Thứ Năm, 20 tháng 9, 2012

Luận giải về đoạn đầu của cuốn “Phê phán cương lĩnh Ghotha”

"Báo vằn" - siêu mẫu châu Âu
Nếu nó là slogan, hay chính là chủ nghĩa cộng sản thì có lẽ Marx sẽ không viết là "mới có thể ghi lên lá cờ của mình" mà ông phải đổi thẳng và khẳng định một cách chắc chắn: "chủ nghĩa cộng sản đỉnh cao là làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu". (ảnh không liên quan đến bài viết)

Gọi là luận giải thì hơi quá vì bản thân tôi cũng chưa thể coi là người đủ tầm để hiểu các tác phẩm của Marx được. Nhưng có một số bạn hỏi tôi về câu "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" có phải của Marx không, và nên hiểu như thế nào nên tôi chỉ xin mạn phép trình bày những sự hiểu của mình về câu đó, vậy nên bài này tôi viết cũng chỉ dừng ở câu đó, còn những đoạn sau của cuốn phê phán cương lĩnh Ghotha chúng ta sẽ từ từ bàn luận tiếp. Có thể tôi chưa hiểu chính xác 100% vì nếu hiểu chính xác 100% thì tôi đã là Marx rồi, không phải là tôi ngồi đây đọc sách của Marx. Nhưng tôi cũng chỉ xin trình bày một phần ý kiến của mình và tôi tin chắc là Marx còn hiểu và hiểu sâu sắc hơn tôi cái câu đó vì Marx là thiên tài, còn tôi chỉ là một người bình thường. Tôi cũng viết bài này cũng để gửi tặng anh em nghiên cứu trong diễn đàn lịch sử Việt Nam vì tôi đã thất hứa với họ quá lâu khi muốn viết bài này.

Trước hết tôi xin điểm qua câu nói trên: “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” thật ra trước Marx đã có người nói về câu này, đó là nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp Blance, ông sống cùng thời với Prudohn và có cùng quan điểm về chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp - quan điểm này khác với chủ nghĩa xã hội khoa học của Marx. Câu nói nổi tiếng của Blance là: “Làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu” (Các bạn có thể tham khảo trong cuốn nhập môn triết học Marx của tác giả Rius vì ông đã đề cập lại câu này). Còn câu nói của Marx là: “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” câu này xuất hiện sau câu nói của Blance và lần đầu tiên trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Ghotha”, sau này nhiều người sử dụng câu nói này của Marx như một câu Slogan cho chủ nghĩa cộng sản. Vậy thực chất câu nói này là như thế nào, chúng ta sẽ đi giải thích nó ngay bây giờ. Thực ra câu nói trên của Marx chỉ xuất hiện trong phần I của tác phẩm, vậy nên mình sẽ chỉ luận giải trong phần I của tác phẩm thôi. Còn các phần sau các bạn có thể thích thì nghiên cứu và tiến hành luận giải thêm.
Trước khi tiến hành luận giải mình muốn nói giới thiệu đôi chút về tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Ghotha” hay là “phê phán cương lĩnh Đảng Công nhân Đức”. Vậy trước tiên phải có cương lĩnh Ghotha rồi mới phê phán đúng không. Đúng là vậy, cương lĩnh Ghotha hay cương lĩnh Đảng công nhân Đức là cương lĩnh do phái Lassalle và đảng công nhân Đức soạn thảo. Tuy nhiên Marx lại phê phán cái cương lĩnh này vì sao bởi vì nó có quá nhiều thứ sai lầm và hiểu nhầm (Trích dẫn đôi chút Lassalle vừa là bạn, vừa là chiến hữu, vừa là học trò của Marx nhưng sau ngả theo trường phái của thủ tướng Đức là Bismarch để có một ghế trong cộng hòa Đại Nghị) Lassalle trích dẫn rất nhiều tư tưởng của Marx trong các tác phẩm của ông, nhưng trong thư Jenny và Marx gửi cho Engels thì Marx tỏ ra rất không đồng tình với các cách hiểu về các học thuyết của mình. Marx viết Phê phán cương lĩnh Ghotha ở đây là nhằm mục đích phê phán những sai lầm của Lassalle và đảng công nhân Đức trong quá trình soạn ra cương lĩnh này. Để đảm bảo tính trung thực của tác phẩm, vậy nên trong này, những đoạn nào thuốc tác phẩm Cương Lĩnh Ghotha của phái Lassalle thì tôi sẽ để chữ đậm và gạch chân. Những đoạn nào thuộc phê phán cương lĩnh Ghotha của Marx thì tôi sẽ chỉ để chữ in đậm thôi. Bây giờ chúng ta bắt đầu quá trình phân tích này.
1. "Lao động là nguồn của mọi của cải và mọi văn hoá, và vì lao động có ích thì chỉ có thể có được trong xã hội và do xã hội, cho nên thu nhập do lao động đem lại là thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội một cách không bị cắt xén, theo những quyền ngang nhau". 
Phần thứ nhất của đoạn này: "Lao động là nguồn của mọi của cải và mọi văn hoá". 
Lao động không phải là nguồn của mọi của cải. Giới tự nhiên, cũng như lao động, là nguồn của những giá trị sử dụng (vì của cải vật chất lại chính là gồm những giá trị này!) và bản thân lao động cũng chỉ là biểu hiện của một sức tự nhiên, sức lao động của con người. Câu này có ở trong mọi quyển sách vỡ lòng và nó chỉ đúng trơng chừng mực nó muốn nói rằng lao động được thực hiện với những đối tượng và công cụ thích ứng. Nhưng một cương lĩnh xã hội chủ nghĩa thì không được để cho những câu nói tư sản rỗng tuếch ấy bỏ qua những điều kiện mà chỉ có chúng mới có thể làm cho những câu nói ấy có nghĩa. Chỉ trong chừng mực mà con người ngay từ đầu đối xử với giới tự nhiên - nguồn gốc đầu tiên của mọi tư liệu lao động và đối tượng lao động - với tư cách là kẻ sở hữu; chừng nào mà con người đối xử với giới tự nhiên coi đó là một vật thuộc về mình thì chừng ấy, lao động của con người mới trở thành nguồn gốc của các giá trị sử dụng, do đó mới trở thành nguồn gốc của cải. Nhà tư sản có những lý do rất quan trọng để gán cho lao động cái sức sáng tạo siêu tự nhiên đó, vì chính là do lao động bị tự nhiên quyết định cho nên người nào không có sở hữu nào khác ngoài sức lao động của mình ra thì trong mọi trạng thái xã hội và văn hoá, đều nhất định sẽ phải làm nô lệ cho những kẻ khác nắm trong tay những điều kiện vật chất của lao động. Người đó chỉ có thể lao động và do đó chỉ có thể sinh sống, khi được những kẻ này cho phép.
Nhìn vào đoạn thứ nhất ta thấy một điều rõ ràng là Marx muốn nói ra rằng: khi nhận xét lao động không phải là nguồn của mọi của cải. Nếu nói trong điều kiện con người ngay từ đầu sử dụng giới tự nhiên (tức nguồn cung cấp mọi tư liệu lao động và đối tượng lao động) với vai trò người sở hữu thực sự giới tự nhiên thì lao động của họ mới là nguồn gốc của mọi của cải hay mọi giá trị sử dụng. Điều này có nghĩa là gì: bạn cứ xem xét thật kỹ nhé: Marx đã phân tích như đoạn đầu: “bản thân lao động cũng chỉ là biểu hiện của một sức tự nhiên - sức lao động của con người". Vậy cái tạo ra của cải ở đây là gì: đó là giới tự nhiên mà trong đó đã bao gồm cả lao động, đến đây ta có công thức sau: lao động + đối tượng lao động + tư liệu lao động = các giá trị sử dụng (cả 3 thứ lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động đều là nguồn gốc của giới tự nhiên cả).
Đây là một điều đúng, hãy nghĩ xem nếu bạn sống một mình trong khoảng không vũ trụ với hai bàn tay trắng thì liệu bạn có thể tạo ra giá trị sử dụng hay của cải không. Câu trả lời là rất rõ ràng đó là không, như vậy ngay câu đầu tiền của cương lĩnh Ghotha thì Lassalle đã sai khi khẳng định là lao động là nguồn của mọi của cải. Trở lại với lập luận của các nhà Tư sản, Marx cho thấy rằng lập luận đó hay thực tế đang thể hiện rất rõ bản chất tư sản: đó là dựa trên cơ sở để tạo ra của cải, thì nhà tư sản cho rằng lao động là bị tự nhiên quyết định - điều này lại là không đúng vì sao: vì lao động + tự nhiên = của cải, nhưng lao động ko có nghĩa là tự nhiên quyết định, vì bản thân chính lao động là một hoạt động có ý thức tác động vào giới tự nhiên để cải tạo tự nhiên theo sự phục vụ cho con người, đó là sự tha hóa của lao động. Như vậy của cải do lao động và giới tự nhiên tạo nên sẽ được quyết định bởi hai thứ: Một là điều kiện tự nhiên hay chính xác hơn là điều kiện lao động và hai là nhu cầu về các giá trị sử dụng của con người. Tuy nhiên tư sản bám vào cái lập luận lao động bị tự nhiên quyết định.
Điều này có nghĩa là sao: tức là người nào không sở hữu gì khác ngoài sức lao động của bản thân thì trong mọi trạng thái xã hội và văn hóa đều là nô lệ cho kẻ khác nắm các điều kiện vật chất của lao động. Như vậy đối với các giai cấp bị bóc lột do không sở hữu tư liệu sản xuất thì họ chỉ có thể lao động và lao động để sinh sống khi được những chủ sở hữu các tư liệu sản xuất cho phép mà thôi. Đó có thể là những người nô lệ hoặc cũng là những người vô sản.
Nhưng chúng ta hãy để cái mệnh đề ấy nguyên như thế, hay nói cho đúng hơn, cứ để nó khập khiễng như vậy. Thế thì kết luận sẽ phải như thế nào? Rõ ràng là phải kết luận như sau: 
"Vì lao động là nguồn của mọi của cải cho nên không một ai trong xã hội có thể chiếm hữu của cải bằng cách nào khác hơn là chiếm hữu sản phẩm của lao động. Vậy nếu kẻ nào tự mình không lao động thì kẻ đó sống nhờ vào lao động của người khác và cái văn hoá của hắn, hắn cũng phải nhờ vào lao động của người khác mới có được". 
Đáng lẽ như vậy thì người ta lại dùng những chữ "và vì" để thêm vào mệnh đề thứ nhất một mệnh đề thứ hai, đặng rút ra một kết luận từ mệnh đề thứ hai, chứ không phải từ mệnh đề thứ nhất. 
Đến đây Marx bảo nếu ta giữ nguyên cái lập luận của Lassalle thì sao: điều đó có nghĩa khi công nhận lao động là nguồn gốc của mọi của cải văn hóa trong xã hội vậy điều đó có nghĩa là gì. Điều đó có nghĩa là lao động cũng là một lực lượng xã hội và không ai có thể chiếm hữu riêng về lao động. Vậy nó là một lực lượng xã hội và là một phạm trù chung, không phải phạm trù riêng, vậy con người ta chiếm hữu cái gì của lao động. Đó là chiếm hữu các kết quả hay sản phẩm của lao động. Xem xét trên tính thực tế nhé: khi tôi lao động sản xuất ra cây lúa gạo và đem bán ra cho thị trường: thì người mua không thể chiếm hữu cái hoạt động lao động của tôi, vì bản thân nó là một cái trừu tượng mà cụ thể, nó trừu tượng vì nó tích lũy lại rồi trong các giá trị cụ thể, nó cụ thể vì cái hành động lao động đó đã bị tôi tiêu dùng rồi. Vậy nên xã hội, hay người mua chỉ có thể chiếm hữu cái gì: đó là chiếm hữu cái mà lao động đã tạo ra và kết tinh lại, đó là các sản phẩm của lao động mà cụ thể trong ví dụ này nó chính là lúa gạo. Toàn bộ nguyên văn cả câu của Lassalle: “…và vì lao động có ích thì chỉ có thể có được trong xã hội và do xã hội, cho nên thu nhập do lao động đem lại là thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội một cách không bị cắt xén, theo những quyền ngang nhau". Ở đây Marx đã phân tích rằng cái kết luận của phái Lassalle là cho nên thu nhập lao động đem lại thuộc về tất cả các thành viên trong xã hội một cách không bị cắt xén là kết quả của nguyên nhân là do lao động có ích thì chỉ có được trong xã hội và do xã hội. Chứ không phải là kết luận do lao động là nguồn gốc của mọi của cải và văn hóa. Điều này do cấu trúc ngữ pháp với cặp từ nối “và vì”. Đến đây ta kết thúc đoạn 1 chuyển sang phân tích đoạn thứ 2 bắt đầu từ mệnh đề lao động có ích.
Phần thứ hai của đoạn này: "Lao động có ích thì chỉ có thể có được trong xã hội và do xã hội". 
Theo mệnh đề thứ nhất, lao động là nguồn của mọi của cải và mọi văn hoá, vậy không có lao động thì không thể có một xã hội nào cả. ấy thế mà ngược lại, chúng ta lại được biết rằng không có xã hội thì không thể có một lao động "có ích" nào cả. 
Thế thì người ta cũng rất có thể nói rằng chỉ có trong xã hội thì lao động vô ích và thậm chí có hại cho xã hội mới có thể trở thành một ngành công nghiêp; rằng chỉ có trong xã hội, người ta mới có thể sống mà không lao động, v.v... và v.v..., - tóm lại là chép nguyên văn Rousseau. 
Marx bắt đầu đi từ phân tích câu: Lao động có ích thì chỉ có thể có được trong xã hội và do xã hội. Trong khi đó ở mệnh đề 1 thì lao động là nguồn gốc của mọi của cải và văn hóa. Vậy tức là không có lao động thì không có xã hội, nhưng đến về sau thì không có xã hội thì không có một lao động có ích nào cả. Rõ ràng ông đã chỉ ra cái mâu thuẫn ngay trong mệnh đề 1 và 2 của phái Lassalle. Như vậy mọi lao động khi chưa có xã hội đều là vô ích chăng, và chỉ có trong xã hội thì lao động vô ích và có hại cho xã hội thì sao. Tức là trước khi thành lập xã hội thì mọi lao động là vô ích, còn khi đã có xã hội thì các lao động vô ích này bị triệt tiêu, tức ta ko lao động nữa vì lao động là vô ích, vậy nhờ xã hội mà người ta có thể sống mà không lao động. Cái mâu thuẫn rất rõ ràng : vì lao động có trước và tạo nên xã hội ở mệnh đề 1, sau đó có xã hội nên mới có lao động có ích, vậy trước đó toàn là lao động vô ích, mà đã là lao động vô ích thì sẽ không lao động nữa vì hiệu suất là 0% nếu không muốn nói là có thể còn âm. Như vậy sau khi có xã hội thì mọi lao động đã tồn tại trước đó đều bị triệt tiêu vì nó là vô ích.
Và lao động "có ích" là gì ? Chỉ có thể là thứ lao động nào đem lại hiệu quả có ích mà người ta đã dự tính. Một con người mông muội - và con người là một người mông muội khi họ không còn là con khỉ nữa - dùng đá ném chết một con thú, hái lượm hoa quả, v.v..., tức là họ đã làm một lao động "có ích". 
Đến đây Marx đã giải thích luôn: vậy lao động có ích là gì, nếu chỉ nói lao động có ích một cách sơ sài như phái Lassalle thì rõ ràng chúng ta thấy nó quá mâu thuẫn. Marx đã chỉ ra cặn kẽ đó là một thứ lao động mà đem lại hiệu quả có ích mà người ta đã dự tính. Nếu ai đã đọc Tư Bản luận của Marx thì chắc chắn còn nhớ ông phân biệt rất kỹ lao động và hành vi bản năng của loài thú. Nếu như con ong xây tổ, con nhện bắt mồi thì đó cũng là hoạt động theo tính bản năng, dù hoạt động đó có khiến cho bao nhiêu kỹ sư kiến trúc sư thán phục vì kết cấu vật lý tuyệt vời của tổ ong hay vật liệu bền bỉ của tơ nhện. Nhưng khác với con vật, loài người, thậm chí một con người mông muội lao động là khi họ đã có ý thức, vậy nên dù hái lượm hay ném đá chết thú là những lao động vô cùng giản đơn thì trong con người đã có những ý thức phải làm để phục vụ cho mình, họ ý thức được phải làm và làm thế nào để hiệu quả nhất.. Vậy dù cho lúc chưa hình thành xã hội, con người chỉ sống một cách có bày đàn, thì họ cũng đã biết lao động rồi. Và đánh giá tính có ích của lao động là dựa trên hiệu quả mà người ta dự tính có đạt được bao nhiêu phần trăm. Tức là ngay từ khi biết lao động thì con người ta đã phân ra được lao động có ích và lao động vô ích. Tức là lao động có ích là cái tồn tại trước khi có xã hội. Đến đây ta thấy mệnh đề thứ 2 của phái Lassalle là sai.
Phần thứ ba: Kết luận: "Và vì lao động có ích thì chỉ có thể có được trong xã hội và do xã hội cho nên thu nhập do lao động đem lại là thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội một cách không bị cắt xén, theo những quyền ngang nhau". 
Kết luận thật hay! Nếu lao động có ích thì có thể có được trong xã hội và do xã hội thì thu nhập do lao động đem lại là thuộc về xã hội - còn thuộc về phần người lao động riêng lẻ thì chỉ còn lại những gì không cần thiết cho sự duy trì "điều kiện" của lao động, tức là duy trì xã hội mà thôi. 
Điểm vô lý mà Marx chỉ ra ở đây là sao: theo kết luận trên thì ta có thể dễ dàng thấy được đó là nếu lao động có ích thuộc về xã hội, thì cái thuộc về người lao động riêng lẻ là gì: là gồm lao động không có ích, vậy nếu đã là lao động không có ích thì làm sao sử dụng được, vì mọi lao động có ích mà có ích cho sự duy trì điều kiện của lao động thuộc về xã hội rồi.
Và thật vậy, trong mọi thời đại, nhứng kẻ bảo vệ cho mỗi trật tự xã hội nhất định đều nêu lên luận điểm đó. Trước hết là những tham vọng của chính phủ với tất cả những cái gắn liền vào chính phủ đó, vì chính phủ là cơ quan của xã hội để duy trì trật tự xã hội; rồi đến các loại tham vọng của những kẻ sở hữu tư nhân vì các loại sở hữu tư nhân đều là cơ sở của xã hội, v.v... Như người ta thấy, những câu rỗng tuếch ấy có thể tha hồ lật đi lật lại theo nghĩa nào cũng được.
Bức bích họa "Thánh mẫu thăng thiên" trên trần một nhà thờ ở Ý.
Cái luận điểm đó của phái Lassalle ngay từ đầu đã thể hiện tính chất mâu thuẫn của nó, nếu coi lao động có ích thuộc về xã hội thì sao, nó sẽ chỉ thuộc về 2 cái chính : 1 là chính phủ hay nhà nước là cơ quan để duy trì trật tư xã hội và hai là những kẻ sở hữu tư nhân vì xét cho đến cùng xã hội có giai cấp thì các loại tư hữu đều là cơ sở của xã hội. Vậy nên câu nói đó dù nói trong chế độ phong kiến cũng đúng, chế độ chiếm hữu nô lệ cũng đúng mà trong cả chế độ tư bản cũng đúng, đó đâu phải là câu nói chỉ dành riêng cho chế độ cộng sản chủ nghĩa.
Chỉ có viết như sau đây thì giữa phần thứ nhất với phần thứ hai của đoạn này mới có một hợp lý nào đó: "Lao động là nguồn của của cải và của văn hoá, chỉ khi nào nó là lao động xã hội", hay nói như thế này cũng vậy: "khi nó được tiến hành trong xã hội và do xã hội". 
Luận điểm này rõ ràng là đúng, vì lao động riêng lẻ (giả sử những điều kiện vật chất của nó là có đủ) cũng có thể tạo ra những giá trị sử dụng nhưng lại không thể tạo ra của cải, cũng không thể tạo ra văn hoá được. 
Như vậy Marx đã sửa lại câu nói của Lassalle theo một cách đúng hơn đó là lao động là nguồn của cải văn hóa chỉ khi nó là lao động xã hội. Một luận điểm này là đúng vì nếu xét đối với trường hợp Robinson trên đảo hoang, anh ta cũng có lao động, cũng tạo ra giá trị sử dụng nhưng anh ta lại không tạo ra các của cải hay văn hóa nào cả, đó là một điều tất yếu.
Nhưng một luận điểm khác sau đây cũng không còn phải bàn cãi gì nữa: "Lao động càng phát triển lên thành lao động xã hội và do đó trở thành nguồn của của cải và của văn hoá thì sự nghèo khổ và cảnh sống vất vưởng lại càng phát triển ở phía người lao động, còn của cải và văn hoá lại ngày càng phát triển ở phía kẻ không lao động". 
Đó là quy luật của toàn bộ lịch sử từ xưa đến nay. Cho nên, thay vào những câu nói rỗng tuếch chung chung về "lao động" và "xã hội" thì ở đây, cần phải chỉ ra một cách rõ ràng là trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện nay, những điều kiện vật chất và những điều kiện khác khiến người lao động có thể và bắt buộc phải đập tan cái tai hoạ lịch sử ấy, rốt cuộc đã được tạo ra như thế nào. 
Nhưng ông cũng chỉ ra cái mâu thuẫn nằm trong quy luật lịch sử từ xưa đến nay, là dù lao động là nguồn của cải văn hóa thì sự nghèo khó và cảnh sống vất vưởng lại càng phát triển ở phía người lao động. Trái lại không phải của cải và văn hóa thuộc về người lao động mà nó thuộc về những kẻ không lao động. Tại sao lại như vậy, nếu xét trong xã hội từ chiếm hữu nô lệ cho đến phong kiến rồi tư bản chủ nghĩa, chúng ta đều thấy thứ nhất: phần lớn của cải thuộc về những kẻ nắm điều kiện của lao động chứ không phải thuộc về người lao động, ở đó người lao động chỉ tồn tại và được lao động khi được sự cho phép của những kẻ sở hữu các điều kiện của lao động. Và vì thế cái văn hóa, xã hội nảy sinh ra cũng là văn hóa xã hội của những kẻ không lao động, chứ không phải văn hóa của kẻ không lao động phụ thuộc vào sự nảy sinh văn hóa của người lao động : ta có thể thấy rõ mọi văn hóa đều là văn hóa của chủ nô, văn hóa của địa chủ và văn hóa tư sản, không có cái nào là văn hóa của nô lệ, của nông nô hay văn hóa của vô sản cả.
Nhưng trên thực tế, cả đoạn này, một đoạn không thành công về hình thức và sai lầm về nội dung, đã được đưa vào chỉ là để người ta có thể ghi lên trên lá cờ của đảng, như kiểu một khẩu hiệu, cái công thức của phái Lassalle: "thu nhập không bị cắt xén của lao động". Sau này, tôi sẽ trở lại vấn đề "thu nhập của lao động", "quyền ngang nhau", v.v..., vì ở đoạn dưới cũng vẫn điều đó sẽ quay trở lại dưới một hình thức hơi khác.”
Như vậy đến đây Marx đã kết luận là sự không chỉ dùng từ ngữ một cách sai lầm mà ngay cả việc hiểu sai từ bản chất của lao động của phái Lassalle. Sự hiểu sai này khá phổ biến bởi nó không vượt ra khỏi cái giới hẹn chật hép của quyền tư hữu tư sản hiện nay.
2. "Trong xã hội hiện nay, tư liệu lao động là độc quyền của giai cấp các nhà tư bản; tình trạng lệ thuộc, do tình hình đó đẻ ra, của giai cấp công nhân của cảnh khốn cùng và cảnh nô dịch dưới tất cả các hình thức của nó". 
Luận điểm này, mượn trong Điều lệ của Quốc tế, dưới cái hình thức tái bản "có sửa chữa" đó, là sai lầm. Trong xã hội hiện nay, tư liệu lao động là độc quyền của bọn địa chủ (sự độc quyền về sở hữu ruộng đất thậm chí còn là cơ sở của sự độc quyền tư bản) và của các nhà tư bản. Điều lệ của Quốc tế, trong đoạn nói đó, không nói đến giai cấp bọn độc quyền nào cả. Bản Điều lệ ấy nói đến "sự độc quyền về tư liệu lao động nghĩa là về những nguồn sinh sống"; những tiếng: "về những nguồn sinh sống" thêm vào như thế là đủ chỉ cho người ta thấy rõ rằng ruộng đất cũng được gộp vào trong sổ các tư liệu lao động. 
Người ta đã sửa lại như thế là vì Lassalle, với những lý do mà ngày nay mọi người đều biết rõ, chỉ công kích giai cấp các nhà tư bản thôi, chứ không công kích bọn địa chủ. ở Anh, thường nhà tư bản lại không phải là người sở hữu miếng đất trên đó xưởng máy của hắn được xây dựng. 
Điểm sai lầm tiếp theo đó là Marx khẳng định là việc độc quyền về tư liệu lao động không chỉ nằm trong tay các nhà tư bản mà còn nằm trong tay cả địa chủ. Nếu ai đã nghiên cứu lý luận về địa tô của Marx thì đều hiểu rằng nhà tư bản hoạt động trên một khu vực đất và phải trả cho chủ sở hữu đất hàng năm một khoản của giá trị thặng dư mà hắn có. Vậy nên nếu chỉ cho rằng tư liệu lao động là độc quyền của tư bản là sai lầm, vì bản thân chính đất đai cũng là một phần rất quan trọng của các tư liệu lao động mà.
3. "Sự giải phóng lao động đòi hỏi phải nâng tư liệu lao động lên thành tài sản chung của xã hội và phải điều tiết một cách tập thể toàn bộ lao động, đồng thời phân phối một cách công bằng thu nhập của lao động". 
"Nâng tư liệu lao động lên thành tài sản chung"! Cái đó ắt phải có nghĩa là: "biến thành tài sản chung". Nhưng ở đây, chỉ nói qua thế thôi. 
"Thu nhập của lao động" là cái gì? Là sản phẩm của lao động hay là giá trị của sản phẩm đó? Và nếu là giá trị của sản phẩm thì đó là toàn bộ giá trị của sản phẩm hay chỉ là phần giá trị mà lao động đã thêm vào giá trị của những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng? 
Ở đây mọi người học Marx đều biết rằng nếu ta có thu nhập của lao động, vậy thu nhập lao động đó là sản phẩm của lao động hay là giá trị của sản phẩm đó. Nếu là giá trị của sản phẩm đó thì đó là toàn bộ giá trị của sản phẩm hay chỉ là một phần giá trị, hơn nữa ta đều hiểu giá trị sản phẩm của lao động là gì, nó là w = c + v + m. Với c là giá trị của những tư liệu đã sản xuất rồi, vậy nếu cho cả ta xén vào cả phần c nữa thì làm sao để tái sản xuất những tư liệu sản xuất vậy. Vậy nên nói “thu nhập của lao động” ngay từ đầu nó đã là một khái niệm khá mơ hồ rồi và không hề có một ý nghĩa kinh tế nào cả.
"Thu nhập của lao động" là một ý niệm mơ hồ mà Lassalle đưa ra để thay thế cho những khái niệm kinh tế nhất định. 
Phân phối "công bằng" nghĩa là gì ? 
Nhà tư sản há chẳng khẳng định rằng sự phân phối hiện nay là "công bằng" đó sao? Và quá vậy, trên cơ sở phương thức sản xuất hiện nay thì đó há chẳng phải là sự phân phối duy nhất "công bằng" hay sao? Phải chăng những quan hệ kinh tế là do những khái niệm pháp lý điều tiết hay ngược lại, những quan hệ pháp lý lại phát sinh từ những quan hệ kinh tế? Những môn phái xã hội chủ nghĩa há cũng chẳng đã có những quan niệm hết sức khác nhua về sự phân phối "công bằng" hay sao? 
Ở đoạn này cái Marx phê phán trước hết nằm ở ngay chính các khái niệm vô cùng mơ hồ mà phái Lassalle đã đưa ra. Thu nhập lao động là gì, trong tất cả mọi khái niệm hay mọi định nghĩa kinh tế chúng ta đều vẫn không nghe thấy thu nhập lao động là gì. Thứ hai là phân phối công bằng, phân phối công bằng là sao, phân phối thế nào, chúng ta đều biết trong mọi nền sản xuất thì các quá trình phân phối, trao đổi và tiêu dùng đều chỉ là kết quả của cái nền sản xuất đó. Mà kết quả của nền sản xuất đó thì sao, nó phụ thuộc vào chính cơ sở của phương thức sản xuất đó. Vậy nếu nói công bằng thì nghĩa là sao, bản thân sự phân phối công bằng sinh ra từ chính những quan hệ kinh tế hiện nay, vậy nếu bảo muốn phân phối công bằng theo kiểu nào, ta phải căn cứ dựa trên chính những quan hệ kinh tế đã phát sinh. Như vậy ngay cả CNTB cũng đang phân phối rất công bằng đó chứ, công bằng trong chính cái khuôn khổ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà thôi.
Muốn biết chữ phân phối "công bằng" ở đây có nghĩa là gì, chúng ta phải đem đối chiếu đoạn thứ nhất với đoạn này. Đoạn này giả định một xã hội trong đó "phải nâng tư liệu lao động lên thành tài sản chung của xã hội và phải điều tiết một cách tập thể toàn bộ lao động", còn đoạn thứ nhất thì lại cho ta thấy rằng "thu nhập của lao động là thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội một cáhc không bị cắt xén, theo những quyền ngang nhau". "Thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội" ư? Kể cả những kẻ không lao động ư? Thế thì còn đâu là cái "thu nhập không bị cắt xén của lao động" nữa? Nó chỉ thuộc về những thành viên có lao động trong xã hội thôi ư? Thế thì cái "quyền ngang nhau" của tất cả mọi thành viên trong xã hội sẽ ra sao? 
Thứ nhất, nếu trong xã hội cộng sản chủ nghĩa phân phối công bằng theo kiểu Lassalle là thế nào, đó là lao động phải thuộc về các thành viên trong xã hội. Cái sự công bằng này đã bao gồm cả cái không công bằng: đó là sao: nó thuộc về cả nhũng thành viên không lao động ư. Trong cái công bằng đó là ẩn chứa cái không công bằng một cách rõ ràng rồi. Như vậy thế đau còn cái gọi là thu nhập không bị cắt xén nữa bởi bản thân nó đã bao gồm cái phần bị cắt xén cho những kẻ không lao động rồi. Marx phê phán cái xã hội tư sản vì sao: vì nó bị cắt xén quá nhiều cho những kẻ không lao động, nhưng ngay trong chính cương lĩnh của đảng công nhân Đức thì nó cũng không vượt ra khỏi cái giới hạn chật hẹp Tư bản chủ nghĩa, hãy nhìn vào cách chúng ta thực hiện chủ nghĩa xã hội những năm 1975-1986, ta phân phối một cách cào bằng, bình quân, vậy nên người lao động cũng hưởng như người không lao động, người làm ít cũng như người làm nhiều, vậy bản thân cái thu nhập đó đã bị cắt xén và cái quyền ngang nhau đó cũng chỉ là hình thức bởi nội dung của nó chính là một cái quyền không ngang nhau rồi.
Nhưng mấy chữ "tất cả mọi thành viên trong xã hội" và "quyền ngang nhau" rõ ràng chỉ là những cách nói thôi. Thực chất của vấn đề là: trong xã hội cộng sản chủ nghĩa ấy, mỗi người lao động phải nhận được, theo kiểu Lassalle, "thu nhập không bị cắt xén của lao động" của mình. 
Trước hết, chúng ta hãy lấy từ ngữ "thu nhập của lao động" theo nghĩa là sản phẩm của lao động, như thế thì thu nhập tập thể của lao động sẽ có nghĩa là tổng sản phẩm xã hội. 
Trong tổng sản phẩm đó, phải khấu đi: 
Một là: phần để thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng. 
Hai là: một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất. 
Ba là: một quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm để phòng những tai nạn, những sự rối loạn do các hiện tượng tự nhiên gây ra, v.v... 
Những khoản khấu trừ như thế vào "thu nhập không bị cắt xén của lao động" là một tất yếu kinh tế, và khấu trừ nhiều hay ít là tuỳ theo những tư liệu và những lực lượng hiện có, một phần là nhờ lối tính xác suất, nhưng dù sao người ta cũng không thể dựa vào sự công bằng để tính những khoản khấu trừ đó được. 
Trước hết Marx cho rằng không thể nói một cách sáo rỗng được, mà ta phải đi vào thực tế, giả sử nếu cho rằng thu nhập của lao động theo nghĩa là sản phẩm của lao động thì thu nhập tập thể của lao động cũng có nghĩa là tổng sản phẩm xã hội. Như vậy khi đã có tổng sản phẩm xã hội thì phần đầu tiên bị cắt xén chính là phục vụ 3 cái khấu trừ trên: thay thế các tư liệu sản xuất đã tiêu dung, mở rộng sản xuất, và lập quỹ dự trữ, bảo hiểm. Bản thân cái thu nhập lao động đó tất yếu phải bị khấu trừ đi vì sao: vì nó là tất yếu của mỗi một quá trình tái sản xuất mở rộng. Và sự tính toán các khoản khấu trừ này không phụ thuộc vào sự công bằng mà nó phụ thuộc vào những tư liệu và lực lượng lao động hiện có với tỷ lệ phần tram các rối loạn, tai nạn… Vậy thu nhập lao động đã bị cắt xén một phần rồi.
Còn lại phần kia của tổng sản phẩm thì dành làm vật phẩm tiêu dùng. 
Trước khi tiến hành phân phối cho cá nhân, lại còn phải khấu trừ:
Một là: những chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về sản xuất. 
So với xã hội hiện nay, phần này sẽ lập tức bị thu hẹp lại hết sức nhiều và xã hội mới càng phát triển thì phần đó sẽ càng giảm xuống. 
Hai là: những khoản dùng để cùng chung nhau thoả mãn những nhu cầu, như trường học, cơ quan y tế, v.v... 
Phần này lập tức tăng lên khá nhiều so với xã hội hiện nay, và xã hội mới càng phát triển thì phần đó lại càng tăng lên. 
Ba là: quỹ cần thiết để nuôi những người không có khả năng lao động, v.v..., tóm lại là những cái thuộc về việc mà ngày nay, người ta gọi là cứu tế xã hội của nhà nước. 
Cuối cùng, bây giờ mới tự "sự phân phối" - mà bản cương lĩnh này, do ảnh hưởng của Lassalle, chỉ bàn đến nó một cách thiển cận, - nghĩa là bây giờ, mới tới cái phần những vật phẩm tiêu dùng đem chia cho cá nhân những người sản xuất của tập thể.
Thứ hai, thu nhập của lao động cá nhân là cái mà cá nhân được tiêu dùng thực sự, bên cạnh việc bị cắt xen cho 3 cái khấu trừ trên thì nó cũng phải phải khấu trừ cho những chi phí quản lý xã hội chung như nhà nước và pháp luật (xã hội càng phát triển thì phần này càng giảm đi), cho những nhu cầu chung như trường học y tế (phần này ngược với phần trên), và quỹ cho những người không có khả năng lao động, cái mà các bạn vẫn thường nói là phúc lợi xã hội và cứu tế xã hội. Như vậy để đến tay người lao động thì mỗi thu nhập lao động cá nhân đã bị cắt xén rồi, sao lại có thể bảo là không bị cắt xén.
"Thu nhập không bị cắt xén của lao động" bỗng nhiên đã biến thành "bị cắt xén", mặc dầu cái mà người sản xuất, với tư cách là cá nhân, bị mất đi thì với tư cách là thành viên của xã hội, người đó lại nhận được một cách trực tiếp hay gián tiếp. 
Giống như từ ngữ "thu nhập không bị cắt xén của lao động" trước kia đã biến mất thì giờ đây, từ ngữ "thu nhập của lao động" nói chung cũng biến mất. 
Nhưng cái Marx chỉ ra rằng: thực ra vốn nó không phải là cắt xén, mà cái người sản xuất mất đi với tư cách là cá nhân thì giờ anh ta nhận lại với tư cách là thành viên xã hội một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Khác với các lý luận tư sản: Marx cho rằng: cái lợi ích tập thể nó tồn tại một cách biện chứng và lồng ghép với lợi ích cá nhân, hay nói cụ thể hơn ngay trong lợi ích tập thể thì cái lợi ích cá nhân đã tồn tại rồi, cái này bao lấy cái kia theo kiểu tập hợp vậy. Có lợi ích tập thể thì lợi ích cá nhân sẽ có và càng lớn, nhưng ngược lại thì lợi ích cá nhân lại càng bé.
Trong một xã hội tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì những người sản xuất không trao đổi sản phẩm của mình; ở đây, lao động chi phí vào sản phẩm cũng không biểu hiện ra thành giá trị của những sản phẩm ấy, bởi vì giờ đây, trái với xã hội tư bản chủ nghĩa, lao động của cá nhân tồn tại - không phải bằng một con đường vòng như trước nữa mà là trực tiếp - với tư cách là một bộ phận cấu thành của tổng lao động. Như vậy, từ ngữ "thu nhập của lao động" - ngay hiện nay, từ ngữ này cũng đã không thể thừa nhận được nữa, vì tính chất mơ hồ của nó - lúc đó sẽ không còn có nghĩa gì nữa. 
Điều này có nghĩa là sao: tức là ở đây Marx đã chỉ ra rất rõ, nếu một xã hội tổ chức trên nguyên tắc chủ nghĩa tập thể thì những người sản xuất không trao đổi sản phẩm của mình, vậy tức là sao? Đây là một đoạn khá khó hiểu - tôi sẽ cố gắng hết sức để diễn tả cho rõ, bởi lẽ chúng ta phải hiểu một cách chắc chắn thế này: không trao đổi sản phẩm tức là nó khác hoàn toàn với cái nền sản xuất mới đi lên kinh tế hàng hóa năm xưa: người sản xuất ra bao nhiêu hàng hóa thì đem ra thị trường trao đổi bấy nhiêu, vậy nên anh làm ra bao nhiêu lao động thì thu nhập sản phẩm của anh là bấy nhiêu lao động. Nhưng nó cũng không có nghĩa là triệt tiêu kinh tế hàng hóa và trao đôi sản phẩm, điều quan trọng Marx không hề nói đến cái triệt tiêu kinh tế hàng hóa ở đây. Nhiều người hiểu nhầm thành cái gọi là triệt tiêu kinh tế hàng hóa và quay lại như thời cộng sản nguyên thủy và chúng ta làm cái gì cũng đóng góp chung hết. Hiểu thế càng lại nhầm Marx, ý của Marx rất rõ ràng: trong cái xã hội đó thì sản phẩm của lao động không phải là tồn tại cá nhân là ai làm sản phẩm nào bán sản phẩm đó mà nó là một nền sản xuất lớn, ví dụ như: 1 nhà máy do 1000 công nhân sản xuất ra 1 triệu đôi giày thì chẳng có 1 đôi giày nào hay sản phẩm lao động bất kỳ nào thuộc về chỉ riêng lẻ một người công nhân cả. Người ta không thể phát cho mỗi người công nhân 1000 đôi giày được rồi bảo về đem bán đi, nếu nhìn vào trong cái nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ta đã thấy sự sản xuất kế hoạch rồi, chỉ khác là trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thì những sản phẩm của lao động đó nó thuộc về cái gì, nó thuộc về nhóm nhỏ các nhà tư bản, còn trong hình thái cộng sản chủ nghĩa nó thuộc về tất cả mọi người lao động của cái nhà máy đó. Còn trong xã hội tư bản thì lao động cá nhân được thể hiện dưới hình thái giá trị hay tư bản, tức nhà tư bản bỏ tiền ra mua sức lao động của người công nhân để họ lao động cho mình, việc buôn bán sức lao động này đã làm cho lao động chi phí vào trong sản phẩm tồn tại dưới cái hình thức giá trị của sản phẩm hay bộ phận cấu thành V tức tư bản khả biến trong công thức W = C + V + M. Việc không còn mua bán lao động hay sức lao động thì lao động cá nhân không phải biểu hiện gián tiếp thông qua tiền công mà nó là kiểu biểu hiện trực tiếp thành tổng lao động xã hội, cũng không phải biểu hiện thông qua việc tư hữu nhỏ lẻ và bán hàng nhỏ lẻ như tôi đã phân tích ở trên. Điều này có nghĩa là xã hội cộng sản chủ nghĩa thì nó vẫn còn trao đổi, nhưng đó là sự trao đổi giữa các tập thể lao động chứ không phải giữa từng cá nhân hay giữa các ông chủ tư bản với nhau hay giữa ông chủ tư bản và người bán lao động làm thuê. Và mọi sự trao đổi đó vẫn trên nguyên tắc giá trị vì nó cấu thành cái bộ phận của tổng lao động xã hội. Và vì như vậy khi một nền sản xuất đại kế hoạch trong một thị trường kế hoạch đại diện cho mức phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản (nếu đọc Tư bản ta đều nhận thấy một trong những mâu thuẫn lớn nhất của chủ nghĩa tư bản là một nền sản xuất đại kế hoạch mâu thuẫn với chính một thị trường tự do). Đến đây chính cái mơ hồ của thu nhập của lao động cũng đã không thể thừa nhận được nữa rồi. Nhưng đó là chỉ là cái xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển cao, trên cơ sở của công hữu cộng sản chủ nghĩa. Cái khó khăn với những người không đọc Marx là nằm ở cái khi ông nói ở đây chúng ta thường hiểu nhầm là ngăn song cấm chợ, là triệt tiêu kinh tế hàng hóa ngay chính trên cái phương thức sản xuất mà ta vẫn đang đi tới.
"Sương mù" - Hot girl Việt Nam
Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra. Vậy một khi đã khấu trừ các khoản đi rồi, mỗi một người sản xuất nhận được trở lại vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp cho xã hội. Cái mà anh ta đã cống hiến cho xã hội là lượng lao động của cá nhân anh ta. Ví dụ, ngày lao động xã hội là tổng số những giờ lao động cá nhân. Thời gian lao động cá nhân của mỗi một người sản xuất là cái phần ngày lao động xã hội mà người đó đã cung cấp, cái phần anh ta đã tham gia trong đó. Anh ta nhận của xã hội một cái phiếu chững nhận rằng anh đã cung cấp một số lao động là bao nhiêu (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta làm cho các quỹ xã hội) và với cái phiếu ấy, anh ta lấy ở kho của xã hội ra một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với một số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp. Cùng một số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này thì anh ta lại nhận trở lại của xã hội dưới một hình thức khác. 
Trở lại phần này, cái mà Marx nói tới trước hết nó là cái nền sản xuất cộng sản chủ nghĩa ở giai đoạn đầu tức là nó vẫn còn những dấu vết của xã hội cũ rất rõ ràng. Vậy nên việc cống hiến cho xã hội này nó vẫn mang hình dáng của lao động cá nhân, thể hiện ra bởi cái gọi là thời gian lao động, tức là nó mang dáng dấp của cái thời gian lao động hay hình dáng của việc bán lao động. Nhưng trái với CNTB, họ không bị bóc đi mất cái gọi là thời gian lao động thặng dư, mà trái lại họ gần như hưởng toàn bộ cái thời gian lao động đó. Tức là sao: mọt người sản xuất cho xã hội một giá trị sử dụng một giá trị nhất định thì anh ta sẽ đổi lấy xã hội một giá trị sử dụng khác nhưng ngang bằng một giá trị, và anh ta được xã hội cho một cái phiếu chứng nhận, cái phiếu đấy là gì, nó là tiền tệ. Việc xóa bỏ tiền tệ, hay trao đổi không thông qua tiền tệ trong cái xã hội CSCN vừa mới thoát thai này có khác gì việc Marx phê phán các ảo tưởng của Prudohn đâu.
Rõ ràng rằng ngự trị ở đây, cũng vẫn là cái nguyên tắc đã điều tiết sự trao đổi hàng hoá trong chừng mực đó là một sự trao đổi những giá trị ngang nhau. Nhưng nội dung và hình thức có đổi khác, vì trong những điều kiện đã thay đổi thì không một ai có thể cung cấp một cái gì khác ngoài lao động của mình và mặt khác, vì ngoài những vật phẩm tiêu dùng cá nhân ra thì không còn có gì khác có thể trở thành sở hữu của cá nhân được. Nhưng đối với việc phân phối những vật phẩm ấy giữa từng người sản xuất thì thống trị ở đây, cũng vẫn là cái nguyên tắc trong việc trao đổi những hàng hoá - vật ngang giá: một số lượng lao động dưới một hình thức này được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới một hình thức khác. 
Vì vậy, ở đây, về nguyên tắc, cái quyền ngang nhau cũng vẫn là cái quyền tư sản, tuy rằng ở đây, nguyên lý và thực tiễn không còn mâu thuẫn với nhau nữa, còn trong trao đổi hàng hoá thì việc trao đổi những vật ngang giá chỉ tồn tại theo những điều kiện trung bình, chứ không phải cho từng trường hợp riêng biệt. 
Như vậy ngay trong thời kỳ đầu của xã hội cộng sản tức chủ nghĩa xã hội thì cái quyền ngang nhau đó là sao, nó trong chừng mực nào đó vẫn được điều tiết bởi chính sự trao đổi hàng hóa, hay sự trao đổi những giá trị ngang nhau. Tức là sự trao đổi vẫn dựa trên nguyên tắc ngang giá trị đó là đổi giá trị sử dụng này lấy giá trị sử dụng khác theo các giá trị cân bằng. Về nguyên tắc nó vẫn là cái quyền tư sản: nhưng ko phải là quyền tư sản của CNTB vì sao: Marx nói là nguyên lý và thực tiễn không còn mâu thuẫn bởi lẽ mọi sự trao đổi không ngang giá, mọi sự bóc lột trong CNTB không còn, nhưng nó vẫn tuân theo cái trao đổi của quyển tư sản đó là mỗi cá nhân lại có những vật phẩm tiêu dùng cá nhân của mình có thể đem ra trao đổi được.
Mặc dầu có sự tiến bộ ấy, cái quyền ngang nhau đó bao giờ cũng vẫn còn bị giới hạn trong khuôn khổ tư sản. Quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung cấp; sự ngang nhau là ở chỗ người ta đo bằng một thước đo như nhau, tức là bằng lao động. Nhưng một cá nhân này, về thể chất và tinh thần, lại hơn một cá nhân khác và do đó, trong cùng một thời gian như thế,người ấy cung cấp được nhiều lao động, hoặc có thể lao động được lâu hơn, và muốn dùng lao động làm thước đo phải xác định rõ thời gian và cường độ của nó, nếu không thì nó không còn là thước đo nữa. Quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang nhau đổi với một lao động không ngang nhau. Nó không thừa nhận một sự phân biệt giai cấp nào cả, vì bất cứ người nào cũng chỉ là một người lao động như người khác; nhưng nó lại mặc nhiên thừa nhận sự không ngang nhau về năng khiếu cá nhân và do đó, vè năng lực lao động của những người lao động, coi đó là những đặc quyền tự nhiên. Vậy theo nội dung của nó, đó là một thứ quyền không ngang nhau, cũng như bất cứ quyền nào. Do bản chất của nó, quyền chỉ có thể là ở chỗ dùng cùng một thước đo như nhau; song những cá nhân không ngang nhau (và họ sẽ không phải là những người không ngang nhau) chỉ có thể đo theo một thước đo như nhau rong chừng mực người ta xét họ theo một giác độ giống nhau, nghĩa là chỉ xét họ về một phương diện nhất định; ví dụ trong trường hợp này, người ta chỉ xét họ về mặt là những người lao động, và không thấy gì hơn nữa ở họ, không xét đến cái gì khác nữa. Tiếp nữa: người công nhân này lập gia đình rồi, người kia chưa; người này có nhiều con hơn người kia, v.v... và v.v... Như vậy, với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia... Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền nói cho đúng ra là phải không ngang nhau, chứ không phải là ngang nhau. 
Và trong cái xã hội xã hội chủ nghĩa đó thì cái quyền ngang nhau đó chịu sự chi phối của hao phí lao động. Vậy cái hao phí lao động đó bản thân nó cũng đá là không ngang nhau rồi. Marx đã đưa ra những ví dụ rất hay: đó là dù cho là 2 người cùng sản xuất đi chăng nữa thì chắc chắn cái lao động đóng góp cũng khác nhau, vì sao vì căn bản đó là do năng lực, là trí lực, là cường độ của họ đóng góp khác nhau. Mặc dù trong xã hội xã hội chủ nghĩa thì đó là làm theo năng lực, hưởng theo tỷ lệ đóng góp lao động (các bạn chú ý vào câu tôi để chữ nghiêng gạch chân). Như vậy ngay trong cái mà phái Lassalle đã đòi là quyền ngang nhau, thì nó vốn đã là không ngang nhau rồi, hơn nửa kể cả cho dù 2 người sản xuất đó có ngang nhau tuyệt đối 100% thì hoàn cảnh gia đình của mỗi người khác nhau, sự tiêu dùng khác nhau, nuôi các lực lượng ăn theo khác nhau thì cái quyền thụ hưởng của 2 người đó cũng khác nhau. Vì vậy cái quyền ngang nhau đó mà phái Lassalle vẫn đòi, và bảo nó không bị cắt xén thì dưới con mắt của Marx, nó vốn phải là một cái quyền không ngang nhau và nó vẫn luôn bị cắt xén, cắt xén vì cho các quỹ chung mà ta đã kể ở trên. Vậy xét cho đến cùng thì ngay trong cương lĩnh Ghotha thì Lassalle và đảng công nhân Đức đã và đang nhầm một cách cơ bản khi họ cố gắng tuyệt đối hóa những vấn đề mà nó không tuyệt đôi được, vì sao, vì bản thân đó là sự vận động và khác biệt giữa năng lực lao động của mỗi cá nhân cá biệt cũng như hoàn cảnh của các cá nhân đó.
Nhưng đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định. 
Như vậy dù có quyền hưởng thụ hay chiếm hữu các sản phẩm lao động của mỗi cá nhân cũng không thể cao hơn một chế độ kinh tế, vì sao vì quyền chiếm hữu này chỉ thể hiện một phần của quan hệ sản xuất mà trong đó nó nằm trong cái khuôn khổ của phương thức sản xuất hiện thời. Vậy nên nó không thể vượt ra ngoài cái khuôn khổ của phương thức sản xuất đó, khuôn khổ của phương thức sản xuất trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt long từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra sau thời kỳ quá độ (hay những cơn đau đẻ kéo dài).
Trong một giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản chủ nghĩa, khi mà sự phụ thuộc có tính chất nô dịch của họ vào sự phân công lao động không còn nữa và cùng với sự phụ thuộc đó, sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay cũng không còn nữa; khi mà lao động trở thành không những một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của sự sống; khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, năng suất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu! 
Ở đoạn này ta thấy rằng cái xã hội mà Marx nói tới tiếp theo khi ta tiến đến cái xã hội cộng sản chủ nghĩa, cái xã hội mà nó hình thành và phát triển từ chính trong lòng chủ nghĩa xã hội và đi lên giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Cái xã hội mà ở đó: thứ nhất: không cón sự nô dịch vào phân công lao động nữa tức là không phải lao động của người này phụ thuộc vào lao động của người khác, giống như ta vẫn hiểu đó là xã hội mà sự phân công lao động vừa là thiết yếu, vừa là gắn kết với nhau thành một khối, không phải có sự phân biệt. Thứ hai đó là xã hội không còn sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay nữa, vì sao lại thế vì sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay sẽ làm cho cái quyền về thu nhập lao động là một cái không ngang nhau và chênh lệch nhau quá nhiều. Khi mà lao động không chỉ là xuất phát như một phương tiện để sinh tồn mà nó là bản thân, là nhu cầu bậc nhất của sự sống, mọi vấn đề văn hóa xã hội đều nảy sinh từ lao động chứ không phải những điều kiện lao động. Và khi mọi của cải đều tuôn ra dồi dào, thì lúc đó người ta mới vượt qua cái chệt hẹp của quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Câu nói thật hay, một câu nói mà từ bao lâu nay chính chúng ta cả những người ở phe đối lập cũng như phe ủng hộ đều mơ tưởng đến. Một xã hội mà làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, nó là cái xã hội gì vậy. Nếu bạn xem xét thật kỹ các phân tích trên của Marx, bạn sẽ nhận ra một điều chúng ta đã đến xã hội đó chưa, chưa vì tất cả các điều kiện ông đưa ra đều đang quá xa vời, hãy nghĩ đến nếu đó là một nền kinh tế đại sản xuất lớn đến mức sự phụ thuộc lẫn nhau của quá trình phân công lao động không còn. Nếu bạn đọc kỹ cuốn Tư bản luận tập I quyển 1 thì sự phụ thuộc lẫn nhau trong phân công lao động là thế này. Đó là mỗi người trong một dây chuyền sản xuất chỉ có thể làm 1 lao động rất giản đơn, đó là lao động ở trong một chuỗi các lao động tạo nên sản phẩm, và vì lao động của họ là giản đơn nên cái thất nghiệp luôn như một lưỡi kiếm kề vào cổ họ bởi bản thân họ không thể làm được các lao động khác mặc dù vẫn trong cùng một dây chuyền đó, đồng thời bên ngoài là một đội quân đông đảo thất nghiệp. Sự không phụ thuộc trong phân công lao động là sao, tức là vẫn là cái phân công lao động xã hội, vẫn là một nền sản xuất lớn, nhưng không bị cái thất nghiệp theo đuổi, và con người ta vẫn có thể tham gia các quá trình sản xuất khác. Sự có thể tham gia các quá trình sản xuất khác không hề làm ảnh hưởng đến quá trình chuyên môn hóa lao động xã hội mà nó chỉ làm tăng thêm sự phát triển của lực lượng sản xuất thôi. Năng suất lao động đạt đến mức mà có thể nói là của cải tuôn trào như vậy thì đến lúc đó mới có thể ghi trên lá cờ: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” Rõ ràng các bạn chú ý đến cụm từ mới có thể, tại sao lại thể, vì đến lúc đó mới vượt qua cái quyền tư sản mà Marx đã phân tích ở trên, khi ta chỉ hưởng theo tỷ lệ đóng góp lao động. Mới tạm thời được công nhận là làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, vậy cái xã hội Marx nói đến làm, nó còn rất xa, chúng ta vẫn chưa với tới được, vì bản thân ngay giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản vẫn chưa có quốc gia nào vươn tới được, tất cả đều đang ở thời kỳ quá độ. Tất cả đều là dựa trên nội dung kinh tế, nhưng nhu cầu là gì, các học giả tư sản hay bám vào cái chữ nhu cầu để chỉ ra rằng Marx rất ảo tưởng vì nhu cầu con người là vô hạn. Đây là một cái sai lầm hoàn toàn, chúng ta đều đọc Marx, đều hiểu rằng Marx nói mặc dù tiêu dùng là mục đích của sản xuất. Nhưng bản thân sản xuất lại quyết định tiêu dùng vì chỉ trong các điều kiện cụ thể thì chỉ sản xuất được những cái cụ thể, ví dụ hồi phong kiến con người cũng có ước mong bay, nhưng phải đến tận thế kỷ 19, 20 này người ta mới phát minh ra máy bay và khinh khí cầu thì người ta mới bay được. Như vậy cái nhu cầu ở đây cũng là gì: nó phải phù hợp với điều kiện sản xuất hiện thời, vì nó do sản xuất quyết định, các nhà kinh tế tư sản thường che mất cái này trong các phê phán của Marx vì họ muốn ta hiểu Marx thật vô lý, để cho thấy Marx rất ảo tưởng về làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu nhưng thực sự không phải. Cái hưởng theo nhu cầu hơn nữa nó còn nằm ở khi lao động, thì cái thành quả lao động mà người sản xuất chiếm hữu: nếu xét về mặt giá trị thì nó không bị bóc lột, xét về mặt số lượng thì nó nhiều hơn rất nhiều so với CNTB vì do năng suất lao động cao hơn. Hơn nữa nếu trong CNTB thì cái quyền đó chỉ năm trong tiền công và coi như là số lượng tư liệu sinh hoạt tối thiểu để phục hồi sức lao động (số lượng tư liệu sinh hoạt này sẽ thay đổi theo từng thời kỳ do sự thay đổi của năng suất lao động) thì trong CNCS cái số lượng sản phẩm lao động chiếm hữu lại khác. Nếu trong CNTB thì giá trị của tổng các tư liệu sinh hoạt đó không đổi thì ngược lại trong CNCS thì giá trị đó lại được cộng thêm cả giá trị thặng dư của người công nhân làm ra và giá trị thặng dư này không ngừng được tái sản xuất. Vì Marx đã nói rằng: tư bản hay giá trị thặng dư được tái sản xuất là một lực lượng xã hội, vậy nên khi nó được tái sản xuất liên tục thì cái sản phẩm lao động mà người sản xuất chiếm hữu đó không ngừng tăng lên. Cái bóng mà của chủ nghĩa cộng sản là sao: nó biến Tư bản thành một lực lượng xã hội (xem lại Tuyên ngôn Đảng Cộng sản) và cái tư bản bỏ ra ban đầu của mỗi người sản xuất chỉ như một giọt nước, nhưng cái tư bản được tạo ra thì lại vô cùng nhiều sau mỗi lần tái sản xuất mở rộng. Cái nhu cầu đó được mở rộng cùng với chính sự tái sản xuất của người sản xuất, nên mới bảo hưởng theo nhu cầu. Nhưng xét cho đến cùng dù cho đến tận chủ nghĩa cộng sản đỉnh cao thì ta cũng mới có thể chỉ đề lên lá cờ là "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", nó không phải là slogan hay là chính là chủ nghĩa cộng sản đâu. Nếu nó là slogan, hay chính là chủ nghĩa cộng sản thì có lẽ Marx sẽ không viết là "mới có thể ghi lên lá cờ của mình" mà ông phải đổi thẳng và khẳng định một cách chắc chắn: "chủ nghĩa cộng sản đỉnh cao là làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu".
Theo facebook.com

Ông đồ - ảnh Việt Nam xưa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét