"Mơ hồng" - Hot girl Việt Nam |
Cuộc sống có lý tưởng giống như có kim chỉ nam, trước sau gì ta cũng sẽ tìm thấy đích đến cho dù khó khăn trở ngại như thế nào. (ảnh không liên quan đến bài viết)
Trong muôn vạn nẻo đường, con đường mà chúng ta chọn là con đường Trung Đạo, không quá khắc kỷ để trở thành cuồng tín, cũng không quá dễ dãi, ngụy biện vào những phương tiện vật chất.
Mỗi người có một nỗi niềm, tâm tư, khó khăn, trở ngại riêng và những nỗi đau không ai giống ai. Cuộc sống mang đến cho con người tất cả những gì nó muốn, chứ không phải những gì mà con người muốn và cho dù có muốn hay không, con người vẫn phải đón nhận những gì mà số phận đưa đến – đó là vô vàn khó khăn trắc trở về tiền tài vật chất, hoặc những chao đảo về tinh thần, trăm nghìn những cám dỗ để ta sa ngã và thất bại.
Lý tưởng Tôn giáo là cứu cánh của chúng ta, điều đó không có nghĩa là ta phải xuất gia thành một Tu sĩ hay Thầy tăng, Ni sư - đơn giản chỉ là sự rèn luyện tinh thần, thân thể theo những phương pháp và chuẩn mực nhất định. Nên ghi nhớ : cầu xin ân huệ, phước lộc… không phải là mục đích của sự tu tập.
Sau đây là những nền tảng triết học và con đường tu tập để bạn tham khảo.
Mỗi người có một nỗi niềm, tâm tư, khó khăn, trở ngại riêng và những nỗi đau không ai giống ai. Cuộc sống mang đến cho con người tất cả những gì nó muốn, chứ không phải những gì mà con người muốn và cho dù có muốn hay không, con người vẫn phải đón nhận những gì mà số phận đưa đến – đó là vô vàn khó khăn trắc trở về tiền tài vật chất, hoặc những chao đảo về tinh thần, trăm nghìn những cám dỗ để ta sa ngã và thất bại.
Lý tưởng Tôn giáo là cứu cánh của chúng ta, điều đó không có nghĩa là ta phải xuất gia thành một Tu sĩ hay Thầy tăng, Ni sư - đơn giản chỉ là sự rèn luyện tinh thần, thân thể theo những phương pháp và chuẩn mực nhất định. Nên ghi nhớ : cầu xin ân huệ, phước lộc… không phải là mục đích của sự tu tập.
Sau đây là những nền tảng triết học và con đường tu tập để bạn tham khảo.
"Trừu tượng" - tranh của họa sĩ Trương Bé |
Đường đời có bao giờ hoàn hảo, bằng phẳng với bất cứ ai? Bát Chính Đạo là con đường Trung Đạo, trung dung mà chỉ cần cố gắng để áp dụng vào đời sống cũng sẽ mang đến cho ta sự bình an, hạnh phúc.
Bát Chính Đạo gồm có tám yếu tố quan trọng để tu tập như sau :
Chính niệm: Suy niệm chân chính.
Chính kiến : Hiểu biết đúng đắn.
Chính tư duy : Suy nghĩ chân chính.
Chính ngữ : Lời nói chân chính trung thực.
Chính mệnh: Sống chân chính, không tham lam, vụ lợi xa rời nhân nghĩa.
Chính nghiệp: Hành động chân chính không làm viêc giả dối.
Chính tinh tấn: Cố gắng nổ lực chân chính.
Chính định: Kiên định tập trung tâm tư vào con đường chân chính đã chọn.
Tám yếu tố của Bát Chính Đạo không phải là một tiến trình sắp xếp theo thứ tự nhất định, như yếu tố này phải đứng trước yếu tố kia. Những yếu tố này có thể được diễn tả một cách trung lập, giống như một con sông lớn được hình thành từ những con suối nhỏ hợp lại và mỗi con suối nhỏ đều có tên và nhiệm vụ hoạt động riêng của chính nó. Nhờ sự tụ hợp góp sức của những con suối này mà con sông lớn mới tồn tại.
Trên phương diện tu tập thiết thực, tám yếu tố này được chia ra làm ba nhóm:
"Nét xuân" - thiếu nữ châu Á |
Gồm Chính niệm, Chính kiến và Chính tư duy:
Trí huệ là trong sáng, rạng ngời, Trí là quán thấy, Huệ là hiểu rõ. Vì thế Trí huệ là cứu cánh của tu tập, là sự mở mang Tâm trí. Vai trò của Trí huệ là giúp ta quán nhận được bản thể đích thực, tối hậu của mọi sự vật hiện tượng. Nhìn thấy và phán xét một cách minh bạch tất cả sự việc đã và đang xảy ra, thấu hiểu một cách tường tận bản chất của sự vật. Từ đó tìm ra giải pháp và phương thức thực hiện tất cả những gì nên làm và không nên làm.
Trí huệ hoàn toàn khác biệt với trí thông minh thông thường. Trí thông minh thông thường là sự tượng trưng cho quá trình vận hành bình thường của tri thức. Trí huệ không phải là một sự vận hành bình thường của tri thức mà là kết quả của một sự rèn luyện chuyên cần của tâm thức.
Chính niệm : là suy niệm chân chính, hay là nhớ đúng nghĩ đúng, được xem như một ngọn đèn tỉnh thức để giúp cho tâm, thấy, biết, nhận định, được ý nghĩa tốt đẹp của sự sống.
Chính niệm cũng có nghĩa là ý tứ, bởi vì, Ý tứ chính là sự cẩn thận trong cử chỉ hành động và lời nói, mà ông bà, cha mẹ, thường hay nhắc nhở con cái trong gia đình.
Phương pháp tu tập chính niệm, là sự ý thức được rằng mình đang làm cái gì đó… trong từng giây phút của đời sống mình. Thí dụ, khi đang ăn, thì biết là mình đang ăn, khi đang uống, biết là mình đang uống… Đây là cách có thể giúp con người chủ động đời sống của mình, không bắt đầu bằng sự phân biệt những ý niệm thiện ác, mà bằng sự quán sát sự sống của bản thân mình.
Giữ Chính niệm là khó nhất trong Bát chính đạo. Lý do là chúng ta chỉ là những người bình thường - tham, sân, si, hỉ , nộ, ái, ố, dục có cả - những ý niệm đen tối hay xuất hiện trong đầu do tự chính tâm mình chưa trong sạch, do kẻ khác xúi giục, do ma quỷ quấy nhiễu…. Vì thế giữ được Chính niệm là bước khởi đầu mà bất cứ người tu tập nào cũng phải luôn luôn tâm niệm.
Chính tư duy : là sự sử dụng sự thật qua dòng suy nghĩ đích thực về sự thật. Là bước chuẩn bị đi vào thực hành. Là tư tưởng chân chính, quan trọng giúp con người dứt bỏ tâm tham ái, tâm sân hận và tâm si mê.
Chính tư duy là dòng suy nghĩ, xét nghiệm chân chính, tư tưởng đúng với lẽ phải, là lòng nhân ái và từ bi mang lợi ích thiết thực vào đời sống xã hội, để có thể đạt được một hạnh phúc vô điều kiện.
Điều nguy hiểm nhất là những tư tưởng thấp hèn luôn luôn ngầm chứa bên trong con người. Ngày nào còn tham, sân, si, thì ngày đó, những chất độc này còn có thể trỗi dậy. Do đó sự từ bỏ cũng là một trong những phương cách giải độc cho lòng tham và triệu chứng thèm muốn của nó. Cần phải loại trừ dứt khoát chứ không đè nén những trạng thái tâm bất thiện và thay thế bằng những trạng thái tâm thiện. Nếu ta hiểu được quy luật này, thì có lẽ không còn cái tham của người giàu và lòng ganh tị của người nghèo. Kết quả sẽ là một sự chia sẻ tình thương, sự bình đẳng cho nhân loại.
Chính tư duy cũng là một hình thức của Chính ngữ, bởi vì tư duy là loại ngôn ngữ thầm ở trong tâm, như con tằm tự giam mình trong kén, lúc nào cũng tự nói mình nghe. Nếu có Chính tư duy thì việc duy trì sẽ soi sáng cho ngôn ngữ, cho hành động và tăng thêm lợi ích cho Chính kiến.
Chính kiến: Có hai loại hiểu biết trong Chính kiến, hiểu biết thông thường của con người là kiến thức tích lũy bằng trí nhớ, dựa trên một số dữ kiện tiếp thu không sâu sắc, được gọi là Hiểu biết tùy thuộc. Sự hiểu biết sâu sắc phải là sự thâm nhập, nằm lòng, là kết qủa của việc nghiên cứu học hỏi, thực hành một cách chuyên cần nghiêm túc. Là thấy biết sự vật trong bản chất tổng quan của nó mà không cần phải nhớ đến tên gọi hay cách cấu tạo, chi tiết vụn vặt…
Không có Chính kiến, ta dễ vướng phải tà kiến là cái nhìn sai lệch về sự thật, để rồi từ đó tạo thành những kiến thức sai lầm, những sự hiểu biết không căn cứ - Khiến cho con người đi lạc vào tà đạo, dẫn dắt đến chỗ tranh chấp, đấu tranh hơn thua, thành kiến bảo thủ, phiền não khổ đau, mù quáng, suy đoán tưởng tượng không căn cứ, mất hết lý trí, tiêu mòn nghị lực, không sức phán đoán, không trí thông minh, điều đó làm hư hại, tan nát cả cuộc sống, cả tương lai.
Chính kiến là sự thấy biết mọi sự đúng như thật, không liên quan gì đến đức tin, cầu nguyện, thờ phụng hay nghi lễ.
Chính kiến nên thực hành và phát triển mỗi ngày, bằng sự cố gắng từ bỏ những sai lầm, là sự tự kỷ luật trong thân. Từ lời nói và ý nghĩ của ta luôn phải tự phát triển và thanh lọc.
Tu tập Chính kiến là con đường dẫn đến tự do hoàn toàn, hạnh phúc và bình an, là sự hoàn thiện về đạo đức, tâm linh và trí thức qua sự tỉnh thức bên trong.
Kết quả cho thấy rằng càng tu tập Chính tư duy thì càng tạo điều kiện giúp cho những mầm móng của Chính kiến được nẩy nở và tăng trưởng. Chính kiến là nguồn nuôi dưỡng của Chính tư duy. Nhờ sự phát triển của Chính kiến và Chính tư duy mà Chính ngữ được biểu hiện rõ ràng. Vì thế khi lời nói của ta gây ra đau khổ cho kẻ khác thì phải biết là cái nhìn thấy chưa rõ ràng và việc suy nghĩ chưa đúng.
Nho sinh - ảnh Việt Nam xưa |
Gồm Chính ngữ, Chính nghiệp và Chính mạng:
Giới ở đây là sự hướng dẫn những bổn phận phải làm và những điều nên tránh để chúng ta khép mình vào nếp sống kỷ cương. Giới là những nguyên tắc rèn luyện bản thân con người qua nhiều phương diện khác nhau như đạo đức và phong cách cư xử về đạo đức.
Phương diện đạo đức là sự tu tập thân, khẩu, ý, thanh tịnh để diệt trừ tham, sân, si, ở nội tâm, đưa đến sự an lạc giải thoát cho chính mình. Phong cách cư xử về đạo đức là sống trong sự thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, để cho con người biết quí mến, thương yêu, thông cảm, đoàn kết và giúp đở nhau trong mọi tình huống của xã hội, đặc biệt là trong thời đại mà “sự vô cảm” đang là một điều ám ảnh nhất.
Giữ giới là lối sống chứng minh rằng con người có khả năng đạt được giá trị đạo đức tối cao, qua ý chí và nổ lực tự thân của chính mình bằng cách : Tránh làm các điều ác, tu tập các việc lành, giữ tâm ý trong sạch.
Giới là một lối sống vững vàng mạnh mẽ và thuần lý, bởi vì nó là phương cách thực dụng hợp lý, để sửa đổi từ một con người có đức tính xấu thành một con người có đức tính tốt, từ đối tượng vô minh trở thành một đối tượng trí thức, từ một con người có tư tưởng tiêu cực bi quan trở thành con người có tư tưởng tích cực lạc quan năng động.
Tu tập Giới không phải là sự tự hãm mình trong một khung khổ, mà là việc thực hành những lời dạy trong sáng lợi ích của Phật trong việc tìm đạo giác ngộ giải thoát.
Chính ngữ: có nghĩa là đúng, hợp lý. Là tiếng nói, lời nói, âm thanh, ngôn ngữ, bài diễn văn, lời nói thánh thiện. Một lời nói ra người nghe hoan hỷ, làm cho tâm người nghe được an tịnh. Một lời nói thành thật ngay thẳng, bình đẳng, hòa nhã, rõ ràng, giản dị, khuyến tấn. Một lời nói hợp thời và đúng lúc, hợp tình và hợp lý, mang đến cho người nghe cảm giác thương yêu, Từ, Bi, Hỷ, Xả. Những lời nói này chính là Chính ngữ để giúp thêm, phần tăng triễn cho Chính kiến, Chính tư duy của người đang đi tìm đạo.
Trước khi Đức Phật nhập diệt, có đệ tử hỏi: Sau khi Ngài nhập Niết bàn rồi, người đời sau gặp nhiều sách vở ngoại đạo với kinh Phật không làm sao phân biệt. Vậy biết tin theo lời nào để tu? Ngài trả lời rằng : Không luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật hợp chân lý thì cứ theo đó mà tu.
Chính ngữ là lời nói chân chính, không tạo nghiệp bất thiện bằng lời nói, mà trái lại, dùng lời nói để tạo các nghiệp thiện lành. Lời nói là sự biểu hiện của tâm tư và ý nghĩ, nếu không cẩn trọng, thiếu suy nghĩ, thì lời nói dễ làm cho người khác đau khổ, mà đôi khi chính mình cũng cảm thấy ăn năng hối hận, vì nói lời bất cẩn của mình mà gây ra tai họa. Bản chất của lời nói tùy thuộc vào những nội dung khác nhau của tâm thức. Nếu tâm có nhiều giận hờn, bức xúc… thì lời nói sẽ mang sắc thái nặng nề, hung dữ. Còn nếu tâm ta thanh tịnh thì lời nói sẽ dễ nghe, trong âm điệu hài hòa. Nói là một nghệ thuật và cũng là một cách tu qua sự quán sát chọn lời và lắng nghe.
Trong tương giao giữa mọi người, Chính ngữ là phương pháp để thu phục nhân tâm hay cách xử thế qua cách nhìn đúng, nghĩ đúng bằng lời nói. Thí dụ như : Làm cách nào để khuyên bảo người khác, khi biết họ làm sai, nói sai, hay nghĩ sai? Nói cách nào để khỏi làm mất lòng người nghe?
Lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội.
Chính Nghiệp: là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích cho người lẫn vật. Còn những hành động tạo ra đau khổ cho người lẫn thú vật, thí dụ như khi nóng giận, đánh đá, chửi bới, nguyền rủa đều thuộc về tà nghiệp.
Tà nghiệp và Chính nghiệp thuộc về hành động của thân thể. Trong Bát Chính Đạo - Chính kiến, Chính tư duy được xem như là ý nghiệp và Chính ngữ thuộc về phần khẩu nghiệp. Do đó chữ Nghiệp được hiểu như : hành động tạo tác bị điều khiển bởi tâm ý.
Chữ Nghiệp có nghĩa là, hành vi, hành động, hoạt động, cách cư xử, tư cách, thuộc về ý, miệng, và thân. Chữ Nghiệp dùng để chỉ quy luật chung về nguyên nhân và kết quả. Bởi vì mỗi nghiệp làm dưới một điều kiện nhất định, thì sẽ tạo thành một quả.
Một nghiệp thiện hay bất thiện được hành động theo ba cách : bằng thân, bằng tâm, và bằng lời, qua dòng tư tưởng. Do đó khi con người có ý làm cái gì thì đã tạo nghiệp, không nhất thiết rằng việc làm đó có xảy ra hay không.
Nghiệp làm con người tái sinh trong một cuộc đời, nhưng hành động con người trong cuộc đời đó vẫn có sự tự do. Nghiệp sinh ra hoàn cảnh, nhưng sự phản ứng đối với hoàn cảnh này lại nằm trong tay con người.
Như vậy, mỗi hành động được thực hiện với chủ ý là một hành động có khả năng sáng tạo. Do ý chí thúc đẩy hành động, tạo thành một lực để làm chuyển động theo cái tiến trình bất tận của sự đổi thay trong cuộc đời.
Nghiệp của mỗi người là hành động riêng của từng cá nhân và kết quả của những nghiệp mà họ tạo ra, thì chính họ cũng là người thừa hưỡng phần qủa riêng này. Nghiệp của mỗi người là kinh nghiệm riêng của từng người, cho nên không ai có thể can thiệp vào để làm thay đổi những kết quả của nghiệp cá nhân được.
Một hành động sẽ không gây nghiệp, nếu nó được thực hiện mà không xuất phát từ tham, sân, si. Chính vì không thông suốt định luật nhân quả nghiệp báo này mà con người tự gây cho mình và xã hội biết bao đau thương khổ luỵ, rồi lại đổ thừa cho trời đất hoặc gán tội cho tha nhân hay những điều kiện khách quan bên ngoài.
Trái lại khi người nào đã thấu rõ định luật nhân quả nghiệp báo này bằng sự tự quan sát, tự chiêm nghiệm trong đời sống một cách sâu sắc, thì không những có thể tự vượt qua khổ đau, tự hoàn thiện chính mình, mà còn đem lại nhiều lợi lạc cho xã hội.
Tạo nghiệp tốt không có nghĩa là chấm dứt vòng luân hồi. Muốn thoát khỏi vòng này, thì phải từ bỏ cả hai tốt và xấu. Người tu tập theo đúng Chính nghiệp là người luôn luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc, tánh mạng của người khác và bao giờ cũng biết tôn trọng lương tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi cho mọi người, mọi vật. Nếu cần, có thể hy sinh quyền lợi hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác.
Chính Nghiệp tạo thân và khẩu nghiệp luôn trong sạch, thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau cho mình và cho người. Sanh, lão, bịnh, chết, là một tiến trình tạo nghiệp và trả nghiệp. Nghiệp chính là sự bình đẳng của sự vay và trả trong cuộc đời. Nghiệp tốt hay xấu mà có giữ giới, thì không sợ lầm đường lạc lối. Bởi vì, sự giữ gìn được giới này có khả năng hóa giải cái xấu thành ra cái tốt.
Trên thực tế, cuộc sống là sự chiến đấu không ngừng để đạt được những nhu cầu khẩn thiết cho sự bảo tồn đời sống cá nhân và nuôi sống gia đình. Con người bị bắt buộc phải xem công việc làm ăn sinh sống là một vấn đề quan trọng, thúc giục, cấp bách, cho nên đôi khi con người không còn bận tâm nhiều về các giá trị nhân văn, mà càng quan tâm nhiều hơn đến tiền bạc và quyền lực.
Nếu không được rèn đạo đức, thì con người sẽ trở thành ác nhân và cuộc đời sẽ là nạn nhân của nó. Cho nên, Chính nghiệp là hành vi đúng đắn, tạo nghiệp thiện, từ bỏ sát sinh, từ bỏ tà hạnh trong các dục.Thực hành sự yêu thương cứu giúp, dẫn đến đời sống chân chính.
Chính mạng: là nuôi sống thân mạng bằng những nghề nghiệp lương thiện chân chính tức là sống đúng chính pháp, không mê tín dị đoan, không sống trong tưởng giải, ảo giác, mơ hồ, trừu tượng. Ngoài ra Chính mạng còn có nghĩa là sống không chạy theo dục vọng và các ác pháp về ăn uống… Từ đó, Chính mạng trở thành phương thuốc hữu hiệu trong mỗi con người, để trị liệu mọi triệu chứng gây ra đau khổ, bằng cách không nuôi sống mình bằng các nghề tàn bạo, bất chính pháp, bất tín, không hợp luân lý xã hội…
Người sống đúng Chính mạng về sau sẽ không phải ăn năn, hối hận về những tội lỗi do mình gây ra…
"Nét căng" - người mẫu Trung Quốc |
Gồm có Chính tinh tấn, Chính định.
Chính tinh tấn: có nghĩa là sự siêng năng đúng với chính pháp. Là nỗ lực đánh thức và củng cố vững chắc cho sự tu tập hằng ngày của từng cá nhân, nhằm mục đích ngăn chặn hay tránh xa tội, tăng trưởng thiện pháp, để mang lại một cuộc sống thanh thản an vui và vô sự.
Tinh tấn mà không có trí huệ thì không đạt được mục đích mong muốn. Tinh tấn có trí huệ, sẽ là các phương thức thích hợp để đạt được sự thành công trong các công việc muốn thực hiện.
Người có nỗ lực không mệt mỏi trong việc tu tập đúng đắn, thì đó chính là năng lực tinh tấn để tự mình thoát khỏi những cám dỗ nhất thời, trong xiềng xích ngục tù của cái ác. Tinh tấn là nền tảng căn bản cho hành động vì lợi ích của người theo lời nguyện, từ bỏ sự nản chí, bất mãn, lười nhác, các việc xấu, tội lỗi, không khơi động sự mở mang trí huệ.
Tinh tấn là sự rèn luyện tâm linh cao thượng qua những pháp thiện. Làm việc gì trên đời, đều cũng cần có sự chú tâm và siêng năng ráo riết, thì mới đưa đến sự thành công. Khi con người nóng giận thường nói những lời khó nghe, hay làm những hành động không tốt, bởi vì, họ không kiểm soát được chính mình. Do đó cần phải tập kiểm soát chính mình, để tránh được những hậu quả không lường được, vì thiếu suy nghĩ trong phút chốc có thể đưa mình xuống tận cùng của khổ đau, mà nói lời ăn năn không kịp.
Cầu nguyện là chuyện tốt nhưng chưa đủ mà phải dấn thân. Tinh tấn là việc tự dấn thân để tạo thành một chuỗi giải thoát, có thể chuyển hóa được bản thân cho người cũng như cho mình. Đau khổ và an lạc, mọi thứ đều do việc lựa chọn của từng cá nhân. Muốn khổ, thì hãy thử làm thân tâm đau. Muốn an lạc, thì hãy thử dùng tin tấn trong việc tu tập của mình trong từng giây phút hiện thời.
Chính định: là nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Nói cách khác là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình cho người.
Chính định là một phương pháp tu tâm trọng yếu, khiến cho giới được trong sạch, cho tuệ được thanh cao.
Một tâm định có thể tạo ra ánh sáng rất sáng và rất mạnh, gọi là Ánh Sáng Trí huệ. Người theo đúng Chính Định, khi Thiền định thường tập trung tư tưởng để quán sát những vấn đề chính sau đây:
Quán thân bất tịnh tức là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, si ái.
Quán từ bi là quán tưởng tất cả chúng sanh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sanh.
Quán nhân duyên là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình như tâm niệm đều là giả hợp, duyên nhau mà có, chứ không có một cách chân thật, không thường tồn, để đoạn trừ ngu si, pháp chấp.
Quán hơi thở nghĩa là quán tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, đối trị sự tán loạn của tâm thức.
Những món ăn hải sản. |
Trong cuộc sống đời thường của chúng ta, mọi sinh hoạt đều biểu hiện ở hành động và lời nói. Điều quan trọng là dùng Chính niệm, Chính kiến, Chính tư duy làm bản thể và lấy Chính mạng làm tự thể của giới pháp. Lấy Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính tinh tấn, Chính định làm nghiệp dụng tương trợ để hướng đến đời sống giải thoát và giác ngộ cho mình và những người chung quanh. Con người vì mê lầm mà trở thành nô lệ cho những ảo tưởng, những tham vọng vô bờ - chỉ có chính ta mới giải thoát được cho ta khỏi những nỗi thống khổ mà thôi.
Theo Thegioihuyenbi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét