Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Chết đi về đâu?

"Tuổi hồng" - Hot girl châu Á
Khi màn đêm xuất hiện không có nghĩa là mặt trời bị mất đi, nó vẫn tiếp tục rọi sáng ở một nửa bên kia trái đất, nghĩa là nó vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển. (ảnh không liên quan đến bài viết)

Chết đi về đâu?
Trong kinh, đức Phật đưa ra hình ảnh ẩn dụ về cây nến, nếu dùng lửa thắp sáng ngọn nến lên thì từ cái không lửa sẽ trở thành có lửa. Lửa có thể bị chông chênh nếu ta dùng tay lắc, hoặc một cơn gió thổi qua thì ánh sáng đó bị lập lòe, do tác động của sự vận chuyển không khí. Nếu tác động này quá mạnh, lửa có thể bị tắt, và lúc này điều gì xảy ra với ngọn lửa? Đức Phật đã đặt ra câu hỏi đó. Một số vị tỳ kheo trả lời:
- Lửa sẽ đi theo hướng mà sức gió bị ép, ví dụ nếu gió thổi qua từ phía bên tay trái thì lửa sẽ bị tắt. Như vậy, lửa đi từ bên trái sang bên phải, từ Đông sang Tây hoặc từ Nam sang Bắc và ngược lại.
Nhiều vị tỳ kheo khác im lặng. Lúc này, đức Phật trả lời:
- Việc tìm kiếm và định hướng sự ra đi của lửa là điều không cần thiết. Trong tình huống này, nếu ta chấp nhận lửa có một hướng đi thì phải quan sát lửa đó như thế nào, nó tiếp tục chạy ra sao. Trong khi ngọn lửa đã bị tắt mà ta lại bàn luận nó đi về hướng nào thì đây là một câu trả lời không thích hợp.
Ví dụ này được Thế Tôn đưa ra để nói về cái chết, về sự ra đi của những vị xuất gia chân chính có một đời sống tu học vững chãi, đạt được giá trị an lạc ở hiện đời thì sự giả định về tiến trình tái sinh của người đó về hướng A, B, hoặc C là điều không thích hợp. Bởi vì các ngài sẽ ra đi theo nguyện ước của bản thân. Chết đi về đâu? Chết - đi theo nguyện ước.
Lý luận này đã không làm hài lòng nhiều nhà nghiên cứu Phật học bởi vì sự súc tích của nó và cách thức giải thích không trọn vẹn, đầy đủ về ý nghĩa của sự ra đi. Chắc chắn các nhà nghiên cứu muốn đề cập đến mệnh đề triết học hoặc những phán đoán đề cập đến cái chết của Thế Tôn, và đời sống của Ngài sau khi chết. Điều này khiến họ cảm giác không thỏa mãn, nên vẫn tiếp tục đặt câu hỏi tương tự.
Thế Tôn quay họ trở về với đời sống thực tại, hãy đặt câu hỏi và tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề hiện thực của đời sống an lạc, hạnh phúc, giá trị tĩnh tại, thảnh thơi quan trọng hơn nhiều so với việc tìm hiểu lửa này sẽ đi về hướng nào, và trong kinh Đại Bát Niết Bàn, đức Phật đã có câu trả lời làm thỏa mãn những người tò mò.
Ngài đưa ra hình ảnh ẩn dụ cũng giống như sự xoay chiếu của mặt trời 12 tiếng vào ban ngày vừa kết thúc thì bóng tối cũng bắt đầu xuất hiện. Trong thời đại của đức Phật, con người chưa có kiến thức khoa học không gian về mặt trời, mặt trăng hay đời sống của các hành tinh khác. Thế Tôn chỉ đưa ra hình ảnh ẩn dụ đơn giản về cái chết và tái sinh của các bậc chứng đạo cũng tương tự như vầng mặt trời. Khi màn đêm xuất hiện không có nghĩa là mặt trời bị mất đi, nó vẫn tiếp tục rọi sáng ở một nửa bên kia trái đất, nghĩa là nó vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển. Điều đó chứng tỏ cái chết và tái sinh của các bậc chứng đạo đi theo nguyện ước của các ngài, miễn là nơi nào có nhân duyên, và thông qua nhân duyên đó, sự lợi lạc, an vui và hạnh phúc của chúng sanh được thiết lập.
Câu trả lời này đã làm thỏa mãn các tiền đề, định đề và lý giải của triết học về bản chất sau khi chết của những bậc cao Tăng. Thế còn đối với người phàm kẻ tục như chúng ta thì chết sẽ đi về đâu? Câu trả lời ở đây lệ thuộc hoàn toàn vào thái độ của người ra đi.
Bức họa “Hẹn hò của các tình nhân” của danh họa Hungary Csontváry Tivadar (1853-1919), Bức tranh được một nhà sưu tập cá nhân mua với giá 230 triệu Ft vào tháng 12-2006.
Không tiếc nuối cái chết

Đức Phật đề cập đến sự ra đi ít nhiều có mối liên hệ đến di thể con người, mà quan trọng nhất vẫn là tro cốt. Nó là cơ sở vật lý quan trọng để hương linh bám víu vào. Ngày nay cùng với sự tiến bộ phát triển của khoa học kỹ thuật, có khá nhiều phương tiện giúp lưu giữ lại những kỷ niệm trong quá khứ thông qua hình ảnh, video, các phương tiện internet hoặc các viện bảo tàng có thể nắn tạo lại hình tượng của một nhân vật nào đó. Chẳng hạn như công nghệ Thái Lan thực hiện việc này rất tinh vi, chỉ cần cung cấp cho họ một thước phim khoảng năm phút về cơ thể vật lý của một người nào đó với tư thế mà họ đang ngồi cùng với mái tóc thiệt thì chỉ trong vòng một tháng sau, họ nắn tạo ra hình tượng mà độ chính xác của nó đạt hơn 90%. Chỉ cần trả khoảng 15.000 USD là đã có một hình tượng giống hệt mình rồi, và nhiều người cho rằng đây là điều rất hạnh phúc, bởi vì nó là kỷ niệm vật của mình.
Thế nhưng theo tâm lý học của đạo Phật, đây là cản lực lớn cho tiến trình tái sanh. Hương linh sẽ có cơ hội bám víu vào cơ thể vật lý khi mạng sống đã chết, cơ thể bị hôi thối, rã rời theo qui luật vật lý thì cấu trúc di thể mà ta đã nắn tạo ra bản photocopy của mình sẽ là cái rất đẹp, cũng vì sự nuối tiếc này mà nhiều hương linh khó ra đi. Ngoài ra, nền văn hóa phương Tây còn đặt nặng tập tục trang điểm cho người chết trước khi tẩm liệm. Người ta đánh phấn, tô son trông gương mặt thật đẹp, giống như người chết đang trong trạng thái ngủ an lành. Nhiều người cứ nghĩ rằng làm như thế là thương tưởng, quý trọng người ra đi, mà trên thực tế tình huống này sẽ làm cho hương linh dễ bị chấp trước và dính mắc nhiều hơn. Bởi lúc còn sống mình không đẹp mà khi chết mình lại đẹp như vậy, khiến hương linh có tâm trạng tiếc nuối, muốn bám víu vào hình hài, thân thể đó không muốn ra đi. Do đó, họ tiếp tục tồn tại dưới hình thức khổ đau của ngạ quỷ.
Trong trạng thái nuối tiếc xuất hiện, hương linh thường bám víu vào bất kỳ một cấu trúc hay hình dạng di thể còn lại. Đó có thể là bức ảnh, giọng nói được ghi âm, bàn thờ trang nghiêm, mồ mả, đền thờ họ tộc v.v…và xa hơn nữa là di cốt, hoặc các tượng là bản sao của hương linh được làm tinh vi và đẹp. Như vậy, điều gì dẫn đến sự nuối tiếc đó? Trong kinh, đức Phật nêu ra ba tình huống:
- Gia tài, sự nghiệp khiến hương linh nuối tiếc, khó có thể buông.
- Tình yêu giữa vợ và chồng (trường hợp này nguy hiểm nhất) nếu tình yêu đó bị nguội lạnh thì sẽ được chuyển thể thành tình thương giữa cha mẹ và con cái. Nếu họ không có con cái thì tình thương đó lại được chuyển thể sang một dạng khác là anh em hoặc người thân với nhau. Nói chung, bám vào bất kỳ mối dây tình cảm nào trong những tình huống như thế vẫn làm cho sự ra đi của hương linh gặp trục trặc.
- Có quá nhiều chương trình, dự án, kế hoạch chưa làm xong nên họ không sẵn sàng chấp nhận cái chết. Sự tức tối trong tình huống này sẽ khiến hương linh rơi vào trạng thái ngạ quỷ. Do đó, bằng mọi giá và mọi phương tiện, người Phật tử cần tu tập, huấn luyện cho mình và người thân từ bỏ trạng thái nuối tiếc về cảm xúc, nhận thức liên hệ đến nhiều tình huống khác nhau, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.


"Nấm xanh" - người mẫu Việt Nam
Tương tự như các vị vua Pharao của nền văn hóa kim tự tháp Ai Cập hoặc những người chết mất xác cũng vậy, cơ hội tái sinh ở họ thật hẩm hiu vô cùng. Bởi vì cấu trúc vật lý đó vẫn còn nguyên vẹn, làm cho hương linh quyến luyến khó có thể ra đi. Điều này khác hoàn toàn so với tình huống để lại nhục thân của các vị thiền sư, chẳng hạn ở Việt Nam có thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu, do tu tập và hạnh nguyện đặc biệt mà các ngài đã để lại xá lợi toàn thân. Trải qua nhiều thế kỷ không cần sử dụng đến hóa chất, nghệ thuật ướp xác của phương Tây hoặc Ai Cập cổ đại mà thân thể vẫn không hề bị hư thối hay rã mục. Tại Thái Lan, hai vị Hòa thượng Việt Nam đã có công khai mở đạo Phật của Việt Nam sang Bangkok khi chết cũng để lại nhục thân. Trung Quốc cũng chỉ có khoảng ba hoặc bốn nhục thân. Đầu tiên là nhục thân của ngài Lục Tổ Huệ Năng, kế đến là tỳ kheo ni Vô Tận Tạng - một vị đại ni cùng thời Lục Tổ Huệ Năng, và trải qua nhiều thế kỷ mãi đến năm 1963 mới tiếp tục có nhục thân của thiền sư Nguyệt Khê.
Sự kiện để lại nhục thân cũng là một nguyện ước của các ngài để minh chứng cho các tín đồ Phật giáo, những người tìm đến hoặc chưa có niềm tin về đạo Phật. Có những điều khoa học không thể nào lý giải được, cấu trúc vật lý của con người là vô thường nhưng vẫn có thể giữ lại bằng một cách thức nào đó, nếu như người đó khi chết gắn liền với nguyện ước của mình.
Trong cuộc sống, ta vẫn thường hay nói tinh thần của người A còn sống mãi trong tim, hoặc nếu là người con cháu kế thừa gia tài của một gia tộc có chiều sâu về văn hóa, giáo dục, ta vẫn thường hãnh diện tự nhủ rằng: “tinh thần đóng góp của ông bà tổ tiên vẫn còn sống mãi trong tim chúng ta” thế thì tại sao chúng ta lại nói chết là hết? Ít nhất là giá trị đóng góp về mặt đạo đức và cộng đồng xã hội vẫn còn đó, cho nên không bao giờ là hết hoặc chấm dứt bằng những dấu chấm, nó chỉ là điểm diễn ra trên tiến trình của sanh tử mà thôi.
Bến Trái Hút xưa thuộc huyện Văn Yên, Yên Bái - ảnh Việt Nam xưa
Chết tái sinh theo nghiệp
Ngài Na Tiên tỳ kheo đã đưa ra một ví dụ rất sâu sắc về hình ảnh cái cây. Cho dù cây có đứng thẳng cách mấy vẫn còn độ nghiêng nhất định của nó. Chẳng hạn như cây dầu, cây cau, cây dừa, hãy thử lấy chiếc cưa bằng máy hay bằng tay cưa nó, chắc chắn sẽ thấy độ thẳng của cái cây bị ngã. Như vậy nó ngã về hướng nào? Chắc chắn nó sẽ ngã về phía nó đang bị nghiêng. Một cái cây cho dù có đứng sừng sững, nhưng chỉ cần một cơn gió thổi qua theo độ nghiêng thì tự động nó sẽ ngả qua. Nếu độ nghiêng của cây khoảng 100 trở lên thì sự ngã sẽ diễn ra trước khi cái cây bị cưa đứt, lớp vỏ bên ngoài sẽ bị gãy đổ tức khắc.
Cùng cách tương tự, dòng chảy của nghiệp được thể hiện qua nghề nghiệp, chức tước của con người, những gì được lặp đi lặp lại sẽ trở thành quán tính của hành vi. Chính quán tính đẩy tiến trình tái sinh của con người theo một quỹ đạo, mà đôi lúc người quá cố hay người chuẩn bị ra đi không có sự lựa chọn. Họ phải đi trên con đường theo sức đẩy của nghiệp, và sức đẩy này tạo ra sự thiên sai vạn biệt của sinh giới với những yếu tố bẩm sinh như cá tính, văn hóa, phong tục tập quán khác nhau. Chẳng phải ngẫu nhiên mà con người có và duy trì được phong tục tập quán khác nhau, mà bởi vì trong tiến trình tái sinh, tất cả thói quen của văn hóa, phong tục tập quán, ứng xử được tích tụ lại dưới dạng thức năng lực của nghiệp. Năng lực nghiệp thúc đẩy con người từ lúc mới bắt đầu hình thành mầm sống mới trong bào thai người mẹ.
Trong kinh Vu Lan, đức Phật đề cập đến sự tương tác giữa bào thai của đứa con và cá tính của người mẹ. Nếu là đứa con ngỗ nghịch, biểu đạt bình thường vật lý khi sanh ra sẽ đạp quấy lung tung, làm đau đớn người mẹ; hoặc thay vì chui đầu ra trước thì nó lại đưa hai bàn chân ra trước. Đây là một biểu hiện vật lý, nếu như quá trình giáo dục của người đó không tốt, họ sẽ có khuynh hướng đi theo quán tính nghiệp đã gieo trồng, mà đôi lúc không cưỡng lại nổi. Cá tính được đính kèm khi con người có mặt dưới hình thức là một phôi thai. Đó là lý do tại sao có những hiện tượng thiên tài, thần đồng, người có năng khiếu, sở trường riêng về một lĩnh vực nào đó chẳng phải vô cớ, chẳng phải do Thượng đế nắn tạo, mà do nghiệp đã qui định rõ điều này.
Tôi có dịp xem bộ phim Kundun của Hollywood mô tả về cuộc đời của đức Đạt-lai-lạt-ma. Bộ phim đó với phần đầu khá hấp dẫn, đề cập đến sự truy tìm hậu thân của đức Đạt-lai-lạt- ma thứ 14, tức là đức Đạt-lai-lạt-ma hiện tại. Ngài Đạt-lai-lạt- ma thứ 13 di chúc lại rằng ngài sẽ tái sinh vào vùng Heysa tức là vùng biên địa của Tây Tạng, trong một gia đình thuần tính về Phật pháp với một số yếu tính nhất định được ngài mô tả trong di chúc.
Khoảng 6 năm sau khi ngài nằm xuống, các nhà sư bắt đầu đi tìm hậu thân của ngài lần theo những gì được di chúc lại. Đến ngôi làng nọ, đoàn tìm kiếm rất ấn tượng khi nhìn thấy từ xa có một cậu bé đang chơi đùa với các cậu bé khác trong làng. Cậu bé này có gương mặt rất dễ thương, hiền lành và chất liệu từ bi. Lúc ấy, những đứa bé trong làng đang chơi trò bắt dế cắn nhau, chúng rất vui sướng, nô đùa khi nhìn thấy con này cắn thắng con khác. Trong lúc chúng đang hân hoan vỗ tay thì Kundun đã có phản ứng hoàn toàn khác biệt, Kundun nhảy vào tách đám trẻ đang chơi làm hai phía. Chính Kundun dùng bàn tay tách hai con dế ra, và bắt một con đi thật xa rồi bỏ xuống, để chúng không có điều kiện cắn nhau nữa. Kundun không cho phép bọn trẻ tạo niềm vui và nụ cười trên nỗi đau của loài vật, đây chính là chất liệu của lòng từ bi.
Một đứa bé chỉ mới sáu tuổi đầu, chưa có được sự giáo dục về hòa bình, sự tương nhượng thì làm sao lại có chất liệu từ bi nếu đây không phải là hậu thân của đức Đạt-lai-lạt-ma - một vị mà trong truyền thống Tây Tạng được mệnh danh là vị Phật sống, là hóa thân của đức Bồ-tát Quán Thế Âm tượng trưng cho lòng đại từ đại bi. Chất liệu đó vẫn còn giữ lại trong tiền thân, hậu thân có mối liên hệ mật thiết với nhau thông qua cá tính, phẩm chất, lý tưởng hoặc thói quen. Thế nhưng bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ để xác định đây là hậu thân của đức Đạt-lai-lạt-ma, người ta phải trải qua thêm nhiều cuộc thử nghiệm khác.
Vị Đạt-lai-lạt-ma thứ 13 có thói quen sử dụng cặp kính cận xấu và cũ. Người ta cho thử nghiệm bằng cách trưng bày bên cạnh chiếc kính cận cũ kỹ đó cùng nhiều cặp kính khác rất đẹp, sang trọng và hấp dẫn với nhiều màu sắc sặc sỡ. Vì tâm lý trẻ thơ thường thích những đồ vật đẹp và màu sắc bắt mắt. Trong rất nhiều cặp kính như thế, cậu bé Kundun là người chọn ngay cặp kính mà đức Đạt-lai-lạt-ma thứ 13 từng sử dụng. Tuy chiếc kính đó không đẹp nhưng là kỷ vật gắn bó trong suốt thời gian dài, và chỉ có chủ nhân của nó mới cảm giác được sự thân thương, gần gũi hơn là những người khác. Đây chính là yếu tố thứ hai để xác định hậu thân của đức Đạt-lai-lạt-ma. Sau đó, người ta tiếp tục làm cuộc thử nghiệm khác.
Theo truyền thống Tây Tạng, đức Đạt-lai-lạt-ma luôn ngồi giữa trong tất cả các khóa lễ, vì ngài vừa là vị lãnh tụ tinh thần vừa là vị lãnh tụ quốc gia. Hình ảnh một vị vua - triết gia của nền văn hóa Hy Lạp được thể hiện trọn vẹn trong hình ảnh của đức Đạt-lai-lạt-ma. Bởi vì thiếu triết lý thì cuộc đời và sự cai trị của nhà vua sẽ dẫn đến nỗi khổ niềm đau cho muôn dân. Hoặc nếu đơn thuần chỉ là nhà triết gia thì học thuyết và sự đóng góp cũng chỉ là vô ích, vì chẳng ai đem ra ứng dụng. Chính vì thế, trong hình ảnh của nhà vua phải có yếu tố của triết gia và ngược lại. Đức Đạt-lai-lạt-ma đã thể hiện sự hóa thân hai hình ảnh này làm một thông qua cấu trúc tôn giáo, chính trị và xã hội Tây Tạng.
Trước khi yêu cầu cha mẹ cho Kundun được trở về tu viện để làm lễ phục hồi chức vị thì bữa cơm tiếp đãi của gia đình được diễn ra. Theo phong tục tập quán Tây Tạng, trong gia đình người chồng là chủ nhân, người vợ bị lệ thuộc như một sở hữu tài sản, và con cái là hoa trái của sự sở hữu tài sản đó. Trong bàn cơm ngày hôm ấy, người chồng ngồi chính giữa, người vợ ngồi một bên và những đứa con ngồi một bên. Vị trí chính giữa đó chỉ dành cho người chồng và người cha.
Trong lúc người cha đi rửa tay để chuẩn bị bữa ăn thì Kundun bước đến ngồi vào ngay chiếc ghế giữa của cha. Thấy thế, người cha vội nói: “Đây là chỗ của ba, con phải ngồi ở bên đây nè”, và ông ẵm Kundun sang ngồi ghế bên cạnh. Thế nhưng Kundun lại vùng vằng nói: “không, chỗ này là của con… chỗ này là của con…”
Đối với nền văn hóa khác không phải là Phật giáo, trong tình huống này có thể người cha sẽ không vui. Tại sao đứa con lại dám vô lễ giành chỗ ngồi của mình như thế? Trong suốt cuộc đời của Đức Đạt-lai-lạt-ma từ trẻ đến già, và liên tục trong 14 đời ngài luôn ngồi ở vị trí chính giữa, không ngồi ở vị trí bên cạnh. Dĩ nhiên, đây không phải là tính cách thể hiện cái bản ngã, mà để giúp cho người khác nhận dạng ra mình là hậu thân. Bản ngã được thể hiện thông qua sự giành giựt nhưng ở đây là sự gánh vác, ngài vẫn muốn bộc lộ rõ cái gốc của mình.
Tiếp tục, lại một thử nghiệm khác, lần này là cây gậy của vị tiền thân từng sử dụng. Nhiều cây gậy được làm giống hệt cây gậy đó, và một lần nữa Kundun là người chọn đúng cây gậy mà Đức Đạt-lai-lạt-ma thứ 13 đã dùng.
Cách thức tìm hậu thân theo truyền thống tái sinh của Tây Tạng thường được diễn ra như thế, thông qua di chúc cùng những biểu đạt cho thấy cá tính của người hậu thân và tiền thân có cấu trúc tương đồng với nhau về mặt bản chất. Vì bản chất của nghiệp không thay đổi, giữa đời cuối cùng và đời mới tái sinh có mặt, vấn đề còn lại của sự thay đổi là theo tiến trình lớn lên liên hệ đến giáo dục, phong tục tập quán, môi trường, hoàn cảnh và đối tượng giao tế của người đó. Còn lúc mới bắt đầu, một đứa bé chưa đủ sức để tự thay đổi chính nó, lúc này cấu trúc quán tính về nghiệp được thể hiện một cách rõ rệt.
"Mơ hồng" - thiếu nữ châu Á
Định hướng nghiệp tích cực
Thế Tôn từng nói, đứa con trong bụng làm thay đổi cả tính tình người mẹ. Bà mẹ đó trước đây có thể không thèm món này, món nọ nhưng bây giờ lại thèm. Đây là chuyện bình thường vì điều này cần cho cấu trúc phát triển của thai nhi. Tuy nhiên, có những cái thèm không đáng thèm là do ảnh hưởng bởi cá tính của đứa con trong bụng như trường hợp của hoàng hậu Ma-da là một điển hình. Bà thèm làm nhân từ, đạo đức và từ thiện xã hội gấp nhiều lần so với trước đây. Bởi hạt giống của ngài Tất-đạt- đa là hạt giống từ bi, tuệ giác và tình thương. Chính yếu tính này đã tác động làm cho bào thai được thay đổi ở mức độ tích cực, lún mạnh hơn về những đức tính tốt mà bà đang có sẵn.
Khoa học ngày nay chỉ đề cập một chiều trong suốt thời gian thai nghén, người mẹ phải kiêng cữ trong việc ăn uống tiêu thụ để không làm ảnh hưởng đến thể trí và thể chất của đứa con. Bởi vì thực phẩm độc tố có thể làm biến dạng tri thức, cấu trúc não bộ hoặc cơ thể vật lý của đứa con. Tuy nhiên, theo đức Phật, những điều kể trên vẫn chưa đủ, cần làm sao để thay đổi về mặt tính tình thật nhiều. Một người bình thường có thể nóng, giận, ích kỷ, hẹp hòi nhưng suốt thời kỳ thai nghén không nên để những tâm lý tiêu cực đó xuất hiện. Người mẹ ấy phải luôn có niềm vui, hoan hỷ, hỷ xả, bao dung, tha thứ, dấn thân, tích cực thì đứa con sinh ra cũng sẽ có những chất liệu đó; nó tác động trực tiếp thông qua cái nhao của người mẹ.
Yếu tính của nghiệp được di chuyển và chuyển thể trong suốt quá trình 9 tháng 10 ngày bị tác động bởi năng lực tích cực mới của người mẹ có ý thức. Điều này tạo ra cá tính mới hay sự chuyển hướng tích cực hơn. Chính vì vậy, trong suốt thời gian thai nghén, người Phật tử có thể hỗ trợ và sanh ra đứa con được tạm gọi là theo ý muốn về phương diện chức nghiệp, hướng nghiệp cho nó. Về phương diện cá tính, cũng có thể thực hiện được việc này...
Cần xác định rõ sau khi qua đời, con người sẽ đi theo hướng của nghiệp. Nghiệp được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành cái nghề. Chẳng hạn có người thích làm nghề nhà giáo vì nhận thấy nó mang lại hạnh phúc cho họ. Nghiệp làm cho con người có cảm giác nó là một phần sự sống của mình, nếu tách rời nó thì hạnh phúc và sự sống như thể bị mất đi, nên người ta không muốn mất nó, đó là nghề nghiệp tốt.
Đối với nghề tiêu cực cũng tạo ra cơn nghiện bám víu, ghì chặt, làm con người không vùng vẫy nổi, nhìn thấy năng lực của nghiệp đang siết chặt, hòa quyện vào bản chất cuộc sống, ta cần hết sức thận trọng trong sự lựa chọn cho mình một hướng đi. Bởi vì nghiệp tạo ra hạnh phúc và khổ đau, tất cả đều nằm ở sự định hướng của một con đường.
Bánh trôi, bánh chay - những món ăn cho ngày rằm 5-5 Âm lịch.
Nghiệp cảm tương ứng trong tái sinh
Tại sao có tình trạng chết do sẩy thai, chết do phá thai hoặc chết do sinh non? Đạo Phật lý giải rằng bởi vì chưa có sự tương ứng nghiệp giữa sự tái sinh của hương linh vừa ra đi với cha mẹ tương lai của người đó. Cho nên đi về đâu là lệ thuộc vào sự tương ứng của nghiệp.
Tại sao người Việt Nam da vàng, mũi tẹt, thấp bé, nhưng lại có tinh thần bất khuất, phấn đấu, nỗ lực, chăm chỉ, tháo vát? Bởi vì những người đó đã tạo ra cùng một cộng nghiệp, chính cộng nghiệp này làm cho những người cùng mẫu số chung của hành vi được sanh ra trong một môi trường để cùng hưởng và sống trong hoàn cảnh đó mà không có sự lựa chọn nào khác. Cho nên sự huấn luyện hành vi sẽ quyết định cho tiến trình tái sinh.
Tình trạng chết non diễn ra do bởi cộng hưởng về mẫu số chung của nghiệp giữa hương linh qua đời và tái sinh trong hình thái mới với cha mẹ của chúng bị khác nhau. Vì vậy, chúng đành phải rút lui để tìm cho mình một chỗ thích hợp mới theo quy luật tự nhiên của nhân quả. Trong kinh Trung Bộ, đức Phật từng nói có ba yếu tố để hình thành nên một mầm sống: 
- Tinh cha trứng mẹ.
- Cha và mẹ phải có quan hệ tính dục trong thời kỳ có thể thụ thai.
- Sự có mặt của nghiệp cảm tương ứng qua hình thái của năng lực nghiệp tái sinh hay thức tái sinh thì mầm sống đó mới bắt đầu được thừa nhận là có sự sống thực sự. Đây là yếu tố hoàn toàn vượt lên trên khoa học.
Vậy làm thế nào để hương linh tìm được nghiệp cảm tương ứng để lại có cơ hội tái sinh ngay khi vừa mới mất? Điều này thật khó vô cùng, bởi vì gia đình sau này mà hương linh sẽ làm con và đôi vợ chồng làm cha mẹ chưa chắc đã có quan hệ giới tính trong lúc hương linh này vừa mới ra đi do tai nạn hoặc chết bất đắc kỳ tử v.v…Ngoài ra, do bởi các hương linh này không có sự tiếc nuối về cảm xúc, không bám víu nên sự ra đi của họ chỉ diễn ra trong tích tắc. Vì vậy, theo qui luật tự nhiên, họ đành phải bám vào bất kỳ cái gì đang có điều kiện để cho mầm sống được diễn ra. Để rồi sau đó nghiệp không tương ứng, phải dẫn đến tình trạng chết non, sẩy thai hay phá thai của người mẹ.
Điều quan trọng hơn hết cần mang lợi lạc đến cho người còn sống, và thông qua phước lực đó sẽ được chia sẻ một phần cho người quá cố. Bởi theo kinh Địa Tạng, người chết chỉ ảnh hưởng một phần, vì qui luật nhân quả của người quá cố là cơ sở tình thương để người còn sống làm những việc phước lành. Chính vì thế, quan niệm của người châu Á chăm sóc cho người quá cố chính là cách thức tạo hạnh phúc cho những người còn sống. Cộng hưởng giao thoa của nghiệp khá rõ ràng, nếu tạm phân chia công đức đó ra làm bảy phần - con số mang ý nghĩa trọn vẹn và đầy đủ của nền văn hóa biểu tượng Ấn Độ thì người quá cố hưởng được một phần, và người làm hưởng được sáu phần.
Nghiệp cảm tương thích sẽ tạo ra sự đi về của tái sinh. Đi về đâu? Ở đây cần có sự tương ứng, cùng một họ hàng nghiệp tạo ra phong cách con người trong gia đình đó. Theo cách thức này, đừng nên có suy nghĩ “con là nợ, vợ là oan gia” hoặc ngược lại mà đây là nhân duyên với nhau, có cùng họ hàng nghiệp với nhau nên phải sinh ra trong cùng một gia đình với nhau. Sự lận đận, xảy ra nghịch cảnh với nhau là thuộc về bản chất của nghiệp. Đừng nên nghĩ đó là con nợ, bởi như thế sẽ khó ứng xử hạnh phúc với những thành viên còn lại trong gia đình. Nên quan niệm đây là cơ hội đồng hành, người thuận lợi trong đồng hành, người nghịch cảnh trong đồng hành, tùy thuộc vào nghiệp của mỗi người mà thôi. Vấn đề là tìm giải pháp để giải quyết nó, chứ không trách cứ, đổ lỗi. 
Từ xa xưa, trong nền văn hóa Việt Nam, các Hòa thượng từng dạy rằng, trong một gia đình có một cặp song sinh, nếu là hai người nam hoặc hai người nữ, ai sinh ra trước là anh (chị), ra sau là em. Ngược lại, trong tình thế là một nam và một nữ thì không nên tính theo cách thức trước và sau, mà phải tạo điều kiện cho người nữ được làm chị. Đây là hướng giải quyết vấn đề rất hay và sự ảnh hưởng của nó vẫn còn lan rộng trong văn hóa dân gian Việt Nam hiện nay.
Nếu đặt tình huống đi theo nghiệp, cùng họ hàng nghiệp, cùng mẫu số chung của nghiệp nên mới có tình trạng sinh đôi, sinh 3, sinh 4 hoặc hy hữu hơn có trường hợp sinh 16 mà báo chí từng đưa tin. Như vậy, tình huống đó như thế nào, liệu mẫu số chung của nghiệp đó có làm cho những người này có các cách giống nhau hay không? Câu trả lời hoàn toàn là không về mặt tổng thể, vì theo đạo Phật, phải có một nghiệp cảm tương ứng giữa cha mẹ và con cái thì cấu trúc này mới tạo ra mầm sống mới trong một gia đình. Vì vậy, khi có mẫu số chung na ná giống nhau, trong một thời điểm nào đó, ở nhiều nơi và nhiều người vừa mới qua đời, do vì nghiệp cảm tương ứng giống nhau nên mới sanh vào cùng một gia đình để trở thành sinh đôi, sinh 3, hay sinh 16 v.v…nhưng cá tính của những người này hoàn toàn khác nhau. Bởi vì trong mẫu số chung có mẫu số riêng, và cái riêng đó tạo ra bản chất của đời sống.
Hãy thử liên tưởng có hai nhân vật, một người có khả năng tạo tiếng cười cho cho cả thế giới, đó là vua hề Charlot, và một người tạo nước mắt và khổ đau cho cả thế giới, đó là trùm phát xít Hitler. Hai nhân vật này sinh cùng một ngày, một giờ, chỉ khác nhau về phút, nhưng vì môi trường, điều kiện, hoàn cảnh, giáo dục đã làm cho quán tính của nghiệp được thay đổi. Đạo Phật lý giải vấn đề này để phủ định cái gọi là định nghiệp, định mệnh trong tiến trình tái sanh. Chẳng có gì giữ mãi, tồn tại mãi mà không thay đổi. Vì vậy, đừng nên bi quan, tiêu cực hay sợ hãi trước một điều xấu xa trong quá khứ, chỉ cần ta có ý chí, nỗ lực thay đổi thì chắc chắn sẽ được làm mới và cách tân.
Khi quan niệm không có định mệnh và định nghiệp, con người sẵn sàng nỗ lực tất cả bằng tự thân để vượt lên, hướng tới, và kết quả ít nhất sẽ nhận được một phần tương thích với những gì mà mình mơ tưởng. Trái lại, chấp nhận định mệnh, sự an bày thì con đường diễn ra trước mắt chỉ là sự lệ thuộc, sẽ kéo theo những gai góc, khổ đau.
Chết đi về đâu? Theo tinh thần Phật dạy, chết không phải là sự kết thúc mà chỉ là sự bắt đầu của một hành trình mới. Con đường hành trình được dẫn đạo bằng hành vi con người trong quá khứ. Tuy nhiên, năng lực quán tính của nghiệp trong quá khứ không thể quyết định cả vận mệnh con người trong hiện tại. Quán tính chỉ là khởi điểm, con đường đi mới tạo ra điều kiện, môi trường, hoàn cảnh, giáo dục, phong tục tập quán được thay đổi trong hằng ngày, hằng giờ. Cộng nghiệp mới được thành lập, biệt nghiệp cũ được xóa đi, biệt nghiệp mới được thành lập tạo ra cộng nghiệp mới. Tiến trình về nghiệp phức tạp như vậy đó, cho nên không bao giờ có cái gọi là định mệnh.
Đó là quan niệm nhân quả của đạo Phật. Nếu cứ nhận định rằng định mệnh của tôi là như vậy thì vĩnh viễn không bao giờ có nỗ lực, không thể có hướng đi mới và con đường mới như ta hằng mong đợi. Mọi hành vi của nghiệp đều có thể thay đổi theo dụng ý và tự do duy ý chí của con người. Do đó, mỗi chúng ta cần phải chọn lựa cho mình lý tưởng tốt, con đường tốt và hướng đi tích cực. 

Thích Nhật Từ

(Bài được biên tập bớt)
"Hoang sơ" - người mẫu Trung Quốc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét