Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012

Chân dung biếm họa 100 nhà văn, nhà thơ Việt Nam hiện đại (1)

"Sinh tố" - người mẫu Việt Nam
Đến giờ giải lao, chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh “Thằng này (chỉ Xuân Sách) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi!”. (ảnh không liên quan đến bài viết)

Tâm sự tác giả
Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hồi ấy bước vào thập kỉ 60, tôi đang độ tuổi ba mươi, từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ quân đội ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội. Ngoài công việc của tòa soạn, thời gian chúng tôi dành nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối chỉ thị nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt… đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học, nhận thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ. Các nhà văn, các họa sĩ, nhạc sĩ…thường ngồi tập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về “hai phe, bốn mâu thuẫn”, về “ba dòng thác cách mạng”, về “kiên trì, tăng cường, nỗ lực, quyết tâm…” mấy anh văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao, hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuốt vội khói nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi, chuyển sang “bút đàm”.
Vào năm 1962, có đợt học tập quan trọng, học Nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hòa bình chủ nghiã, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng hắt lên như thiêu như đốt. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc phải tề chỉnh, đầy đủ cân đai bối tử, đi giày da, những đôi dày cao cổ nặng như cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giày đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi nói thêm về Vũ Cao, ông là người có biệt danh "quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Qui định ai vào phòng phải bỏ giầy dép trừ Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiên đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.
Trong buổi lên lớp căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ bằng chữ Hán trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán, và tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng võ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con đường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi vai”, tiểu thuyết “Chuyển vùng”viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự; đã sửa chữa nhiều lần; đưa qua vài ba nhà xuất bản, chưa “nhà” nào chịu.
Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất hay và tôi phiên âm, dịch:
Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân
Mao đầu tận lạc tự mao luân
Lưỡng kiên mai liễu phong trần lý
Chuyển địa hà thời chuyển đắc ngân
dịch nghĩa:
Con đường văn nghiệp khá thương cho ông
Lông đầu ông đã rụng trụi như bánh xe
“Đôi vai” lầm lũi trên con đường gió bụi
“Chuyển vùng” đến bao giờ thì chuyển thành tiền được?
Dịch thơ:
Con đường văn nghiệp thương ông
Lông đầu rụng hết như lông cái đầu
Đôi vai gánh mãi càng đau
Chuyển vùng nào nữa, làm sao thành tiền?
Dịch xong tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu, còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nỗi mặt đỏ bừng và nước mắt ràn rụa.
Tự nhiên trong đầu tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung! Trong bài thơ của Oánh phác họa một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép của tên tác phẩm “Đôi vai”, “Chuyển vùng”. Và sau chốc lát, tiếp tục “trò đùa” của Oánh, tôi viết bài thơ về Hồ Phương đang ngồi cạnh tôi, bài thơ số 1 về chân dung nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện của anh “Trên biển lớn”, “Xóm mới”, “Cỏ non” và cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy:
Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong, trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyền cho người khác. Đến giờ giải lao, chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh “Thằng này (chỉ XS) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !”.
Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn đụng chạm vào tính cách và sự đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn thì có gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm?! Bài thơ ngụ ý rằng Hồ Phương viết nhiều chăng nữa vẫn không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ “buồn tênh lại giở thư nhà ra xem”.
Trước kia, khi còn là lính địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con người dị biệt, rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một “siêu đẳng cấp” trong xã hội. Mỗi hành động, cử chỉ lời nói của họ đều có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng phán xét thông thường. Tóm lại đó là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tập tễnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi về Hà Nội tôi được vào một cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta, quân đội có một vị trí đặc biệt trong xã hội, kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đấy là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu “vẽ”được chính xác những bức chân dung đó thì bộ mặt xã hội của thời đại họ đang sống đang viết cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài, khi những bài thơ chân dung lần lượt ra đời, được phổ biến không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt cả mong muốn của tôi.
Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận xét về tính cách con người, tính cách nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét người rất sắc sảo chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ nhưng anh lại thích “thơ chân dung nhà văn”. Anh có nói đại ý là các nhà văn chúng ta quen đánh giá mọi lớp người trong xã hội thì cũng cần tự đánh giá giới mình, cũng có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn nghệ quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ súy tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng toilet cũ khoảng ba mét vuông. Do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng nên cái phòng vệ sinh đó biến thành “phòng văn”, được ốp gạch men trắng bóng lau sạch ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài điếu thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói : “Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có con quỉ ám vào ông ấy”. Bởi Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác hẳn với những bài thơ không thuộc loại “chân dung”. Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi bài thơ tôi vừa làm xong thường anh là người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem những bài thơ đó đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói bia hơi là “nhuận bút” đầu tiên nhưng không thuộc về người sáng tác mà về người phát hành.
Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến rộng rãi trong giới nhà văn. Lúc đầu còn kín đáo, dần dần thành công khai và nhất là thành một “tiết mục” không thể thiếu trong những buổi liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi khá đông đủ nhà văn, khi vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc thơ về các nhà văn có mặt lúc đó. Trong không khí như vậy, dù các anh các chị ấy có giận cũng cười xòa làm vui, riêng tôi thấy mình làm được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao nữa. Tôi nhớ sau buổi vui, anh Nguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay lúc đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi “châm chọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ”.
Những bài thơ ấy cũng được lan truyền trong nhiều giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, cấp trên của giới văn nghệ quân đội, ông rất thích những bài thơ chân dung. Thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ, ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú đó tuy có tính cách cá nhân nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm của họ mà tôi hằng ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Sao thế nhỉ ? với bề dày tác phẩm như thế, vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế, một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài. . . Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, dối trá, và nhất là phải sợ hãi. Một lần trên báo đăng bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo “thời tiết” chính trị, quay ngược lại những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi “Rất tiếc, một tài năng lỡ tàu”.
Tôi không nghĩ mình đứng ra ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắt thứ hai trong mỗi bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính phục tài tứ thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần gặp lại tôi, ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi là người có tình và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần đúng, ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua tấm kính, và các con ông òa khóc, tôi bỗng thấy mình như người có tội.
Một lần tôi gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia đến chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc “ Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử”.
Điều tôi không ngờ là cụ Đặng Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy, ngồi đặt cằm lên đầu gối cười khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi “Thế còn Đặng Thai Mai ?”. Tôi lúng túng “ Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ, thưa bác”. Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi đến “Anh viết về tôi rồi chứ ?”. Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông nghênh này, hóa ra cụ quan tâm thật sự; khiến tôi vừa cảm động vừa thích thú. Nhưng biết sao được, viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.
Còn cụ Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách cao sang và thâm trầm, thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem, nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm !”.
Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm”đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành khó ai vượt qua được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quì gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá lời cũng dễ hiểu, cái con “quỉ ám” nếu có thì cũng là sản phẩm của những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như trong nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau.
Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó, không phải kì lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu truyền đến nay đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài “khảo dị”, nhiều bài “ngoài luồng” cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là “một cái gì đó” như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu nó có ích thì tác giả cũng lấy làm mãn nguyện”.
"Phụ bếp" - người mẫu Nhật Bản
1. Hồ Phương
Trên biển lớn lênh đênh sóng nước 

Ngó trông về xóm mới khuất xa 
Cỏ non nay chắc đã già 
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem 
2. Nguyễn Đình Thi 
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ 
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ 
Bay chi mặt trận trên cao ấy 
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ. 
3. Tô Hoài 
Dế mèn lưu lạc mười năm 
Để O chuột phải ôm cầm thuyền ai 
Miền Tây sen đã tàn phai 
Giăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang. 
(chú thích: Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen) 
4. Nguyên Hồng 
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ 
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay 
Cơn bão đến động rừng Yên Thế 
Con hổ già uống rượu giả vờ say . 
5. Nguyễn Công Hoan 
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui 
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi 
Bới tung đống rác nên trời phạt 
Trời phạt chưa xong bác đã cười. 
6. Nguyễn Tuân 
Vang bóng một thời đâu dễ quên 
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên 
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm 
Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền . 
7. Huy Cận 
Các vị La Hán chùa Tây Phương 
Các vị gầy quá tôi thì béo 
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca 
Bây giờ tôi hát đất nở hoa. 
Tôi hát chiến tranh như trảy hội . 
Đừng nên xấu hổ khi nói dối 
Việc gì mặt ủ với mày chau 
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu ! 
8. Xuân Diệu 
Hai đợt sóng dâng một khối hồng 
Không làm trôi được chút phấn thông 
Chao ôi ngói mới nhà không mới 
Riêng còn chẳng có, có gì chung ! 
9. Tế Hanh 
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu 
Tình còn dang dở tận Hàng Châu 
Khúc ca mới hát sao buồn thế 
Hai nửa yêu thương một nửa sầu 
10. Chế Lan Viên 
Điêu tàn ư ? Đâu chỉ có điêu tàn 
Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy 
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy, 
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa 
Thay đổi cả cơn mơ 
Ai dám bảo con tàu không mộng tưởng 
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng . 
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống 
Mặt anh em trong suối cạn Hội nhà văn . 
11. Nguyễn Thi 
Trăng sáng soi riêng một mặt người 
Chia ly đôi bạn cách phương trời 
Ước mơ của đất anh về đất 
Im lặng mà không cứu nổi đời 
12. Kim Lân 
Nên danh nên giá ở làng 
Chết vì ông lão bên hàng xóm kia 
Làm thân con chó sá gì 
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn 
13. Tú Mỡ 
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ 
Quanh năm múa bút để mua cười 
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược 
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi . 
14. Đồ Phồn 
Phất rồi ông mới ăn khao 
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời 
Ông đồ phấn ông đồ vôi 
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng . 
15. Hoài Thanh 
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời 
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên 
Thi nhân còn một chút duyên 
Lại vò cho nát lại lèn cho đau 
Bình thơ tới thuở bạc đầu 
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình 
Giật mình mình lại thương mình 
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan . 
16. Vũ Tú Nam 
Vốn cùng nhân dân tiến lên 
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào 
Quay về nấp bóng ca dao 
Giật mình nghe một tiếng chào: Văn Ngan ! 
17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết 

Trong cặp còn hồ sơ điệp viên 
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết 
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên . 
18. Đỗ Chu 
Đám cháy ở sau lưng 
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu 

Dưới vòm trời quen thuộc 
Đốt bao nhiêu cỏ mật 
không bay mùi thơm tho . 
Càng hun càng đỏ mắt 
Quay về thung lũng cò . 
19. Xuân Quỳnh 
Mải hái hoa dọc chiến hào 

Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay 
Thói quen cũng lạ lùng thay 
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn . 
20. Phạm Tiến Duật 
Trường Sơn đông em đi hái măng 
Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính 
Đời có lúc bay lên vầng trăng 
Lại rơi xuống chiếc xe không kính 
Thế đấy! Giữa chiến trường 
Nghe tiếng bom cũng mạnh . 
21. Nguyễn Thành Long 
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra 
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà 
Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy . 
Để mối đùn lên cái gốc già . 
22. Đào Vũ 
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm 
Ông xây sân gạch với xây thềm 
Con đường mòn ấy ông đi mãi 
Lưu lạc lâu rồi mất cả tên . 
23. Nguyễn Bính 
Hai lần lỡ bước sang ngang 
Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi 
Trăm hoa thân rã cánh rời 
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ . 
24. Nguyễn Văn Bổng 
Nhọc nhằn theo bước con trâu 
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng 
Mỗi bước đi một bước dừng 
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh . 
25. Nguyên Ngọc 
Mấy lần đất nước đứng lên 
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm 
Hại thay một mạch nước ngầm 
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng xà nu . 
26. Vũ Thị Thường 
Từ trong hom giỏ chui ra 
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi 
Định đem cái lạt buộc người 
Khổ thân ông lão vịt trời phải chăn . 
27. Quang Dũng 
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi 
Về làm xiếc khỉ với đời thôi 
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm 
Sống tạm cho qua một kiếp người
Áo sờn thay chiếu anh về đất 

Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh 
Gửi hồn theo mộng về Tây tiến 
Sông Mã gầm lên khúc độc hành. 
28. Mai Ngữ 
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật 

Biết ông sòng phẳng tự bao giờ 
Cái con thò lò quay sáu mặt 
Vỗ hụt mấy lần ông vẫn trơ 
29. Nguyễn Khải
Cha và con và . . . họ hàng và … 

Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc 
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn 
Họ sống chiến đấu càng khó khăn 
Tháng ba ở Tây nguyên đỏ lửa 
Tháng tư lại đi xa hơn nữa 
Đường đi ra đảo đường trong mây 
Những người trở về mấy ai hay 
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt 
Muốn làm cách mạng nhưng lại nhát! 
30. Hoàng Trung Thông 
Đường chúng ta đi trong gió lửa 
Còn mơ chi tới những cánh buồm 
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất 
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm
Nhà thơ Xuân Sách
Nhà xuất bản Văn học - 1992
"Rơi tự do" - người mẫu châu Á

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét