"Cheri" - Hoa hậu Diễm Hương |
Bàn về nguồn gốc dân tộc Việt Nam là một chủ đề không mới, đã có nhiều nghiên cứu công phu về đề tài này. Tuy nhiên, chúng tôi trong tinh thần muốn đóng góp một cái nhìn, xin gửi đến độc giả một số trích đoạn trong sách “nguồn gốc dân tộc Việt Nam” của học giả Đào Duy Anh, xuất bản năm 1950 về chủ đề này để những ai lưu tâm có thể có thêm cứ liệu suy xét. (ảnh không liên quan đến bài viết)
Có lẽ nguồn gốc truyền kỳ của dân tộc ta thì ai cũng biêt, và thông tin về thời đại nước Âu lạc của Thục An Dương Vương thì thiết tưởng chúng tôi không bàn thêm. Chúng tôi chỉ xin trích dẫn ở đây những cứ liệu về bước chuyển, xuất phát từ một lưu tâm: dân tộc Việt Nam vốn là một chi nhánh trong nhóm Bách Việt, tự khẳng định mình để không bị đồng Hóa bởi Hán tộc trong tiến trình hình thành quốc gia dân tộc.
Đề cập đến Bách Việt, chúng ta biết rằng khoảng thế kỷ 20 tcn, khi người Hán đang phát triển nền văn minh của họ ở lưu vực sông Hoàng Hà và Vị Thủy ở phía Bắc thì ở miền nam trên lưu vực sông Dương Tử (Trường Giang), sông Hán và sông Hoài, có những bộ tộc khác đã sinh sống, và thư tịch cổ Trung Quốc gọi họ là Man Di. Dựa vào vùng đất trù phú của miền sông nước, họ đã phát triển kinh tế nông nghiệp, đánh bắt thủy sản để sinh sống. Nhóm Man Di này được nhìn nhận đều thuộc Việt tộc. Đến trước đờiChu(bắt đầu từ thế kỷ XII tcn), họ đã ở khắp lưu vực sông Dương Tử. Quá trình hình thành và thống nhất của Trung Quốc cũng đồng nghĩa với quá trình hoặc đồng hóa các dân tộc nhỏ bé hoặc đẩy họ Nam tiến. Bách Việt là một ví dụ điển hình: một số chi họ trong Bách Việt đã dần nam tiến trong tiến trình Trung Quốc tiến hành thống nhất từ thờiChuđến Tần, và song song đó là quá trình họ bị đồng hóa, nhận lấy những yếu tố Hán tộc làm gia sản của mình. Tất nhiên, không điều gì lại không có ngoại lệ.
Đề cập đến Bách Việt, chúng ta biết rằng khoảng thế kỷ 20 tcn, khi người Hán đang phát triển nền văn minh của họ ở lưu vực sông Hoàng Hà và Vị Thủy ở phía Bắc thì ở miền nam trên lưu vực sông Dương Tử (Trường Giang), sông Hán và sông Hoài, có những bộ tộc khác đã sinh sống, và thư tịch cổ Trung Quốc gọi họ là Man Di. Dựa vào vùng đất trù phú của miền sông nước, họ đã phát triển kinh tế nông nghiệp, đánh bắt thủy sản để sinh sống. Nhóm Man Di này được nhìn nhận đều thuộc Việt tộc. Đến trước đờiChu(bắt đầu từ thế kỷ XII tcn), họ đã ở khắp lưu vực sông Dương Tử. Quá trình hình thành và thống nhất của Trung Quốc cũng đồng nghĩa với quá trình hoặc đồng hóa các dân tộc nhỏ bé hoặc đẩy họ Nam tiến. Bách Việt là một ví dụ điển hình: một số chi họ trong Bách Việt đã dần nam tiến trong tiến trình Trung Quốc tiến hành thống nhất từ thờiChuđến Tần, và song song đó là quá trình họ bị đồng hóa, nhận lấy những yếu tố Hán tộc làm gia sản của mình. Tất nhiên, không điều gì lại không có ngoại lệ.
Từ trước thời kỳ nước Việt(1) đương cường thịnh ở Chiết Giang, người Việt Tộc ở miền lưu vực sông Dương Tử, riêng là người Giao Chỉ và Việt Thường đã có thể đi qua các đèo ở dãi Nam Lãnh mà di cư rãi rác đến miền nam, trong các thung lũng những sông lớn ở các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc Kiến ngày nay. Chúng ta lại biết rằng hơn trăm năm sau Câu Tiễn (năm thứ 46 đờiChu Hiến Vương, tức năm 333 tcn) nước Việt bị nước Sở diệt, từ đó người Việt lìa tan xuống Giang Nam, rải rác ở miền bờ biển lục địa. Ở đấy, họ gặp những người đồng tộc đã di cư đến từ trước. Song người nước Việt có lẽ đã đạt đến một trình độ văn hóa cao hơn, cho nên sau khi họ hỗn cư với những người thị tộc chiếm ở miềnNam trước họ, thì họ đã đem đến đó một hình thức chính trị, và có lẽ một hình thức kinh tế cao hơn. Những nhà quý tộc người Việt mới hợp tàn chúng của họ với các nhóm Việt tộc cũ, hoặc lập thành những bộ lạc lớn mà tự xung là quận trưởng (tù trưởng), hoặc lập thành những quốc gia phôi thai mà tự xưng vương. Những bộ lạc hay quốc gia do các nhà qúy tộc người Việt lập ở miền LãnhNam, người Hán tộc gọi chung là Bách Việt. Đại khái buổi đầu, những nhóm quan trọng ở miền Chiết Giang Phúc Kiến đều thần phục nước Sở, mà những nhóm ở xa hơn trong miền Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Kỳ (miền Bắc Việt Nam ngày nay) thì không bị Sở ky mi.
Cái vận mệnh lịch sử của các bộ lạc và quốc gia Việt tộc ấy là thế nào? Chúng ta không thể nào biết hết được. Có lẽ các bộ lạc nhỏ dần dần bị các bộ lạc lớn thôn tính, cho nên số các bộ lạc linh tinh một ngày một giảm ít đi, mà sử sách chỉ chép có năm nhóm quan trọng, sau này đã đạt đến hình thức quốc gia: Đông Việt hay Đông Âu, MânViệt,NamViệt, Tây Việt hay Tây Âu và Lạc Việt.
Ở chương này, chúng tôi chỉ xin nói về ba nhóm Đông Việt, Mân Việt vàNamViệt là các nhóm sau này lần lượt bị đồng hóa theo Hán Tộc, còn nhóm Tây Âu và nhất là nhóm Lạc Việt, hai nhóm ấy sau này hợp thành ước Âu Lạc đã ghi dấu trên lịch sử lâu bền hơn, chúng tôi sẽ nói sau.
Đông Việt và Mân Việt, hai nhóm ấy có tự bao giờ, chúng ta chưa biết đích xác được. Chúng ta chỉ có thể đặt sự thành lập chính thức của nó vào thời gian sau khi nước Việt bị diệt ( năm 333 tcn) và trước khi nhà Tần chinh phục Bắc Việt (năm 218 tcn).
Sau cuộc nhà Tần thống nhất Trung Hoa thì cương vực của địa bàn người Hán Tộc có thể lấy dãi LãnhNamlàm giới tuyến phíaNam. Sau khi Tần đặt 36 quận ở đất Trung nguyên thì vào khoảng năm 218, Thủy Hoàng phát quân gồm những hạng người lưu vong rể thừa và lái buôn, chia làm năm đạo cho đi chinh phục Bách Việt. Trong 5 đạo ấy, đạo thứ năm tụ tập trên sông Dư Can, trong tỉnh Giang Tây ở phía nam hồ Phiên Dương là đạo quân nhằm đánh. Đông Việt và Mân Việt là hai nhóm người Việt đã có hình thức quốc gia phôi thai, vốn thần phục nước Sở, đã nhân cuộc nội loạn ở Trung Quốc mà độc lập.
Nhóm Đông Việt hay Đông Âu thì Trung tâm điểm là miền Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu trong tỉnh Chiết Giang ngày nay. Về phíaNamTam môn loan. Nhóm Mân Việt thì trung tâm điểm là miền Mân huyện, thuộc Phúc Châu trong tỉnh Phúc Kiến ngày nay.
Có lẽ hai nước Đông Việt và Mân Việt thì tiếp cảnh với nhà Tần nên vốn đã sợ oai, nay thấy quân Tần kéo đến thì không dám chống cự kịch liệt nên quân Tần thắng lợi rất mau. Chỉ trong năm đầu, nhà Tần chinh phục được hai nước gồm lại mà đặt quận Mân Trung, hạ vua hai nước xuống làm quận trưởng (tù trưởng) để trông dân Việt.
Về sau, trong khi chư hầu phản nhà Tần, tù trưởng Đông Việt và Mân Việt đều theo chư hầu mà đánh Tần, rồi lại giúp Hán đánh Sở. Vì vậy đến năm thứ 5 đời Cao Đế (202) thì nhà Hán thưởng công, phong cho tù trưởng Mân Việt là Võ Chứ làm Mân Việt Vương, trị đất Mân Trung cũ, đô ở Đông Dạ (Mân huyện ngày nay). Năm thứ 3 đời Huệ đế (192), nhà Hán lại chia đất Mân Trung cũ mà đặt thêm ước Đông Hải và cũng để thưởng công phong tù trưởng Đông Việt là Dao làm Đông Hải Vương, đô ở Đông Âu (miền Vinh Gia), tục gọi là Đông Âu Vương.
Các nhóm Bách Việt vốn hay đánh nhau, đó chẳng qua là tác dụng của xu hướng thống nhất của các dân tộc. Cái thói tương tranh ấy vốn có thể cổ lệ cái lòng hiếu dũng cho dân tộc nhưng cũng có thể làm lưu tệ mà thành cái mối tự thân phân liệt được. Chúng ta nhớ lại, đương khi nước Việt quật cường thì cái hoài vọng của họ là phát triển về phương Bắc để xưng hùng với trung nguyên. Sau khi nước Việt diệt vong, cố nhiên người Việt không thể lăm le nhòm ngó trung nguyên như trước nữa, nhưng cái hoài vọng ngấm ngầm của các tù trưởng lớn tuồng nhưng cũng cứ chờ có cơ thời thì lại tung hoành về Bắc. Trong khi chờ đợi thời cơ thì cơ hội khuếch trương thế lực ở đồng tộc, cho nên trong các nhóm Bách Việt, người ta thấy diễn ra hiện tượng tương khuynh. Sự tranh giành giữa hai nhóm Đông Việt và Mân Việt là cái lệ chúng rõ ràng của hiện tượng ấy, mà chính là cơ hội rất tốt cho nhà Hán kiêm tính Bách Việt.
Ở buổi ban sơ, Đông Việt và Mân Việt tuy thần phục nhà Hán, nhưng cái chí nhòm ngó miền Bắc nếu có cơ hội thì cũng không ngại múa men. Khi Ngô Vương là Tỵ phản nhà Hán, Đông Việt và Mân Việt cũng có phát binh tiếp ứng: khi HoàiNamVương Lệ làm phản, cũng có câu kết với hai nước ấy. Trong hai nước thì Mân Việt đáng cho nhà Hán sợ hơn cả. Sau khi nhà Hán đã dụ được Đông Việt giết Ngô Vương Tỵ mà hàng phục Hán, con Tỵ là Tư Câu xui Mân Việt đánh Đông Việt năm thứ 3 đời Vũ đế (năm 138). Mân Việt bèn phát binh hãm Đông Âu. Đông Việt cầu cứu với nhà Hán, tướng Hán là Nghiêm Trợ phát binh tiếp cứu nhưng quân Hán chưa đến nơi thì quân Mân Việt đã rút lui về Nam, vì trong nước bấy giờ họ có nội loạn. Nghiêm Trợ đến Đông Âu muốn diệt nước Đông Việt để trừ hậu hoạn, bèn lấy danh nghĩa di dân để cứu nạn đói mà dời một phần dân chúng Đông Âu đến miền Giang Hoài. Có lẽ một phần dân Đông Việt đã chống cự lệnh di dân ấy mà theo vua họ chạy xuống miềnNamở gần Tuyền Sơn tỉnh Phúc Kiến sau đó 15 năm thì họ bị nhà Hán diệt hết. Thế là nước Đông Việt mất hẳn.
Sua khi Mân Việt thất bại ở Đông Âu, năm thứ 6 hiệu Kiến Nguyên (135), họ lại đem binh đánh nước Nam Việt ở miền Nam. Nước này cũng cầu cứu nhà Hán. Tướng Hán là Vương Khôi do đường Dự Chương và Hàn An Quốc, do đường Cối kê cùng tiến quân vào Mân Việt. Nhưng quân Hán chưa qua đèo mà Mân Việt lại vì nội loạn phải đầu hàng.
Nhóm Nam Việt cũng như Đông Việt và Mân Việt xuất hiện sau khi nước Việt bị diệt. Trong năm đạo binh của nhà Tần phát đi đánh Bách Việt, thì đạo thứ tư phát tựNamđã ở phíaNamDự Chương, do đường đèo Đại Du (nay là đèo Mai Lãnh) tiến vào miền tỉnh Quảng Đông, là địa bàn của nhómNamViệt. Có lẽ đạo quân thứ năm, sau khi chiếm được Đông Việt và Mân Việt rồi, lại luôn đường theo đường bờ biển do đèo Yết Dương mà thẳng xuống Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay). Các đạo thứ nhất và thứ nhì, thứ ba thì tiến vào phía Tây Bắc miền Quảng Đông và phía Bắc miền Quảng Tây cũng dễ dàng. Nhưng sau những cuộc thắng lợi đầu tiên thì quân Tần gặp nhiều khó khăn, một là vì thiếu đường tiếp tế quân lương, hai là vì gặp người Việt nhất là Tây Âu ở miềnNamQuảng Tây chống cự dữ dội khiến quân Tầu trong ba năm bị khốn đốn chết chóc rất nhiều. Song tuy không tiến quân sâu được, nhà Tần cũng sắp đặt việc cai trị ở các miền đã chiếm được. Chúng ta biết rằng tại đất Đông việt và Mân Việt họ đặt quận Mân Trung, tại miền Quảng Đông và Quảng Tây thì họ đặt ba quận:NamHải, Quế Lâm và Tượng. Sau khi đặt các quận huyện, năm 214, nhà Tần sai Triệu Đà đem quân bị đày xuống giữ đất Việt, cho ở lộn xộn với người Việt tộc, rồi Nhâm Ngao làm đô úy quận Nam Hải, cử Triệu Đà làm lệnh huyện Long Xuyên trong quận ấy. Có lẽ các nhóm Việt tộc mà người ta gọi chung làNamViệt bấy giờ là những bộ lạc rời rạc, không tổ chức thành quốc gia. Quân Tầu tiến vào đến trung tâm của họ là Phiên Ngung rồi chức việc hành chính ở đó rất dễ dàng, chia đất mới chiếm thành quận huyện (quậnNamhải) và đặt toàn người Hán tộc cai quản.
Về sau nhân Trung Quốc có loạn, hào kiệt và chư hầu nổi dậy đánh nhà Tần, Triệu Đà nghe theo lời Nhâm Ngao, truyền hịch đóng các cửa ải thông với Trung Quốc rồi đánh lấy quận Quế Lâm và Tượng hợp vào quậnNamHải mà lập ra nước Nam Việt, tự xưng là Nam Việt Vũ Vương, lấy người tay chân là người Hán tộc mà thống suất người Việt tộc.
Sau khi nhà Hán đã diệt Tần và thống nhất Trung Hoa, Triệu Đà quy phục nhà Hán. Sang đời sau đời Triệu Hồ, Mân Việt đem quân đánh biên thùyNamViệt như chúng ta đã biết. Cuộc tương tranh giữa hai nhóm Việt này chính là cơ hộ nhà Hán lợi dụng để diệt cả hai nhóm.
Năm thứ 5 hiệu Nguyên Đinh (112), nhân việc nhà Hán mưu dụNamViệt nội nuộc, đại thần Nam Việt là Lữ Gia cùng đồ đảng phản dối, nhà Hán bèn phát quân định dùng vũ lực để chinh phục. Bấy giờ vua Mân Việt hứa đem binh theo quân Hán để đánhLữ Gia,nhưng sau khi quân Hán đã chiếm được Phiên Nghung mà quân Mân Việt vẫn không đến, nhà Hán bèn phát binh đánh Mân Việt. Lại nhân nội loạn, Mân Việt phải đầu hàng, nhà Hán bèn dời một phần lớn dân Việt đến miền Giang Hoài để trừ mối lo về sau, thế là Mân Việt mất nước.
Còn nướcNamViệt, thì sau khi mất thủ đô vào tay nhà Hán, nước ấy cũng bị nhà Hán kiêm tính, đấtNamViệt cũng như đất Đông Việt và Mân Việt đều bị chia làm quận huyện.
Người Đông Việt và Mân Việt, một phần lớn bị cưỡng bức di cư đến miền Giang Hoài, nên dần đồng hóa hẳn theo Hán tộc. NgườiNamViệt tuy không di cư nhưng từ đời nhà Tần, họ đã ở chung lộn với mấy vạn quân chinh phục Hán tộc cùng với một vạn năm nghìn đàn bà Hán tộc mà Triệu Đà được nhà Tần cấp cho để may vá cho quân sĩ, cho nên chúng ta có thể nói rõ rằng ngay trong thời nước Nam Việt cường thịnh, người Việt tộc ở Nam Việt cũng đã đồng hóa rất nhiều theo Trung Quốc rồi.
Những sự phát quật cổ tích ở miền này rất hiếm hoi, người ta chưa có những sử liệu trực tiếp để nghiên cứu văn hóa của người Bách Việt, chỉ có thể căn cứ vào những tài liệu gián tiếp rải rác trong sách xưa, như sách sử ký, sách Hán thư và nhất là tác phẩm của Hoài Nam vương Lưu An là người đời Hán sơ, vì ở miền tiếp cánh với đất Bách Việt nên rất am hiểu sự tình đất ấy.
Lưu An nói rằng: “người Việt không có thành quách, thôn ấp; họ ở trong những khoảng khe hang, trong vùng lau trúc. Họ quen thủy chiến mà giỏi dùng thuyền”. (Thư của lưu An gửi cho Hán Vũ Đế), lại nói rằng họ “làm việc trên cạn ít dưới nước nhiều, cho nên họ cạo tóc, xăm mình… đóng khố ngắn, không mặc quần để tiện bơi lội, tay áo ngắn mà xăn lên để tiện chèo thuyền”. Xem thế thì chúng ta thấy rằng sinh hoạt vật chất của ngừi Bách Việt cũng không khác sinh hoạt của người nước Việt mấy. Cũng như người Việt, họ lấy nghề chài lưới làm nghề chủ yếu. Trong các thung lũng trên bờ sông bờ biển và ở giữa hồ đầm,người Bách Việt hẳn cũng làm nhà sàn , nhà gác bằng tre và gỗ. Quần áo của họ có lẽ cũng giống quần áo của người Mường người mọi ngày nay, và làm bằng vải đay hay vải gai. Ở đảo HảiNamcũng là nơi thuộc trong địa bàn của người Bách Việt, sách Hán thư chép rằng đàn ông thì cày ruộng trồng lúa nếp, lúa tẻ, cây đay, cây gai, đàn bà thì trồng dâu nuôi tằm. Có lẽ ở miền đồng bằng trong lưu vực Tây Giang, Quảng Đông và Quảng Tây, người Bách Việt cũng đã làm ruộng theo kỹ thuật thô sơ như ở Hải Nam.
Về kỹ thuật thì người Bách Việt hẳn cũng đã biết kỹ thuật đồ đồng như người Ngô Việt nhưng ở miền Bách Việt này chắc là kỹ thuật đồ đồng và gốm còn kém kỹ thuật miền trên.
Bách Việt, miền này rất giàu sản vật quý báu vốn làm mồi nhử lòng tham vọng của người Trung Quốc. Những sản vạt quý báu ấy đại khái là: sừng tê, ngà voi, đồi mồi, chân trâu ngọc cơ bạc, đồng, trái cây (quả nhãn và quả vải), vải gai. Người Bách Việt đã biết nuôi ngũ súc là bò, dê, lợn, gà, chó; vì ít giao thông bừng đường bộ nên họ không dùng ngựa.
Họ không thạo nghề thương mại, song người Trung Quốc đem thuyền buôn đến mua vật thổ sản, nhất là miền Quảng Đông, cho nên Phiên Nghung là một nơi đô hội lớn. Những thị trấn khác nhơ Hợp Phố,TừVăn Vùng là nơi thuyền buôn Trung Hoa hay lui tới.
Về kiến trúc, chúng ta không rõ người Bách Việ đã biết làm gì. Lưu An nói họ không có thành ấp, tất cả họ không có thành trì như người nước Việt trong thời cường thịnh, mà chỉ nhờ địa bàn thể hiểm trở mà phòng địch thôi.
Về vă hóa tinh thần, hẳn người Bách Việt cũng không khác người nước Việt mấy. Người Hán tộc cũng cho họ là khinh bạc và hiếu chiến.
Về chế độ xã hội thì có lẽ phần nhiều các nhóm Bách Việt vẫn còn ở giai đoạn thị tộc, nhưng trình độ của chế độ ấy thì tùy từng nhóm mà khác nhau. Có lẽ ở các nhóm Đông Âu và Mân Việt, là những nhóm tiến bộ hơn hết, thì chế độ thị tộc đã tiến trạng thái gia tộc rồi. Song tại các bộ lạc nhỏ hơn ở các miền rừng núi thì chế độ thị tộc đương còn lạc hậu ở thế kỷ mẫu hệ.
Về tổ chức chính trị thì ở đời Tần, chúng ta đã thấy các nhóm Đông Âu, Mân Miệt muốn đạt đến hình thái quốc gia, song chưa đạt đến tình trạng thịnh trị như nước Việt ở đời Xuân Thu Chiến Quốc. Có lẽ lại miền Bách Việt, chế độ chính trị hãy còn giở nữa chừng giữa chế độ bộ lạc và chế độ quốc gia phong kiến.
Theo Dòng Tên Việt Nam
(1)Nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn ở miền Chiết Giang, Trung Quốc.
Theo Dòng Tên Việt Nam
(1)Nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn ở miền Chiết Giang, Trung Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét