các Luyến Thần nồng mến nhất. Điều đau khổ nhất phải nói là vắng mặt Chúa 8 ngày trước khi thân phụ Mẹ giã thế đứa con 3 tuổi rưỡi, cho tới khi Mẹ lên 12 tuổi, tức là tới khi thân mẫu của Mẹ qua đời, tính ra là 10 năm.
Một vườn hoa ở Hà Lan
12. Chịu tang trong đền thờ:
Mẹ rất bình thản và nhẫn nại khi được tin thân phụ Mẹ qua đời, nhưng tình yêu cha mẹ là món nợ tự nhiên, nên trong sâu thẳm tâm hồn Mẹ cũng cảm thấy một niềm xót đau. Để trả món nợ vừa siêu nhiên vừa ân sủng ấy, Mẹ đã sốt sắng cầu xin Chúa cho cha già được yên nghỉ và Mẹ dâng mình chịu hết mọi đau khổ trong đời để cầu cho cha già. Thiên Chúa vui nhận và báo cho Mẹ biết giờ lâm chung của cha trước 8 ngày. Lúc ấy Mẹ ra lệnh cho các Thiên Thần đến giúp cha già trước giờ tắt thở.
Tới khi lên 12 tuổi, Mẹ lại được Thiên Thần báo tin thân mẫu của Mẹ sắp qua đời. Mẹ sấp mình trước Chúa mà cầu nguyện cho thân mẫu được nghỉ yên an lành. Thiên Chúa cho các Thiên Thần đưa Mẹ đến bên giường thân mẫu, để Mẹ dọn lòng cho bà thêm can đảm và tin tưởng đón nhận cái chết. Bà dựa lưng trên cánh tay Mẹ và trút linh hồn trong Chúa và được vào ngục Tổ Tông cùng các thánh. Xong việc, Mẹ trở về đền thờ và cảm tạ Chúa vì sự lo toan Chúa dành cho Mẹ.
"Đám rước thánh giá" - tranh của họa sĩ Repin
13. Kết mối lương duyên:
Khi được 13 tuổi rưỡi, Mẹ đã phát triển đầy đặn cả về thân xác lẫn tâm hồn. Trong một thị kiến, Thiên Chúa ban bố một mệnh lệnh làm cho lòng Mẹ tràn ngập bỡ ngỡ và đau đớn. Mệnh lệnh đó là: "Mẹ sẽ phải tìm một bạn đường cho cuộc đời mình". Đối với Mẹ, đó là một đau đớn hơn cả Abraham được lệnh giết con mình, vì Mẹ khăng khít với đức khiết trinh hơn Tổ Phụ Abraham khăng khít với con Isaac. Mặc dầu xao xuyến buồn sầu, nhưng Mẹ cũng quyết định vâng ý Chúa, một hành vi tuân phục anh dũng nhất đời Mẹ từ trước tới giờ. Chúa Cha an ủi Mẹ, Ngài nói: "Cách thế nào hợp ý con, Cha sẽ liệu cho con. Cứ an lòng và nhẫn nại mới làm vui lòng Cha".
Chúa lại báo mộng cho Thượng Tế Simêon và truyền cho ông phải tìm cho Mẹ một người bạn trăm năm, mặc dù không phải ý muốn của Mẹ. Ông Simêon bàn với các Thượng Tế, tìm một người trong hoàng tộc David theo qui định luật và xin Chúa ban một dấu để biết Chúa chọn người nào. Các vị chỉ định ngày triệu tập thanh niên thuộc dòng David đang ở Giêrusalem đến đền thánh để các ông chọn lựa. Vào đúng ngày đó Mẹ được chẵn 14 tuổi. Trước những ngày tuyển chọn, Mẹ đẫm lệ xin Chúa chu toàn thánh ý Ngài. Chúa cũng hiện ra an ủi Mẹ: "Con không bao giờ thiếu ơn Cha bảo trợ".
Thời gian thấm thoát qua đi, đã đến ngày chỉ định, ở Giêrusalem có nhiều thanh niên thuộc dòng tộc David, cùng huyết thống với Mẹ, họ được triệu tập đến đền thờ. Trong bọn họ có một thanh niên nghèo, quê ở Nazareth, vì gia cảnh sa sút nên đến cư ngụ tại Giêrusalem, tên là Giuse, bà con gần với Mẹ. Giuse lên 12 tuổi đã khấn giữ khiết trinh trọn đời. Lúc này Giuse được 33 tuổi, vẻ mặt tuấn tú, lộ vẻ đức hạnh vô song. Chàng sống rất đẹp lòng Thiên Chúa và nhân loại, vì thế chàng được biệt triệu đến dự họp, dù chàng không có ý định lập gia đình, nhưng vì lệnh Tư Tế, chàng phải đến thôi. Mọi người cùng Tư Tế cầu nguyện. Lúc ấy Chúa soi sáng cho Tư Tế bảo họ đem đến mỗi người một cây khô, để cầu xin Chúa tỏ ý Ngài chọn ai. Biết Mẹ có duyên sắc và đức độ tuyệt vời, nên ai cũng muốn sánh đôi cùng Mẹ, chỉ có Giuse là chẳng ước mộng gì và cũng tin mình chẳng xứng duyên được với Mẹ, chàng thầm tuyên lại lời khấn và phó mình mặc ý Chúa.
Trong lúc mọi người cầu nguyện, cành cây khô của Giuse nở hoa và một con chim bồ câu bay đến đậu trên đầu người. Đồng thời có tiếng từ trời phán: "Hỡi Giuse tôi tớ của Ta, Maria là bạn đời của con. Hãy thận trọng nhận lấy vì Maria có đức thanh tịnh vẹn toàn. Con hãy làm hết những gì Maria sẽ nói với con". Trước cảnh lạ thường đó, các Tư Tế nhìn nhận ra ý Chúa, là Giuse chính là người hôn phu Chúa chọn cho Mẹ. Các ngài làm lễ phối hợp cho Mẹ và Giuse, một vị thánh thanh tịnh, thánh thiện nhất mà Mẹ kính phục. Sau đó Mẹ tạ ơn các Tư Tế và bà giáo Anna, xin các ngài chúc lành, rồi cùng Thánh Giuse trở về Nazareth nơi quê hương, nơi gia tài cha mẹ để lại cho. Sau những thủ tục cheo cưới, những cuộc thăm hỏi chúc mừng và tiệc cưới thanh đạm, Mẹ và Thánh Giuse qua những ngày đầu tiên đoàn tụ.
Theo thông tục Do Thái, những ngày đầu tiên này đôi bạn cùng nhau cầu nguyện và bày tỏ cho nhau những ý nguyện, để cuộc sống tương lai hòa hợp trong hạnh phúc. Thánh Giuse bày tỏ cho Mẹ hay Ngài tạ ơn Chúa đã cho Ngài được kết duyên cùng Mẹ, một trinh nữ chính trung của Thiên Chúa để phục vụ. Ngài chỉ xin Mẹ được giữ lời đã khấn hứa cùng Chúa, giữ mình thanh tịnh từ lúc 12 tuổi. Mẹ rất vui mừng tạ ơn Chúa, khi nghe Ngài tiết lộ điều ấy. Mẹ cũng thưa cùng thánh Giuse rằng: "Phần tôi, tôi mắc nợ cùng Chúa hơn hết mọi thụ tạo. Ngài đã bạn cho tôi nhiều ơn gấp muôn ngàn lần hơn các thụ tạo, từ thơ ấu, Ngài đã soi sáng và nung nấu tâm hồn tôi. Để thuộc trọn về Ngài, tôi đã khấn sống khiết tịnh trọn đời, tận hiến mình cho Chúa. Tôi nguyền chung thủy thuộc trọn về Ngài mãi mãi. Tôi muốn xin Thầy giúp tôi giữ trọn lời khấn xin này, còn mọi điều khác tôi xin làm nữ tỳ trung thành với Thày".
Thấy Mẹ nói thế, Thánh Giuse rất hoan hỷ thỏa dạ. Cả hai được Chúa đổ xuống muôn ơn an ủi khôn tả. Từ đó Mẹ và Thánh Giuse hợp nhất tâm tình, tiến cao hơn mãi trong niềm mến yêu Chúa. Mẹ và Thánh Giuse đồng ý chia gia sản của tổ tiên làm ba phần, một dâng vào đền thờ, một tặng cho người nghèo và một giữ lại làm kế sinh nhai. Giuse quản lý chút gia sản đó, còn Mẹ lãnh nhận nhiệm vụ nội trợ và giữ việc bố thí cho người nghèo. Cứ thế từ ngày thành hôn (ngày 8-9), Mẹ cùng thánh Giuse hằng sẵn sàng đi vào đường thánh thiện và vâng phục ý Chúa, để thể hiện trong cuộc sống gia đình có Chúa hướng dẫn.
Tuyết lạnh
14. Chờ đón Tin Mừng:
Suốt 6 tháng 17 ngày qua đi, Thiên Chúa đổ tràn trên Mẹ không biết bao ơn lạ lùng, nhất là 9 ngày liên tiếp trước khi mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể hình thành. Mỗi sáng Mẹ thức dậy lúc nửa đêm và sấp mình trước mặt Chúa, Chúa cho Mẹ ngất trí để thanh tẩy Mẹ, để lãnh nhận ơn thánh mỗi lần mỗi xứng đáng, và có khả năng lãnh nhận cao độ hơn, trong khi đó Mẹ cũng nhận thực mình hèn mọn, chìm hẳn trong vực sâu hư vô tội lỗi. Mẹ hạ mình hơn hết mọi con cháu Adong, khiến Chúa càng đổ xuống trên Mẹ những ơn thiêng toàn năng của Ngài và biến hóa Mẹ dần dần nên một hữu thể cân xứng phẩm tước rạng ngời, là Thiên Chức làm Mẹ Ngôi Lời Nhập Thể. Mẹ được Chúa chuẩn bị chu đáo đến nỗi khi Ngôi Lời đến, Ngài đã thấy Mẹ hoàn toàn tương tự với Cha trên trời của Ngài. 
"Hoa hồng" - người mẫu Nhật Bản Akina Aoshima
15. Tiếp nhận Tin Mừng:
Thời gian nhập thể đã đến, Ngài ủy nhiệm cho Tổng Thần Gabriel mang sứ mệnh đến với Mẹ cùng đoàn Thiên Thần tháp tùng. Dung nhan Tổng Thần ngời chói uy nghi, cử chỉ thanh lịch, đầu mang vương niệm lộng lẫy, ngực có Thánh Giá rất đẹp, biểu hiệu mầu nhiệm nhập thể.
Hôm ấy Mẹ được 14 tuổi 6 tháng 17 ngày, thân hình Mẹ cao sang đẹp tuyệt đối, đầy vẻ thánh thiện sung mãn, cân xứng hoàn hảo tuyệt vời. Y phục Mẹ nghèo nàn, nhưng đượm nét đoan trang nết na. Tổng Thần đến giữa lúc Mẹ đang suy niệm về những ân hụê lạ lùng, Chúa thánh hóa Mẹ suốt 9 ngày. Mẹ cầu nguyện và ca ngợi: "Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng tôi - Emmanuel". Đúng lúc Thiên Sứ Gabriel cùng đông đảo đoàn Thiên Thần hiện đến. Hôm đó nhằm ngày thứ 5 lúc 7 giờ chiều, màn đêm bắt đầu buông xuống.
Mẹ thấy Sứ Thần liền sấp mình xuống, nhưng Sứ Thần ngăn lại và phủ phục trước mặt Mẹ. Sứ Thần kính chào: "Trinh Nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Mẹ, Mẹ có phúc hơn mọi người nữ". Mẹ không mất bình tĩnh và vẫn tin mình là cuối cùng. Chúa lại mạc khải cho Mẹ biết Ngài đã chọn Mẹ làm Mẹ Ngài, một chức vị chẳng bao giờ Mẹ nghĩ tới. Mẹ phân vân, trong khi đó Tổng Thần Gabriel trấn an: "Maria đừng sợ, đừng e ngại, vì Trinh Nữ đã được đầy ơn Chúa. Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh con trai đặt tên là Giêsu".
Mẹ xin Chúa cứu giúp để hành động sao cho ý Chúa được nên trọn với công việc trọng đại này. Lúc ấy, Chúa lại rút các ơn thị kiến trí năng mà Mẹ thường được tham hưởng, và chỉ để lại những ơn hướng dẫn thường, để Mẹ tự do chấp nhận, hầu sự chấp nhận ấy nên hoàn hảo hơn, đẹp lòng Chúa hơn. Bởi thế Mẹ mới đặt ra câu chất vấn: "Không biết đến người nam nên không thể sinh con được" với Thiên Thần. Sứ Thần đáp lại cách trịnh trọng: "Quyền năng của Thiên Chúa dễ dàng làm cho Trinh Nữ vừa làm mẹ vừa giữ được khiết trinh. Ngài sẽ dùng quyền năng của mình mà thực hiện. Đức Nữ cứ nghĩ mà coi: Bà Elizabeth đã mang thai trong lúc tuổi già. Đối với Thiên Chúa không có gì là khó cả". Sứ Thần còn nhắc lại những sự lạ lùng khác, như bụi gai cháy của Moisen, lời hứa với Abraham và nhiều suy tư khác liên quan đến mầu nhiệm nhập thể vĩ đại này, mà giải nghĩa cho Mẹ.
Mẹ lại suy đến câu trả lời: "Xin vâng" của Mẹ là thành quả của biết bao lời hứa hẹn đã được nói trong Thánh Kinh và là thành quả cứu rỗi mọi dân tộc qua mọi thời đại, là mối lợi cao cả nhất trong lịch sử loài người. Lúc ấy tâm trí Mẹ ngất ngây thán phục sự quan phòng kỳ diệu tuyệt vời của Thiên Chúa. Tâm hồn Mẹ bừng lên ngọn lửa yêu mến Chúa một cách lạ lùng. Trái Tim Mẹ xiết lại và chắt ra ba giọt máu rất trong sạch rỏ xuống lòng đồng trinh Mẹ, ba giọt máu ấy làm nên chất liệu cần có cho Ngôi Lời Nhập Thể. Mẹ sung sướng thưa lên lời ưng thuận: "Xin thể hiện như ý Chúa". Lời dịu ngọt ấy làm Thiên Chúa vui mừng, vì bởi chính ý chí của Mẹ muốn cộng tác vào công trình cứu thế của Ngài. Việc lạ lùng Ngôi Lời Nhập Thể ấy được thực hiện vào ngày thứ Sáu 25 -3 lúc bình minh, trùng vào giờ Thiên Chúa sáng tạo Adong trước đó. Đồng thời với lúc Chúa Giêsu đầu thai, Mẹ được đưa lên thiên đàng hưởng phúc một cách hoàn hảo hơn các lần trước.
Kim tự tháp (Ai Cập)
16. Một cuộc viếng thăm:
Sau ngày Chúa Ngôi Hai nhập thể, để thánh hóa người con làm tiền sứ Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa sai Mẹ đi thăm bà Elizabeth. Mẹ sai các Thiên Thần cùng đi hầu cận. Mẹ cũng xin Thánh Giuse cùng đi và ngài không từ chối.
Hôm ấy ngày thứ bốn sau khi Ngôi Lời Nhập Thể, bạn thánh cùng Mẹ lên đường dưới sự hộ tống của các Thiên Thần. Bạn thánh Mẹ rất sốt sắng khi đàm đạo với Mẹ về những sự trên trời. Trên đường đi không phải ai cũng vui lòng tiếp đón cả, cũng không thiếu người xua đuổi thô lỗ, nhưng Mẹ vẫn tỏ ra hòa nhã với mọi người. Khi có cơ hội Mẹ cũng giúp những người bần cùng, bệnh tật yếu đau. Mẹ biết rõ trong lòng Thánh Giuse rất kính phục Mẹ và muốn biết những đặc ân Chúa ban cho, nhưng Mẹ để mặc Thiên Chúa tiết lộ cho Ngài; phần Mẹ một lòng im lặng suy phục thánh ý Chúa.
Sau bốn ngày mỏi mệt trên đường, Mẹ và bạn thánh tới Giuda, một thành phố nhỏ cách Nazareth 27 dặm đường. Bà Elizabeth trong một thị kiến đã biết Mẹ đến thăm nên bà chờ đón. Qua lời chào hỏi thân thương, chị em dẫn nhau vào phòng riêng, ở đây lần nữa Mẹ cất lời chúc phúc: "Xin Chúa gìn giữ chị và ánh sáng Chúa ban ân sủng sự sống cho chị". Vừa nói xong lời chào ấy thì Gioan Baptist được đầy ơn Thánh Thần và được giải thoát khỏi tội nguyên tổ, Gioan vui mừng tạ ơn Đấng Cứu Thế. Bà Elizabeth cũng được Chúa cho thấy Ngôi Lời Làm Người trong lòng Mẹ và con mình được thánh hóa, bà hân hoan cất lời: "Em thật có phúc và hoa trái trong lòng em cũng thật diễm phúc. Lý do chị được Mẹ Thiên Chúa đến thăm? Ngay con trong lòng chị cũng mừng rỡ. Phúc cho em là người đã tin vào Thiên Chúa" Mẹ đầy khiêm nhượng cũng hân hoan đáp lại lời bà Elizabeth bằng một khúc ca tuyệt diệu: "Linh hồn tôi ca ngợi Thiên Chúa và lòng trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa Đấng Cứu chuộc tôi....".
Sau cuộc gặp gỡ bí mật ấy, Mẹ ở lại giúp đỡ chị cho tới ngày sinh Gioan. Mẹ cũng gặp ông Zacaria, ông bị cấm khẩu. Mẹ xin ông ban phép lành cho Mẹ vì ông là Tư Tế của Thiên Chúa. Mẹ hết tình cảm thông và cầu nguyện cho ông. Bà Elizabeth cũng tiếp đãi Thánh Giuse với lòng kính tôn, vì bà đã nhận ra vẻ đẹp cao cả của ngài. Ba hôm sau, Thánh Giuse xin trở về Nazareth và hứa sẽ trở lại ngay khi Mẹ tỏ ý.
Lúc ở một mình Mẹ thường cầu nguyện, xin Chúa cho mọi sự đẹp ý Chúa. Mẹ cũng không bỏ sót việc nào mà không săn sóc cho chị. Mẹ cũng hay chuyện vãn với các Thiên Thần về những mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc. Bà Elizabeth cũng hay trao đổi với Mẹ những hạnh phúc mà bà được Chúa ban cho. 
Chân dung thánh Gioan Tẩy Giả
17. Gioan Tẩy Giả chào đời:
Thai nhi Gioan cũng được Chúa báo cho biết sắp chào đời, ông được Chúa ban cho trí thức thiên phú, nên ông nhận thấy rõ về cuộc đời khổ ải của mình và ông thưa với Chúa: "Xin Chúa cứ thi hành theo thánh ý Chúa".
Khi Gioan vừa chào đời, Mẹ đã gửi đến cho vị Tiền Sứ của Con mình những khăn áo do chính Mẹ sắm liệu. Ít ngày sau, theo lệnh Thiên Chúa, Mẹ đích thân đến chúc mừng bà chị tốt phúc, và ãm bế con trẻ mới sinh dâng lên cho Thiên Chúa Hằng Hữu. Chúa đã đón nhận con trẻ cách hài lòng như của lễ đầu mùa của Ngôi Lời Nhập Thể. Nhận ra Mẹ Nữ Vương Chí Thánh của mình, ông cúi đầu chào Mẹ và thờ lạy Thánh Tử trong lòng Mẹ. Ông quờ quạng chân tay để tỏ lòng biết ơn và cứ muốn ở trên tay Mẹ không chịu rời.
Tới ngày cắt bì, bà đặt tên cho con trẻ là Gioan. Mẹ cũng có mặt nhưng Mẹ xin Chúa dấu mình đi, đừng để một ai lưu ý đến mình. Mẹ xin thế vì gia đình ông rất hào phú, đầy bạn bè đến thăm. Chúa nhận lời nên họ chỉ biết có cô em họ tới thăm. Trong cuộc lễ này, thương cảm ông Giacaria vì bị cấm khấu đã gần một năm, Mẹ cầu xin Chúa cho ông nói được. Chính vì thế, sau khi được họ hàng hỏi xem đặt tên nào cho con trẻ, ông viết tên nó lên bảng và liền đó ông nói được. Lời đầu tiên ông thốt ra là cất lời ca tụng những mầu nhiệm Thiên Chúa Cứu Chuộc và tiên báo tương lai của con ông.
Sau cuộc lễ, Thánh Giuse được bà Elizabeth cho người báo tin, Ngài đến ngay để mừng cho hai ông bà và đón Mẹ trở về gia đình, sau hơn ba tháng xa nhà. Đến ngày đã định, Mẹ từ giã ông Zacaria và xin ông chúc lành cho Mẹ. Ông dùng lời Thánh Kinh mà nói với Mẹ: "Các dân tộc phải phụng sự Trinh Nữ vì từ nơi Trinh Nữ có Đấng Tối Cao. Ai ca cũng sẽ được chúc phúc, ai không sẽ bị chúc dữ". Ông cũng xin Mẹ cầu nguyện cho gia đình ông trong lời cảm xúc. Bà Elizabeth cũng nức nở trước cảnh biệt ly không nói lên được lời nào, còn Mẹ bình tĩnh làm chủ được mình, Mẹ nói: "Đường xa dặm thẳm, nhưng không cách biệt được chị em luôn kết hợp trong Chúa". Mẹ ẵm bé Gioan lần chót, khiến ông được ơn nên nói nhỏ với Mẹ: "Xin bảo trợ cháu của Dì". Gioan hôn Mẹ và thờ lạy Ngôi Lời từ trong lòng Mẹ. Mẹ qùi xuống xin Thánh Giuse ban phép lành, rồi cùng nhau lên đường.
Chim cánh cụt ở Nam cực
18. Trở về mái ấm:
Trên đường về, Mẹ và Thánh Giuse thường trao đổi những chuyện trên trời, nhất là thường hay xẩy ra những cuộc tranh luận dành phần khiêm nhượng hơn. Nhưng nếu Thánh Giuse tỏ ý muốn là Mẹ vâng phục ngay, vì Mẹ coi sự tuân phục chính là nền tảng đức khiêm nhường.
Trên suốt quãng đường dài, Mẹ cũng làm việc bác ái giúp người tội lỗi trở về đàng công chính. Vì những việc ấy mà ma quỉ sinh hiềm thù với Mẹ, tìm cách hãm hại Mẹ, nhưng Ngôi Hai Thánh Tử trong lòng Mẹ luôn canh chừng bảo vệ Mẹ. Nhờ đó Chúa Cha và Mẹ có đủ can đảm và dũng lực xua dẹp các hành động xấu của ma quỉ hãm hại các linh hồn. Chúng cũng còn dùng 7 mũi dùi tức là 7 mối tội đầu để tấn công Mẹ, nhưng chúng đã thất bại ê chề, lại phải phục lụy xin Mẹ đuổi chúng đi chỗ nào tùy ý Mẹ. Mẹ đã truyền cho chúng phải giam cầm trong hỏa ngục.
Tiến đến, chúng xúi dục bạn thanh khiết của Mẹ và làm cho Ngài ưu tư, mỗi khi thấy Mẹ có sự khác lạ rõ ràng, ngược hẳn với lời khấn khiết tịnh mà cả hai đã thề hứa với nhau. Mặc dù Ngài vẫn thâm tín rõ ràng rằng Mẹ vô tội hoàn toàn. Mối suy tư đó dày vò linh hồn Thánh Cả với hàng ngàn cực khổ, khiến Ngài phải tăng thêm giờ cầu nguyện để xin biết ý Chúa. Mẹ thấy rõ tất cả nhưng cũng không thể nào đánh tan được những ưu tư ấy, dù có nói rõ ra sự kiện "động trời" như vậy. Mẹ âm thầm để chờ lúc Chúa can thiệp.
Dưới sức nặng của đau khổ, sức khỏe của Ngài ngày một sút kém, mỏi mòn trông thấy. Trong tình trạng tiến thoái khó xử Ngài ngưng lại ý định lìa bỏ Mẹ. Mẹ phải van xin Con Thánh Mẹ giúp Ngài bỏ ý định đó. Ngôi Lời trả lời Mẹ: "Sớm muộn con cũng giải thoát Cha Giuse khỏi áy náy dằn vặt. Khi nào con đổ Thần Trí xuống lòng Ngài thì Thần Trí ấy sẽ giúp đỡ Ngài trong mọi hoàn cảnh". Nghe câu trả lời ấy Mẹ thấy rất an ủi và thấy sự thử thách của Bạn Thánh rất có lợi cho Ngài, nhờ đó Ngài sẽ chuẩn bị cho Mẹ cách cẩn trọng hơn.
Tâm hồn đau khổ của Bạn Thánh Mẹ đã đến lúc căng thẳng, Ngài quyết định ra đi giữa nửa đêm sau khi cầu nguyện. Ngài sấp mình tuyên khấn sẽ dâng vào đền thờ một số bạc nhỏ, để xin Chúa gìn giữ Mẹ khỏi mọi tai nạn rồi Ngài âm thầm rút vào sa mạc nơi không một ai biết đến. Khi đó Ngài thiếp đi, Thiên Chúa ra lệnh cho Tổng Thần Gabriel đến mạc khải cho Ngài biết mầu nhiệm Thiên Chúa đã làm nơi Mẹ. Sứ Thần đến thưa cùng Ngài: "Hỡi Giuse, Con cháu David, hãy yên lòng, việc bạn ngươi cưu mang là công việc của Thiên Chúa. Hãy đặt tên cho Con Trẻ mà Đức Maria cưu mang là Giêsu. Người Con đó sẽ giải thoát dân người khỏi tội". Giuse tỉnh dậy tràn ngập ánh sáng vui mừng, Ngài sấp mình cảm tạ Chúa đã ban cho mình một người bạn rất thánh là Mẹ Thiên Chúa. Ngài lại trách mình hồ đồ đã nghĩ không đẹp cho Mẹ. Ngài quyết tâm phụng sự Mẹ và Con Chí Thánh với hết tâm tình và sấp mình xin lỗi Mẹ, xin Mẹ tha thứ về quyết định sai lầm ấy. Mẹ vội vã nâng Thánh cả dậy và xin thánh cả thứ lỗi vì đã làm Ngài phiền não lo âu về sự việc Mẹ không được phép tiết lộ, để giữ sự trung thành với bí mật của Chúa. Thánh Cả dâng lời chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa đã giải thoát Ngài, và đã tỏ cho Ngài những ân huệ cao cả, lòng Ngài đầy tràn hạnh phúc và cảm phục thánh ý Thiên Chúa. 
"Nồng nàn" - người mẫu Trung Quốc Gan Lulu
19. Chờ ngày sinh hạ:
Để tôn kính chức phẩm Mẹ Thiên Chúa nơi Bạn Thánh mình, Thánh Giuse mỗi khi đi qua hay nói với Mẹ, Ngài hay bái gối, Ngài cũng không chịu để Mẹ làm một việc gì trong nhà. Mẹ phải xin Chúa sai Thiên Thần đến thay đổi tâm định của Ngài. Thiên Thần đến nói với Ngài: "Xin Người hãy cứ làm việc như thường, để giữ niềm kính trọng và an ủi Đức Nữ, còn trong thâm tâm hãy giữ một niềm kính tôn sâu xa với Đức Nữ và thờ lạy Ngôi Lời làm người trong lòng Đức Trinh Nữ là đủ".
Thánh Giuse tùng phục mệnh lệnh đó, nhưng càng nhìn thấy Mẹ khiêm nhường, Ngài càng chìm sâu trong vực thẳm khinh chê mình. Để tưởng thưởng công Ngài vì niềm tôn kính và tăng sự thánh thiện, đôi lúc Con Thiên Chúa xuất hiện với Ngài như qua một tấm gương sáng. Nhà Mẹ chỉ có ba căn, mỗi người một căn làm phòng ngủ, còn một căn làm phòng làm việc ban ngày. Phòng của Mẹ không khi nào Thánh Giuse bước vào, nhưng từ khi được mạc khải về mầu nhiệm ấy, Ngài càng tôn trọng hơn và thường xin đến để phục vụ và tôn thờ Hài Nhi Cứu Chúa; đôi khi Ngài được hợp cùng các Thiên Thần ca hát ngợi khen, chúc tụng Hài Nhi nữa.
Trước khi Thánh Giuse biết về mầu nhiệm nhập thể, Mẹ thường đọc và giải nghĩa Thánh Kinh cho Thánh Cả nghe, nhất là những đoạn liên quan đến mầu nhiệm cứu độ. Nhưng từ khi Ngài biết rồi, thì cả hai nói chuyện về mầu nhiệm ấy rõ ràng hơn. Được lửa mến Chúa thiêu đốt và cảm động đến rơi lệ, Thánh Giuse kêu lên: "Ôi hạnh phúc cho tôi, vì tôi được chiêm ngắm Đấng Cứu Chúa nằm trên tay Trinh Nữ. Được Ngài ở cùng nhà.... Ôi hạnh phúc chừng nào".
Thời điểm sinh hạ Đấng Cứu Chuộc đã gần đến, Mẹ chăm lo đón chờ và cùng Thánh Giuse bàn chuyện sắm sửa khăn áo cho con, bằng tiền bán đồ mộc và chính Mẹ khâu may cho Chúa những đồ cần thiết, lại tẩm bằng thứ nước thơm do Thánh Giuse hái bông cỏ về cho Mẹ làm. Thật không thể nào tả được những tâm tình cao cả đơn thành Mẹ và Thánh Giuse dành cho Con Chí Thánh Mẹ.
20. Sinh hạ tại Belem:
Khi đã gần tới ngày sinh hạ Ngôi Lời Nhập Thể, Hoàng Đế Roma ban sắc lệnh ghi sổ kiểm tra dân số tại quê quán mình. Thấy phiền lòng vì lệnh này đang khi Mẹ cần nghỉ ngơi. Mẹ biết rõ Vua Cao Cả sẽ sinh tại Belem nhưng không nói trước lệnh truyền, vì Mẹ không bao giờ tiết lộ bí mật trước khi Chúa thể hiện. Mẹ dục dã Thánh Cả lên đường về quê tổ, nên Ngài đành nghe theo. Chúa ra lệnh cho các Thiên Thần hầu cận và phục dịch Mẹ trong suốt cuộc hành trình, còn Thánh Giuse tuy hân hoan hành sự, nhưng vẫn tỏ ra e ngại cho Mẹ khi đã tới lúc phải sinh hạ. Mẹ trấn an Ngài bằng câu: "Có Chúa phù hộ, cứ để mặc Chúa lo".
Trước khi khởi hành Mẹ quì gối xin Thánh Cả chúc lành với hết niềm tôn kính. Có các Thiên Thần hộ tống nên ánh sáng của các Ngài tỏa sáng ngày cũng như đêm. Các Thiên Thần còn tấu lên những khúc ca tôn thờ ca khen Ngôi Lời Nhập Thể nữa. Sau 5 ngày vất vả trên đường, vào khoảng 7 giờ chiều thứ Bảy, Thánh Giuse và Mẹ đi tìm nhà trọ mà chẳng còn, nơi nào cũng xua đuổi. Lúc ấy vào khoảng 9 giờ đêm và đã gõ cửa tới 50 nhà trọ mà chẳng được. Mẹ hiểu ý Chúa nên an ủi Bạn Thánh và tạ ơn Chúa vì những nơi này không hợp với ý Chúa. "Nơi hang bò lừa chính là nơi Chúa muốn, chúng ta hãy đến đó". Các Thiên Thần soi sáng lối đi dẫn Mẹ ra hang. Tới nơi Mẹ tạ ơn Chúa và cầu cho các chủ quán đã thể hiện đầy đủ ý Chúa, vì từ tạo thiên lập địa Chúa đã muốn chọn chốn này làm nơi sinh hạ cho Đấng Cứu Chuộc muôn dân. Các Thiên Thần đã sửa soạn hang sạch sẽ. Thánh Giuse lại đem cái máng đặt kề bên Mẹ, trải khăn sạch sẽ rồi Ngài tìm chỗ nghỉ đêm. Chúa cho Ngài xuất thần cho tới lúc Mẹ lên tiếng gọi Ngài. Riêng Mẹ, Mẹ nhìn thấy tất cả những sự lạ lùng Thiên Chúa sẽ làm cho Ngôi Hai Nhập Thể mà Mẹ sẽ được bồng ẵm trên tay.
Giữa lúc hưởng kiến sự cao sang huy hoàng, Mẹ thấy chuyển động trong dạ, sự chuyển động không hề gây cho Mẹ một đau khổ nào mà lại còn hân hoan về những hiệu quả thần diệu nơi thân xác hóa linh thiêng của Mẹ. Gương mặt Mẹ sáng ngời, phong thái Mẹ uy linh, trái tim Mẹ nồng cháy lửa Mến Chúa, mắt Mẹ nhìn ngắm vẻ huy hoàng của thiên đàng. Mẹ trở nên xinh đẹp lộng lẫy, xem ra không còn phải là thụ tạo ở dưới đất nữa. Chính lúc ấy Mẹ sinh hạ Ngôi Lời Nhập Thể làm người. Ngài sinh ra giữa lúc nửa đêm vào ngày Chúa Nhật năm thứ 5199 từ khi sáng tạo.
Chúa sinh ra khỏi lòng Mẹ chẳng những không hề làm Mẹ tổn hại hay ô nhơ, mà còn thánh hiến đức trinh khiết của Mẹ, với nhiều rực rỡ hơn, như tia sáng mặt trời thấu qua thủy tinh thêm lộng lẫy. Chúa không phải lụy phục luật tự nhiên chút nào trong hoàn cảnh này, vì đã đầu thai hoàn toàn siêu nhiên thanh sạch. Thân xác Ngài huy hoàng rực rỡ vinh hiển như sau này khi biến hình trên núi Tabor. Thiên Chúa đã cho Mẹ nhìn thấy Ngài lần đầu tiên trong ánh sáng vinh hiển ấy, để Mẹ càng tôn kính Ngài hơn.
Hai vị Tổng Thần Gabriel và Micae nâng Ngài trên tay, khi Ngài vừa sinh ra và trao cho Mẹ khi thân mình Ngài chói lọi ánh sáng như Linh Mục nâng Bánh Thánh cho giáo dân thờ lạy sau khi truyền phép. Mẹ ẵm Con vào lòng trước mười ngàn Thiên Thần ngây ngất trước cảnh tượng đó. Các Ngài mặc hình người phủ phục thờ lạy Đấng Sáng Tạo làm người. Tất cả đều xướng lên ca ngợi Thiên Chúa khúc hát tân ca: "Sáng danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người lòng ngay".
Chính lúc này Mẹ lên tiếng gọi Thánh Giuse, lúc này Ngài đang xuất thần và diện kiến những mầu nhiệm đang thể hiện. Ngài đã tập trung giác quan vào đối tượng đầu tiên là nhìn thấy Hài Nhi Thiên Chúa đang nằm trên tay Mẹ. Ngài hạ mình thẳm sâu thờ lạy Chúa và kính cẩn hôn chân Chúa với niềm vui hạnh phúc. Thánh Giuse lấy khăn áo đưa cho Mẹ kính cẩn quấn cho Chúa và đặt trong máng cỏ. Trong lúc ấy theo lệnh Chúa, bò lừa tiến vào phủ phục quanh Ngài thở hơi ấm. 
Chúa và cây thánh giá
21. Chúa tỏ mình ra cho các mục tử :
Sau khi các Thiên Thần ca mừng Chúa ra đời làm người, một số các vị đi báo tin mừng cho nhiều nơi. Thánh Micae xuống ngục Tổ Tông báo tin cho Các Thánh niềm vui, nhất là Thánh Gioakin và Anna. Một Thiên Thần đến báo tin cho bà Elizabeth. Các Thiên Thần khác đến cùng Giacaria, Simêon, Tiên Tri Anna và cho các Đạo Sĩ. Các đoàn Mục Tử họ đã đến ngay đêm ấy để chiêm ngắm Thiên Chúa Cứu Tinh, lòng họ tràn ngập hân hoan và họ đi loan báo cho muôn người. Các Mục Tử còn đến bái lạy Chúa mấy lần nữa cho tới khi Thánh Gia đi khỏi. Giữa lúc Chúa mạc khải cho nhân loại, thì Ngài lại bắt quỉ phải về hỏa ngục, nên chúng không hề hay biết việc Đấng Cứu Thế ra đời. Khi Luxiphe nghe tin báo nó cũng rất an tâm, khi biết Mẹ sinh ra trong nơi hèn hạ như thế, không phải là việc của Đấng Cứu Thế được.
"Tóc vàng" - siêu mẫu châu Âu
22. Lễ Cắt Bì:
Thể theo luật dạy, Mẹ và Thánh Giuse đưa Con đến đền thờ để làm nghi thức cắt bì, mặc dù Chúa Hài Nhi thanh sạch không mắc tội Nguyên Tổ, nhưng để nêu gương trọng lề luật. Mẹ đã ẵm Con trên tay như một bàn thờ tế lễ Con mình. Mẹ lấy khăn lót dưới lưng để đón nhận những di tích và máu Con khi chịu cắt bì. Qua nghi lễ cắt bì Chúa Hài Nhi đã dâng hiến Chúa Cha Hằng Hữu 3 lễ vật cao quí là: Chính thân phận tội nhân Ngài mặc lấy - Sự đau khổ Ngài chịu như con người - Tình yêu nhân loại nồng nàn khiến Ngài đổ máu cứu chuộc họ. Ngài lại cảm tạ Chúa Cha cách nồng nàn, vì Cha đã cho Ngài một thân xác có thể chịu đau khổ vì danh Cha để lập công cộng tác vào việc cứu độ loài người. Sau khi lễ cắt bì hoàn tất, Mẹ đã dâng cho Thầy Tư Tế một cây nến để dùng vào việc tế lễ và vài đồ vật nhỏ nữa. Suốt thời gian Hài Nhi chịu đau đớn, Mẹ cũng cảm thông nên không rời Chúa khỏi vòng tay, để Chúa bớt cảm thấy đau đớn.
23. Tiếp kiến các nhà Đạo Sĩ:
Sau khi cắt bì cho Chúa, Thánh Giuse muốn bỏ hang đã mang nhiều bất tiện cho Chúa và Mẹ, nhưng Mẹ cùng các Thiên Thần tỏ ý cho biết Thiên Chúa muốn các nhà Đạo Sĩ tới thờ lạy Chúa nơi hang bò lừa này, nên Thánh Giuse biết ý nán lại chờ các Vương Quốc đến. Theo Thánh Kinh ba nhà Đạo Sĩ từ Ba Tư, Ả rập và Saba đi tới. Họ có ý niệm xác thực về Đấng Cứu Thế, nên khi các Thiên Thần đến báo tin, họ nhận thức rõ ràng hơn và thấy mình có trách vụ phải đi triều bái Chúa, nên họ không ngần ngừ lên đường có mang theo lễ vật dâng tế là vàng, nhũ hương và mộc dược.
Họ theo ngôi sao lạ đến Giêrusalem thì sao lặn mất, nên phải vào đền vua Hêrôđê dò hỏi nơi vua mới sinh ra. Hêrôđê không biết, nên triệu tập các Thượng Tế hỏi cho biết nơi vị Ấu Chúa mới sinh ra. Hêrôđê được biết sự thể sẽ xẩy ra, nên sai Ba Vua đi tìm và khi về ghé qua báo tin cho ông để ông cũng đến triều bái Ngài.
Tìm đến chính nơi ngôi sao đậu, họ thấy Chúa Hài Nhi và Mẹ, họ sấp mình bái kính suy tôn và dâng lễ vật. Cuộc triều bái kéo dài 3 giờ đồng hồ, rồi họ xin phép Mẹ đi tìm nơi tạm trú. Trong giấc ngủ, các Thiên Thần đến báo tin cho họ đi đường khác mà về xứ mình. Các Ngài về xứ, sống trong sự hạnh phúc và đức hạnh cho đến chết.
Sau những ngày các vua đến triều bái, Chúa cho một bà nghèo khó đến dâng cho Thánh Gia căn nhà nghèo của bà, để Thánh Gia trú tạm cho tới ngày dâng Chúa trong đền thờ. Còn hang đá thì Tổng Thần Micae sai một Thiên Thần canh giữ không cho một con vật nào vào đó.
Cây bao báp ở châu Phi
24. Dâng Chúa trong Đền Thờ:
Theo luật Moisen, khi bà mẹ sinh con trai đầu lòng, phải lên đền thờ để thi hành thủ tục thanh tẩy và dâng con cho Chúa. Mẹ cũng hoàn toàn vâng phục luật đó, cho dù Mẹ hoàn toàn thanh sạch. Tới ngày đã định, Mẹ và Thánh Giuse từ giã phụ nữ đạo hạnh đã cho Mẹ ở nhờ và tặng cho bà một phần số vàng dành để giúp người nghèo, rồi lên Giêrusalem cách đó hai dặm, để hiến dâng Ấu Chúa cho Thiên Chúa Cha trong đền thờ. Hàng vạn các Thiên Thần sáng láng làm thành đoàn rước, vừa đi vừa ca hát mừng Đấng Cứu Thế đi dâng mình.
Thượng Tế Simêon và Nữ Tiên Tri Anna được ơn soi sáng, đã tiến đến cửa đền thờ đón Ấu Chúa. Thánh Giuse được Chúa cho cảm thức niềm vui dạt dào, và lòng đầy hân hoan, khi Thượng Tế Simêon ãm Ấu Chúa nâng lên dâng cho Đức Chúa Cha. Ông nguyện rằng: "Xin Chúa cho con thác bình an, vì con đã được nhìn xem Đấng Cứu Chuộc dân Người". Ông còn nói: "Mẹ sẽ bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn vì con trẻ, nhưng cũng vì con trẻ mà nhiều dân tộc được đứng vững". Sau cùng bà Anna cũng nói lên nhiều điều mầu nhiệm, về ơn cứu chuộc cho tất cả những ai đợi chờ Ngài đến. Thánh Giuse cũng được Chúa Thánh Linh soi cho hiểu, về các lời tiên tri ấy, nhưng không hiểu thấu bằng Mẹ. Nghi lễ xong, Mẹ hôn tay vị Thượng Tế và bà Anna, người dạy dỗ Mẹ bao năm tháng trong đền thờ, rồi Mẹ trở lại nhà trọ.
Chúa là mục tử
25. Đem Con lánh nạn Ai Cập:
Sau nghi lễ dâng hiến Chúa, Mẹ ở lại Giêrusalem 9 ngày để tạ ơn. Bỗng đêm ấy là đêm thứ sáu, Thánh Giuse quằn quại mãi không ngủ được. Bỗng Tổng Thần Gabriel hiện đến truyền lệnh cho Ngài: "Hãy đem Con Trẻ và Mẹ Ngài sang nước Ai Cập lánh nạn. Và cứ ở đó cho tới khi Ta báo lại".
Ngay lúc ấy, Giuse tỉnh dậy vừa bàng hoàng vừa cẩn trọng, chạy đến nói với Mẹ về tin sửng sốt ấy. Mẹ tin tưởng và vâng nghe, đến ẵm con tức tốc lên đường giữa đêm khuya, đem theo con lừa nhỏ. Các Thiên Thần lại hiện ra tháp tùng dẫn Thánh Gia đi thẳng đường qua Hebron. Ở Hebron có nông trại của gia đình ông Giacaria và bà Elizabeth, Mẹ muốn ghé thăm ông bà nhưng Thánh Giuse không đồng ý, sợ rơi vào nguy hiểm. Mẹ chỉ được sai Thiên Thần đến báo tin cho ông bà hay về biến cố sẽ xẩy ra và khuyên ông bà cẩn trọng bảo toàn Gioan Tẩy Giả.
Tới gần Địa Trung Hải, Mẹ tạm nghỉ ở đây hai ngày, vì Thánh Giuse đã quá mệt và con lừa con cũng không còn đủ sức đi tiếp. Bà Elizabeth cho người chạy theo mang lương thực và các đồ dùng cho Mẹ, nhưng Mẹ dành để phân phát cho người nghèo.
Cứ như thế, Thánh Gia vượt qua hơn 60 dặm đường quanh co, cô quạnh, trước khi đến Cairô thủ đô của Ai Cập. Mẹ và Thánh Giuse đã chịu biết bao đau khổ nhọc nhằn, chịu cảnh màn trời chiếu đất trong cảnh trời đông, lương thực cũng hết, đến lúc phải phó mặc cho Chúa quan phòng giúp đỡ. Chúa sai các Thiên Thần đem lương thực đến cho Mẹ và Thánh Giuse, sai chim trời đến múa vui cho Chúa Hài Đồng.
Sau chuỗi ngày dong duổi dặm đường, Mẹ tới được Heliopoli mất 50 ngày trời. Nơi Ai Cập là phần đất nghèo, lại bị ma qủi hãm hại, nên Chúa đã ra tay xua đuổi ma qủi và cứu thoát nhiều người bị chúng ám hại.
Hồ Baikal (Nga)
26. Lưu lại Ai Cập:
Sau khi dừng ở lại một vài thành phố quan trọng như: Memphi, Matarie, gia đình Mẹ quyết định cư trú tại Heliopoli. Thánh Giuse mua được một căn nhà nghèo ở vùng ngoại ô, chẳng có đồ đạc gì theo ước muốn của Mẹ. Vừa vào nhà, Mẹ cúi hôn đất cách khiêm nhượng và cám ơn Chúa đã cho chỗ trú ngụ. Mẹ hứa sẽ chịu mọi cảnh thiếu thốn của một người di cư. Mẹ thu dọn nhà cửa, kiếm lương thực bố thí độ thân, vì Mẹ không muốn cầu xin ơn cứu độ của Chúa, như khi đi rong ruổi nơi sa mạc nữa.
Khi Thánh Giuse kiếm được việc làm, dành dụm được chút tiền, Thánh Giuse làm được cái phản cho Mẹ và Chúa Hài Nhi, còn Ngài thì nằm đất. Tuy nghèo nhưng Mẹ không hề tiếc nuối dĩ vãng, cũng không hề lo cho tương lai, chỉ một niềm hoan hỉ, bình thản và phó thác. Căn nhà có 3 gian, một phòng cho Mẹ và Ấu Chúa, một phòng cho Thánh Giuse và một phòng để làm việc. Mẹ sống tốt với người xung quanh, nên họ đã đem đến cho Mẹ nhiều việc làm không thiếu.
Ấu Chúa vạch cho Mẹ một chương trình: 9 giờ ngủ. Nửa đêm thức dậy cầu nguyện và suy gẫm tới sáng. Ban ngày làm việc suốt, vì Mẹ không muốn xin phép lạ để nuôi sống. Khi làm việc Mẹ quì bên nôi Chúa, vừa làm vừa vui với con, hát Thánh Vịnh cho con nghe. Thú giải lao êm dịu nhất của Mẹ là bồng ẵm Con Chí Ái, hoặc trao cho Thánh Cả  ẵm rồi đùa dỡn cho con vui.
Khi vừa đến, các ngẫu tượng và đền thờ của họ đều bị phá, khiến dân thành hoang mang không ít. Trái lại, Chúa cũng cứu giúp người ta và soi cho họ biết đường ngay nẻo chính. Mẹ cũng săn sóc cứu giúp những ai yếu đau bệnh tật nữa. Vì thế suốt 7 năm lưu lạc Mẹ làm rất nhiều sự lạ để giúp họ trở về. Ai Cập xứ nóng nên sinh ra nhiều bệnh tật, Mẹ phải xin Ấu Chúa cho phép Thánh Giuse được quyền làm phép lạ chữa bệnh cho họ, nên Thánh Giuse lo chữa nam giới, Mẹ chữa nữ giới và ai cũng được trở về lành mạnh cả xác lẫn hồn.
"Môi đỏ" - siêu mẫu Xuân Lan
27. Lệnh giết các con trẻ:
Tại quê nhà xẩy ra việc vua Herôđê tầm nã Ấu Chúa. Vì không tìm được, nên ông nổi giận đến sôi máu, ông ra lệnh giết hết các trẻ dưới 2 tuổi trong vùng Belem, với thâm ý là giết được cả Tân Vương Do Thái mới sinh ra. Thời gian ấy Mẹ đang  ẵm Chúa, Mẹ nhìn qua tâm hồn Chúa như một tấm gương soi, hiện đủ mọi chi tiết của tấm kịch đẫm máu. Các em đều được phúc tử đạo vì chết thay cho Ấu Chúa. Các Anh hồn ấy đều được các Thiên Thần dẫn xuống ngục Tổ Tông.
Chim thiên đường
28. Số phận Gioan:
Mẹ hỏi Chúa về số phận của Gioan cháu của Mẹ ra sao, thì Chúa cho biết: Tư Tế Giacaria qua đời sau khi Chúa sinh ra được 4 tháng, tức là gần 3 tháng sau khi Mẹ rời Giêrusalem đi Ai Cập. Bà Elizabeth được Thiên Thần báo tin, nên đem con trốn lên hang núi. Bà qua đời tại đó sau 3 năm sống giữa muôn ngàn thiếu thốn và tiện nghi. Còn Gioan phải ở lại đó cho tới khi ra đi làm sứ mệnh. Biết thế, nên Mẹ được Chúa cho phép sai Thiên Thần đem lương thực giúp cháu. Khi Thánh Nữ Elizabeth từ trần, các Thiên Thần đã an táng bà trong rừng và coi sóc con trẻ Gioan thay Mẹ, cho tới khi Gioan liệu được cho mình.
Erika Scheldt, 24 tuổi (Mỹ) khẳng định cô đã chụp được tấm ảnh một cá đuối gai độc trên lưng có hình ảnh của Chúa Jesus
29. Thiếu thời của Chúa:
Phần Chúa Giêsu vẫn là hạnh phúc bên Mẹ và Thánh Giuse trong cảnh lưu đầy. Theo ý Ấu Chúa, Mẹ chỉ sắm cho Ngài một cái áo và một đôi giầy theo kiểu người nghèo trong dân, vì Ngài muốn làm gương khó nghèo cho mọi người. Quần áo lớn lên với Chúa mà không bao giờ sờn rách, không dây vết, không phai màu. Chiếc áo mà Chúa Giêsu cởi ra, khi rửa chân cho các Môn Đệ, cũng có đặc tính y như áo mặc trong mình.
Khi Chúa lớn, Mẹ thường dọn cho Chúa 3 bữa ăn và chính Chúa làm phép, cầu nguyện trước và sau bữa ăn. Chúa dành nhiều thì giờ để cầu nguyện, có lúc đến rướm máu. Mẹ lau cho Chúa mới hiểu được Chúa buồn vì loài người tệ bạc.
Lên 6 tuổi, Chúa bắt đầu ra khỏi nhà để đi giúp người, nhất là người bệnh tật đau ốm. Lời nói khôn ngoan và phong cách của Chúa cũng chinh phục được nhiều người, họ cảm phục và mến yêu. Chúa lớn lên càng thêm tuổi càng thêm phong độ. Dung mạo Chúa in sâu những nét uy nghi cao cả, Chúa lại rất nhân từ và khôn ngoan thu hút lòng người.
Sa mạc
30. Cuộc sống trở về Nazareth:
Một hôm Sứ Thần đến báo tin cho Thánh Giuse đem Mẹ và Chúa Giêsu về thành Nazareth. Thế là Mẹ và Thánh Giuse đem hết của bố thí cho người nghèo, còn nhà cũng cho người ta ở. Lúc đi thế nào, lúc về thế vậy. Các Thiên Thần hộ tống Mẹ đi. Tới đâu Chúa và Mẹ thi ân tới đó. Sau cùng cũng tới được thành Nezareth quê hương mình. Căn nhà tổ tiên Mẹ để lại cho người bà con ba đời của Thánh Giuse coi giữ vẫn còn nguyên vẹn, không gì thay đổi. Vào nhà Mẹ sấp mình cảm tạ Chúa đã đưa gia đình Mẹ về bình an. Nhưng từ đây những sự thử thách mới sẽ đến với Mẹ. Chúa Giêsu có giọng nói cao kỳ, cứng cỏi, vẻ mặt nghiêm nghị bất ngờ của Chúa, đã trở nên lò lửa luyện lọc vàng tình yêu của Mẹ thêm tinh ròng hơn, rực rỡ hơn. Chúa Giêsu muốn Mẹ phải thử nếm đau khổ, cho tới mức đồng công được với Ngài trong việc cứu chuộc.
Năm lên 12 tuổi, Mẹ cùng gia đình lên dự lễ Vượt Qua suốt 7 ngày. Ngày cuối cùng khi trở về, Chúa Giêsu đưa Mẹ vào cuộc thị kiến, khiến giác quan Mẹ không còn cảm thấy những gì xẩy ra xung quanh nữa. Còn Thánh Giuse thì Chúa để Người chiêm ngắm và suy tưởng những sự trên trời, cứ tin rằng Chúa Giêsu đi với Mẹ. Cả ba đi đến cửa thành thì Chúa Giêsu lìa cha mẹ mà ở lại. Khi thôi chiêm niệm thì không thấy Chúa Giêsu đi với mình nữa. Mẹ nghĩ, Chúa Giêsu đi với Thánh Giuse, Thánh Giuse lại nghĩ Mẹ không thể lìa con, Với niềm tin đó cả hai cùng bình thản tiến bước suốt một ngày đường. Khi tới nơi hẹn gặp nhau qua đêm, Mẹ và Thánh Giuse mới ngỡ ra Chúa không đi với ai cả. Mẹ và Thánh Cả đau đớn không sao nói lên lời, ai cũng nhận lỗi tại mình mà lạc mất Chúa. Nỗi đau đớn càng gia tăng hơn cả khổ hình tử đạo, khi không tìm ra tông tích hỏi han. Hỏi các Thiên Thần thì không nói, trái lại Mẹ muốn đi nơi nào các ngài cũng ngăn cản, thế là Mẹ phải trở lại đền thánh. Thánh Giuse cũng hết sức đau buồn, nhất là thấy nỗi đau mất con của Mẹ. Cả hai cùng tiến vào đền thờ, thấy Ngài đang ngồi hội họp với các Luật sĩ, tranh hỏi, bàn luận về Đấng Cứu Thế. Khai quang cho họ, khiến mọi người phải thán phục. Còn Mẹ và Thánh Giuse thì quá đỗi ngạc nhiên và lòng tràn ngập hạnh phúc vì đã thấy được con. Mẹ quì xuống xin lỗi Chúa và xin Chúa đừng để vắng mặt Chúa nữa. Chúa rất hài lòng và hứa suốt thời gian còn lại cho tới khi phải vâng ý Chúa Cha sẽ tùng phục Mẹ.
Để Mẹ và Cha Thánh có đủ khả năng chỉ huy một Người Con cao trọng duy nhất loài người, Chúa ban cho Mẹ và Cha Thánh tràn ngập niềm vui thánh thiện, khi Chúa tuân nghe những lời Mẹ và Cha Thánh chỉ dạy và suốt những ngày còn lại, Chúa lại không ngừng hoàn thiện đến độ siêu việt, để hoàn thành tất cả các ân sủng: Nhiệt tâm, sốt sắng, sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết trong tâm hồn, chia sẻ và cộng tác vào công nghiệp của Chúa Cứu Thế.
Chúa còn mạc khải cho Mẹ hiểu thấu về toàn bộ Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, và thấu đáo ý nghĩa siêu nhiên về Giáo Hội và các Nhiệm Tích Thánh, trước cuộc giảng dạy công khai của Chúa Cứu Thế Con Mẹ. Chính Mẹ sẽ thực hành và sống đầy đủ trước khi mọi điều đó được hoàn thành, vì Mẹ là Nữ Vương của lề luật, của Giáo Hội, của Ân Sủng và Bí Tích. Cuộc đời Mẹ hòa nhập với Con Cứu Thế, cho đến khi Mẹ được 33 tuổi là tuổi hoàn bị, tuổi phát triển đầy đủ.
(Một số ảnh không liên quan đến nội dung bài viết)
Theo dongcong.net
"Ửng hồng" - người đẹp Đài loan Thái Y Lâm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét