-Là anh em kiểu gì đây??? |
Các học giả Trung Quốc dẫn chín bản đồ và chia làm hai loại. Một loại là “bản đồ Minh, Thanh” (tức bản đồ Trung Quốc) có vẽ các đảo Hải Nam. Một loại khác là “bản đồ Minh, Thanh và các nước phiên thuộc” (tức bản đồ Trung Quốc và các nước trong khu vực) có vẽ các đảo ở biển Đông.
Các học giả dẫn chín bản đồ và chia làm hai loại.
Loại thứ nhất, các học giả Trung Quốc dẫn 2 bản đồ gồm Thanh Hội Phủ, Châu, Huyện, Sảnh Tổng Đồ (1800), nói là trên đó có vẽ “Nam Áo Khí”, “Vạn lý Trường Sa”, “Vạn lý Thạch Đường”, “Thất Dương Châu” và giải thích bốn địa danh này là các quần đảo “Đông Sa”, “Trung Sa”, "Trường Sa" và " Hoàng Sa";Trực Tỉnh Hải Dương Tổng Đồ trong Dương Phòng Tập Yếu (1838) nói là trên đó có vẽ “Vạn Lý Trường Sa” và giải thích từ ngữ đó chỉ chung “các đảo ở biển Đông; Quảng Đông Dương Đồ cũng trong Dương Phòng Tập Yếu, nói là trên đó vẽ “Cửu Nhũ Loa Châu” và giải thích đó là “quần đảo Hoàng Sa”.
Loại thứ hai, tác giả dẫn 10 bản đồ bao gồm Trịnh Hoà Hàng Hải Đồ (1433); Vũ Bị Bí Thư Địa Lợi Phụ Đồ (1637); Đại Thanh Trung Ngoại Thiên Hạ Toàn Đồ(1709), Thanh Trực Tỉnh Phân Đồ (1724), Hoàng Thanh Các Trực Tỉnh Phân Đồ (1755); Đại Thanh Vạn Niên Nhất Thống Thiên Hạ Toàn Đồ (1767); Đại Thanh Vạn Niên Nhất Thống Địa Lý Toàn Đồ (1810); Cổ Kim Dư Địa Toàn Đồ(1895) và nói rằng các đảo ở biển Đông đã được vẽ vào các bản đồ này.(1)
Đối với loại bản đồ thứ nhất, người ta có thể đặt câu hỏi là liệu Thanh Hội, Phủ, Châu, Huyện, Sảnh Tổng Đồ có vẽ các địa danh mà các học giả Trung Quốc đề cập hay không, vì những bản đồ có tiêu đề tương tự mà người ta thấy như Hoàng Triều Phủ, Sảnh, Châu, Huyện Toàn Đồ (1856), Hoàng Triều Trực Tỉnh, Phủ, Sảnh, Châu, Huyện Toàn Đồ (1862) không thấy vẽ các địa danh nói trên. Dù bản đồ học giả Trung Quốc nói đến có vẽ các địa danh đó đi nữa cũng không có giá trị chứng minh chủ quyền. Bởi bản đồ này do học giả (Hiểu Phong) vẽ. Theo Luật pháp quốc tế, bản đồ nếu không được đính kèm theo một văn bản pháp lý sẽ không có giá trị chứng minh chủ quyền.(2) Đó là chưa kể các địa danh người Trung Quốc xưa dùng để chỉ các quần đảo ở biển Đông đã bị giải thích một cách tuỳ tiện. Bãi ngầm lớn nằm giữa biển Nam Trung Hoa, Phương Tây gọi là Macclessfield Bank, nằm sâu dưới mặt nước vài chục mét được giải thích là một “quần đảo” và gán cho nó cái tên “Vạn Lý Trường Sa”. “Thất Châu Dương” là vùng biển kế cận đảo Hải Nam về phía Đông Nam lại giải thích là “quần đảo Hoàng Sa”…
"Phong nhụy" - Hot girl Midu |
“Vạn lý Trường Sa” trên Trực Tỉnh Hải Dương Tổng Đồ (Dương Phòng Tập Yếu) cũng không thể giải thích là “lãnh thổ” Trung Quốc. Vì trên bản đồ này, ngoài “Vạn Lý Trường Sa” còn vẽ các nơi khác nhau như “vùng đất Hà Lan, Hồng Mao (Anh) đến buôn bán” (đảo Bornéo ngày nay), “Tiểu Lưu Cầu”, “Đại Lưu Cầu” (nay là quần đảo Ryu-kyu của Nhật Bản), “Đối Mã” (nay là đảo Tsuma của Nhật Bản). Nếu “Vạn Lý Trường Sa” được giải thích là “lãnh thổ Trung Quốc” thì các vùng đất khác đề cập ở trên có là “lãnh thổ” Trung Quốc không?
“Cửu Nhũ Loa Châu” trên Quảng Đông Dương Đồ (Dương Phòng Tập Yếu) thì đã rõ. Trên bản đồ này, ký hiệu “Cửu Nhũ Loa Châu” được vẽ là hình núi cao (ba chóp nón) như ký hiệu “Lê Đầu Sơn”, “Nam Bành” cạnh đó mà hai nơi này người ta đã tìm thấy trên bản đồ phòng thủ biển trong Quảng Đông Thông Chícủa Nguyễn Nguyên (1822) là những đảo ven bờ.
Đối với bản đồ thuộc loại thứ hai cũng đã rõ. Trên một bản đồ vẽ cả Trung Quốc và các nước trong khu vực mà học giả Trung Quốc gọi là “bản đồ Minh Thanh và các nước phiên thuộc” thì lấy gì làm chuẩn để phân biệt đâu là lãnh thổ Trung Quốc, đâu không thuộc lãnh thổ Trung Quốc? Nếu "các đảo ở biển Đông" vẽ trên bản đồ đó là “lãnh thổ” Trung Quốc thì các nước trong khu vực có là “lãnh thổ” Trung Quốc không? Biết rằng, các quần đảo ở biển Đông đã được các học giả Trung Quốc thời xưa gọi là “Trường Sa”, “Thạch Đường” và vẽ trên các bản đồ khu vực Đông Nam Á mang tiêu đề Đông Nam Hải Dư Đồhay Đông Nam Dương Các Quốc Duyên Cách Đồ”.(3)
Điều không khỏi ngạc nhiên là có hàng loạt sách địa chí và bản đồ Trung Quốc, kể cả của quốc gia (nhà nước biên soạn) và thông thường (học giả biên soạn) lại không thấy các học giả Trung Quốc viện dẫn để chứng minh chủ quyền đối với các quần đảo ở biển Đông.
Đơn giản là bởi các sách địa chí và bản đồ đó đều chép hoặc vẽ phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam, chứ không bao gồm bất kỳ quần đảo nào ở biển Đông.
Chùa Phu Ni (Sơn Tây) - ảnh Việt Nam xưa |
Sách địa chí chính thức có Nguyên Phong Cửu Vực Chí (Tống), Đại Nguyên Nhất Thống Chí (1294), Đại Minh Nhất Thống Chí (1461), Đại Thanh Nhất Thống Chí (1842). Bản đồ chính thức có Hoàng Dư Toàn Lãm Đồ (Hoàng Thanh Nội Phủ Địa Đồ) (1761), Hoàng Dư Toàn Đồ (trong Khâm Định Đại Thanh Hội Điển Đồ) (1894).
Sách địa chí thông thường (do học giả soạn) thường được nói đến là Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc sử, Dư Địa Kỷ Thắng của Vương Tượng Chi đời Tống, Thiên Hạ Quận Quốc Lợi Bệnh Thư của Cố Viên Vũ, Độc Sử Phương Dư Kỷ Yếu của Cố Tổ Vũ đời Thanh.
Bản đồ thông thường có Vũ Tích Đồ, Hoa Di Đồ, bản đồ Trung Quốc đời Tống khắc đá năm 1137 (Bảo tàng Tây An, Thiên Tây), Địa lý đồ - bản đồ Trung Quốc đời Tống, khắc đá năm 1247 (Tô Châu, Giang Tô),(4)Dư Địa Đồcủa Chu Tư Bản đời Nguyên, trong Quảng Dư Đồ của La Hồng Tiên, (đời Minh), Nguyên Lộ, Phủ, Châu, Huyện Đồ trong Kim Cổ Dư Địa Đồ của Ngô Quốc Phụ (1638), Hoàng Minh Đại Thống Nhất Tổng Đồ trong Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ của Trần Tổ Thụ (1628-1634), Hoàng Triều Phủ, Sảnh, Châu, Huyện Toàn Đồ của Trình Tổ Khánh (1856), Đại Thanh Trực Tỉnh Toàn Đồ (khuyết danh) (1862), Hoàng Triều Nhất Thống Dư Địa Toàn Đồ (khuyết danh) (1894), Hoàng Triều Trực Tỉnh Đồ (1905, tái bản 1910), Đại Thanh Đế Quốc Toàn Đồ (1905, tái bản 1910).
Trong đó bản đồ năm 1894 ghi rõ “Cực Nam” lãnh thổ Trung Quốc là “Nhai Châu, phủ Quỳnh Châu, Quảng Đông, điểm Bắc Cực 18 độ 13 phút”.
Sự thật là như vậy. Một vùng đất mà không được chép trong sách địa chí và thể hiện trên bản đồ từ đời Tống (960-1279) đến đời Thanh (1616-1911), kể cả chính thức và không chính thức, sao có thể là “lãnh thổ” Trung Quốc?
Các quần đảo ở biển Đông không được chép trong sách địa chí và thể hiện trên bản đồ Trung Quốc, nguyên do cũng dễ hiểu. Bởi như phần trên đã đề cập, các triều đại phong kiến Trung Quốc, cho đến trước năm 1909 không có bất kỳ đòi hỏi nào về chủ quyền đối với các đảo ở biển Đông và không có bất kỳ hành động nào nhằm thể hiện quyền lực của mình đối với các quần đảo này.
Theo luật pháp Quốc tế, để có một bộ phận lãnh thổ được coi là thuộc một quốc gia nào đó, điều kiện pháp lý cần thiết là lãnh thổ đó phải được đặt dưới chủ quyền quốc gia đó, và giới hạn về lãnh thổ cần được xác định bằng việc mà quyền lực của Nhà nước được thực hiện trong giới hạn đó(5) …
"Thanh thoát" - siêu mẫu nội y châu Âu |
Thật vậy, cho đến khi Trung Quốc đưa ra yêu sách đối với các quần đảo ở biển Đông vào nửa đầu thế kỷ XX, các quần đảo này chưa bao giờ được đặt dưới chủ quyền của Trung Quốc, và quyền lực của Nhà nước Trung Quốc chưa bao giờ được thực hiện trên các quần đảo này.
Song vì sao, ngày nay Trung Quốc khăng khăng nói rằng các quần đảo ở biển Đông là lãnh thổ từ ngàn xưa? Vấn đề là ở chỗ các học giả Trung Quốc đã đưa ra những thông tin sai lạc như được đề cập trong bài viết này. Những thông tin sai lạc đó, trên thực tế đã là cho dư luận trong và ngoài Trung Quốc hiểu sai về vấn đề chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo ở biển Đông. Nếu như người Trung Quốc hiểu rõ về lịch sử, hiểu rằng chỉ từ nửa đầu thế kỷ XX, nhà chức trách Trung Quốc mới đưa ra yêu sách về lãnh thổ đối với các quần đảo ở vùng biển này, thì cách xử sự của họ có thể sẽ khác nếu như chuẩn tắc trong quan hệ quốc tế được tôn trọng.
Trình bày rõ sự thật về tài liệu lịch sử của Trung Quốc liên quan đến biển Đông trong bài viết này, tác giả hy vọng có thể cung cấp cho bạn đọc những nguồn thông tin chân thực trong việc tìm hiểu luận thuyết của các học giả Trung Quốc đối với các quần đảo ở biển Đông liệu có phù hợp với sự thật lịch sử, có sức thuyết phục và đứng vững được, hay không!
Nhà nghiên cứu Phạm Hân
Chú thích:
1. Hàn Chấn Hoa, sách đã dẫn, trang 8-9, 84-89.
2. Max Huber, Sentence arbitraire rendue la 4 Avril 1928, par Max Huber, entre les États-Unis et les Pays-Bas, dans le litige relatif a la souveraineté sur l’ȋle de Palmas-RGDIP-Tome IX, 1935, trang 181.
3. Trong Quảng Dư đồ (1562), Cổ Kim Đồ Thư Biên (1585) Vũ Bị Chí (1628), Hoàng Minh Chức Phương Địa Đồ (1635), Địa Đồ Tổng Yếu (1643) Độc Phương Dư Kỷ Yếu (1678), Hải Quốc Đồ Chí (1842), Dương Phòng Tập Yếu (1847).
4. Vương Dung, Trung Quốc Địa Lý Sử Cương, Bắc Kinh, 1958, phần bản đồ.
5. Max Huber, tài liệu đã dẫn, trang 163, 164.
(Một số ảnh không liên quan đến nội dung bài viết)
Một sinh vật sống trong bụi được phóng to hơn 1 triệu lần. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét