Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

Những Thiên đường mù (phần 1)

"Hút hồn" - người đẹp Việt Nam Trương Hằng
Cô bạn tôi mở tủ, rót nước lạnh uống rồi bảo: 
- Đánh đĩ mười phương cũng phải chừa một phương để lấy chồng chứ? Bạn cháu mà chú cũng không tha à? 
Ông chú im ro, không đáp... (ảnh không liên quan đên bài viết)
Chín giờ sáng, bà Vêra đưa cho tôi bức điện: “Cậu ốm nặng, Hằng tới ngay". Sau khi quan sát gương mặt tôi, bà bảo:
- Tội nghiệp cho mày. Mày là một con bé thiếu may mắn.
Nói xong, lắc mái đầu đồ sộ, bà quay đi. Mùi nước hoa rẻ tiền tạt lại, vương trong không gian, như một thứ nhựa loãng dính vào các bức tường vôi đã tróc lở. Tôi mặc đồ ngủ, đứng co ro nhìn tấm thân phì nhiêu của người đàn bà gác dan, đầu óc rối tung. Chính tôi, tôi cũng đang ốm. Những trận viêm phế quản liên miên vừa qua khiến hai vai tôi còng xuống như lão già nghiện nặng. Ngực lép dẹt, không chiếc áo lót nào còn mặc vừa. Khu cư xá chỉ có vài mống đàn ông, toàn thứ đồ cổ. Vậy mà đi qua mặt tôi, họ cũng không buồn đưa mắt liếc qua. Trong số 800 rúp dành dụm được, tôi đã tiêu hết 450 tiền thuốc men và thứ ăn bồi dưỡng. Tôi dự định tiêu thêm 50 rúp nữa khoản đó, cho đủ sức đi làm. Vậy mà, đúng lúc bức điện trời đánh kia giáng xuống. 

- Con điên, mới bảnh mắt đã ra đứng ngoài ấy làm gì? Vào phòng ngay không cảm lại một trận nữa thì đời ra tương. 
Cô bạn cùng phòng hét to. Tôi quay vào, chui trong tấm chăn nồng sực hơi ấm. Hạnh phúc quá. Hôm nay chủ nhật, tất cả đều nghỉ việc. Cả bọn dự định làm bún kiểu Việt Nam ăn bữa trưa. Còn lúc này, tất cả rúc trong chăn nghe nhạc. Tiếng nhạc từ căn phòng nào đó từ tầng trên vẳng xuống. Vừa nghe, vừa thả lỏng tấm thân mệt mỏi, vừa gặm nhấm nỗi nhớ nhà. Khung cửa sổ căn phòng của chúng tôi mở rộng. Không ngọn cây nào vươn được tới đó. Nhưng bù lại, là trời xanh ngăn ngắt, màu xanh trong và lạnh, thăm thẳm đơn côi. 
- Điện gì thế Hằng? 
Cô bạn tôi hỏi. 
- Ông cậu ốm. 
Tôi đáp lời. 
- Cái ông ở Matxcơva chứ gì? 
- Ừ. 
- Nhưng mày cũng vừa ốm dậy. 
- ... 
- Chì còn được nghỉ bốn hôm nữa thôi. Hôm qua, mụ Tanhia vừa nhắc đấy 
- ... 
- Từ đây tới Matxcơva có ít đường đất đâu? Những đi về đã đủ ốm rồi. 
- ... 
- Mà mày xanh bủng ra như đàn bà hậu sản. Không chịu phấn son vào, nhìn pháp khiếp. 
Tôi lặng im, không đáp. Nhưng dường như, cùng lúc với tiếng nói của cô bạn, trong tôi thầm vang lên lời phản bác: 
- Không đi, không đi! Mặc kệ, mặc kệ. 
Con đường hun hút lướt qua. Những cột cây số chạy lùi. Các cánh rừng và những đồng lúa mì ngút ngát. Các tỉnh lỵ với chóp nhà thờ và những khuôn viên. Tiếng bánh xe lăn trên đường ray buồn tẻ. Cac sân ga trong ánh điện hoặc trong lớp sương mù. 
Đang nằm, chợt cô bạn tôi vùng lên, vẫn tay áo lê thê như thế, cô tới giá sách, chọn một chiếc đĩa hát. Rồi cô mở chiếc máy quay đĩa mới vừa mua, giá 120 rúp. Bỏ tấm vải phủ, bật nắp máy, cô đặt chiếc đĩa hát và cho máy chạy. Tiếng kim chạy xè xè qua những vòng rãnh câm, Cô bạn lại nhảy lên giường, trùm chăn. Lúc ấy, tiếng hát bỗng cất lên, đột ngột: 
Ở tận sông Hồng em có biết? 
Quê hương anh cũng có dòng sông 
Anh mãi gọi với lòng tha thiết 
Vàm Cỏ Đông! Ơi Vàm Cỏ... 
Giọng hát bay chói vói trong không gian. Xanh và lạnh. Trời đang nắng rỡ ngoài kia, nhưng cái lạnh ly hương thấm vào da thịt. Bài ca, như sợi chỉ bạc mong manh, lạc lõng giữa khung trời. Nó khiến tôi có cảm giác bị xô đẩy tới tận cùng trái đất. Rồi nó lại kéo tôi về với 1 triền sông quen, bờ cát nóng bỏng ánh trời, cánh buồm tả tơi chòng chành trên sóng nước, tiếng kêu khắc khoải của lũ chim di trú bay. 
Trời ơi, mái nhà đã sụp lở của mẹ tôi. Một bên mái ghép bởi tấm tôn và mảnh giấy tẩm nhựa đường. Ngày mưa, tiếng mưa gõ trên mái tôn rổn rảng. Trưa hè, mùa nhựa đường khét lẹt bốc lên khiến ta muốn buồn nôn. Những rãng nước bẩn chảy từ nhà nọ sang nhà kia, dưới các phiến gạch xi măng ghép. Lũ trẻ trong ngõ thường khuấy dòng nước đen nhơ bẩn đó lên chơi. Chúng thả xuống cống những con thuyền gập bằng giấy trắng. Ngay bên rãnh nước, bụi nhài tỏa hương ngây ngất. Con đường phố quen, những bụi cỏ leo cớm nắng dưới chân tường, nơi lúc nào cũng khai nồng nặc vì dòng nước tiểu của đám người say bia vô sỉ rót xuống. 
- Hằng ơi! nghĩ gì thế? 
- Không 
- Nhớ nhà quá mày. Đau quặn ruột. 
- ... 
Cô bạn tôi cất tiếng rên rỉ. Nó quấn chăn lăn giẫy ầm ầm trên giường, rồi đột ngột bật kêu to: 
- Ối giời ơi, thế này thì chết mẹ nó đi cho xong. 
Tôi im lặng, không đáp. Vì chính tôi cũng đã khóc tự lúc nào chẳng rõ. Nước mắt nóng và mặn khiến tôi nghẹn họng. Trong làn sóng nước mắt, gương mặt u uất của mẹ tôi hiện lên. Mắt bà rất đen, lút dưới hai hố sâu, chiếu ra những tia sáng buồn. Trong cái nhìn của bà găm giữ nỗi thống khổ và sức chịu đựng không thể đo đếm. Hồi trước, mỗi lần gia đình chúng tôi gặp tai biến, là một lần mẹ nhắc nhở: 
- Làm người cốt nhất là không được thối chí. Chỉ một phút xuôi tay, mọi sự sẽ đổ nát. Gừng già gừng rụng, gừng cay, anh hùng càng cực càng dày nghĩa nhân. 
Mẹ đã sống theo châm ngôn ấy suốt đời. Mẹ muốn tôi cũng sống được như mẹ. Vậy mà tôi đã làm gì cơ chứ? Ông cậu ruột, người em duy nhất của mẹ bị ốm, điện cầu cứu tôi, và tôi đã định làm ngơ. 
Ở phòng gác dan, bà Vêra đang đan một tấm khăn len bằng rất nhiều thứ ken tháo từ các tấm áo cũ ra. Tấm khăn ấy có thể choàng kín cả tấm lưng đồ sộ của bà vì nó xấp xỉ một tấm khăn trải bàn. Đôi tay nhỏ, trắng trẻo, trẻ hơn mặt bà 10 tuổi, luồn lách mũi kim 1 cách khéo léo. Không ai đoán được một người vóc dáng thô tháp, mông vại, lưng gấu gù gù như bà lại có thể đan nổi chiếc khăn đẹp thế. Bà đang chăm chú đan nốt những dòng cuối cùng. Thấy tôi, bà ngẩng mặt lên nhìn, cặp kính lão tụt xuống chóp mũi: 
- Mày nhất quyết đi Matxcơva? 
- Cháu phải đi, bà Vêra ạ. 
- Tao trông mày xanh lắm. 
- Vâng, nhưng ông ấy là cậu ruột cháu. 
Bà Vêra cúi xuống: 
- Chờ tao một lát. 
Tôi đứng chờ, hơi sốt ruột vì sợ trễ tàu. Nhưng nể bà nên không dám giục. Bà Vêra kiên trì chiết nốt dòng cuối, rồi vuốt ve tấm khăn một cách trìu mến, bà bảo tôi: 
- Mày thấy đẹp không? 
- Rất đẹp. 
- Toàn len cũ giặt lại đấy. 
Bà nói, giọng đầu tự hào. Xong xuôi, bà ghi tên tôi vào cuốn sổ trực to tướng. Chỉ đợi có thế, tôi vội vã chào: 
- Cháu đi đây. 
Nhưng bà gác dan đã thò cánh tay hộ pháp qua cửa nắm tay tôi: 
- Chờ đã. Tao cho mày mượn tấm khăn len này. Đêm nay sẽ phải dùng tới nó đấy, chuột nhắt ạ. 
Tôi cúi chào, cảm ơn người gác dan nặng 92 kilô, tốt bụng nhưng cũng nghiệt ngã và hay nổi nóng một cách bất ngờ, như hầu hết những người đàn bà góa bụa sau chiến tranh ở nước Nga. Tôi đi ôtôbuýt ra ga. May mắn sao, tôi đã tới kịp chuyến tàu tốc hành duy nhất trong ngày. Tàu khởi hành lúc 5 giờ chiều. Khoảng khắc ấy, tất cả các ngôi nhà trong thành phố, những rặng cây bên vỉa hè, và các mảnh rừng nhỏ nằm xiêu xiêu nơi ngoại ô đều đẹp lên rực rỡ vì tẩm nhiễm làn ánh sáng nhấp nhoáng của vàng tan loãng. Váy các cô gái bay tung, mỏng hơn, gọi mời hơn trong thứ ánh sáng ấy. Tôi ngắm các cô không chán mắt, với tâm trạng đã trở lại thơ thới. Khi vào cửa ga, tôi bỗng chạm phải 1 người đàn bà tóc hoe vàng, quấn thành từng lọn trên mái đầu tròn trĩnh. Bà ta khẽ nhăn đôi mày lại, không nói gì. Tôi lí nhí cất tiếng xin lỗi, nhưng có lẽ giọng tôi quá nhỏ, hoặc người đàn bà quýphái đó không muốn nghe, nên bà ta đã đi lướt qua rất nhanh. Tấm áo nhung đỏ và chiếc váy nhung đen bó sát tấm thân óng ả. Cặp mắt kiêu hãnh nhìn thẳng. Mùi phấn bay như một loài hoa... Rồi tôi thấy mình trong gương: Một con bé da xanh tái, nét mặt ngơ ngác và âu lo, vai lép dẹt, mặc bộ đồ nâu lợt, dáng vẻ thiếu tự tin, cân nặng 42 kilô. 
- Đừng cả nghĩ... Đừng mặc cảm... Mình là một con bé đa sự, vớ vẩn... 
Tôi tự lẩm bẩm mắng mình. nhưng dẫu sao, cảm giác tủi hổ vẫn bám trên hai gò má nóng rực của tôi, như lớp son dính. Tôi bỗng thấy oán ghét ông cậu tôi. Lên tàu, chui vào góc toa của mình, tôi nhắm mắt lại. Và như một cuốn phim sử thuật, cuộc sống quá vãng lần mở ra... 
"Lính thủy" - Hot girl Trung Quốc
Ông ngoại tôi làm nghề bốc thuốc. Cụ cứu chữa cho rất nhiều con bệnh nặng trong vùng, nhưng chính cụ không cứu được mình. Ông tôi mất năm 43 tuổi, vì một căn bệnh không định rõ. Sau này, theo triệu chứng lâm sàng, người ta đoán là bệnh ung thư. Bà ngoại tôi năm ấy 42 tuổi, ở vậy nuôi con, mẹ tôi và cậu Chính. Mười tám tháng sau, bà cũng cảm hàn đột ngột đi theo ông. Lúc đó, mẹ tôi 19, cậu Chính 17. Cậu được một người bà con tình cờ về dự đám ma dắt lên chiến khu Việt Bắc. Cậu vào bộ đội luôn. Mẹ tôi ở làng bán hàng xén trên chợ huyện, chăm sóc nhà cửa, mồ mả ông cha. Ngôi nhà của ông ngoại tôi, tôi đã về thăm một lần. Đó là một ngôi nhà thấp, lợp ngói vẩy cá, hiên bức bàn, cửa gỗ, các chân cột kê đá hình trụ chống ẩm. Ngoài nhà ở, còn ba gian nhà ngang dùng làm nơi gác nong tằm, xay giã gạo và chứa nông cụ. Nhà của ông bà ngoại tôi rất chắc chắn, nhưng tối tăm, loại nhà cổ. Buổi trưa, tôi đứng trong nhà, thấy hơi ẩm toát ra từ các bức tường ghép gỗ, từ các cây rui được đẽo gọt cầu kỳ giương hình chạm như những con mắt bí hiểm. Từ các đầu hồi tăm tối, nơi thỉnh thoảng một chiếc mạng nhện đu đưa, ánh sáng rọi qua các kẽ ngói mục ẩm bị đứt quãng, run rẩy như lửa ma trơi. Tự dưng tôi sởn da gà, vội chạy ra sân. Mẹ tôi, lúc ấy đang cùng mấy người đàn bà nữa ngồi uống chè xanh liền hỏi: 
- Làm sao thế em? 
- Không sao, nhưng con sợ. 
- Rõ đồ con vịt, giữa ban ngày ban mặt mà còn thế. 
Mẹ chửi. miệng tủm tỉm cười. Tôi nhìn hai hàm răng đều chằn chặn, ánh trắng rực rỡ như ngọc trai của mẹ, bỗng nhiên buồn. Đó là mảnh nhan sắc cuối cùng còn sót lại của mẹ. Một thời xuân sắc qua, chẳng để làm gì, chẳng dành cho ai. Tôi hỏi vu vơ: 
- Ngày trước, mẹ có sợ không? 
Mẹ gắt: 
- Nhà của tổ tiên, ông bà, có gì mà sợ? 
Tôi gặng: 
- Nhưng mẹ ở một mình. 
Một bà hàng xóm cỡ tuổi mẹ tôi, nhếch mép cười: 
- Không sợ, nhưng buồn. Chả thế chưa kịp mãn tang đã lấy anh chàng Tốn. 
Các bà nhìn mẹ tôi cười ré lên. Rồi bà nọ đấm lưng bà kia thùm thụp như các cô gái. Hai gò má mẹ tôi đỏ rực lên như say trầu. 
Tôi hỏi: 
- Anh chàng Tốn ấy là ai hở dì? 
- Là bố mày. Rõ con nhà vô phúc. 
- Không. 
Tôi hét lên, đâm đầu chạy ra vườn. Người ta đã trêu tôi, người ta đã sỉ nhục tôi. Tôi, đứa con không bố, đứa trẻ vô thừa nhận. Tôi khóc nức nở trong góc vườn, giữa một cây ổi già và một bụi dứa gai. Rồi mẹ tôi tìm tôi, dắt tôi vào nhà. Đám láng giềng đã về hết. Trên mảnh sân gạch chỉ có hoa khế rụng. Mẹ múc nước giếng trong chiếc bể vỡ, gạn từng gáo đổ vào thau đồng, rồi rửa mặt cho tôi. Tôi nức nở mãi. Tia mặt trời đốt lửa trong các vòng sóng nước và trong mắt tôi. Tôi ngủ vùi. Hôm sau, lúc rạng đông, những con chim hót líu lo trên ngọn tre và khắp khu vườn. Gió mát thổi tan cơn ám ảnh, người bán kẹp mạch nha rong cất tiếng rao dẻo quẹo ngoài đường thôn: 
-Ai mạch nha, mạch nha đây ây ây... 
Mẹ tôi mua cho tôi hai que kẹo lớn, ôm tôi vào lòng và thủ thỉ kể chuyện anh chàng Tốn. Năm ấy, 9 tuổi tròn, tôi mới biết bố tôi là ai... 
Trong cái năm đầu tiên sống một mình, khi ông bà ngoại đều mất và cậu Chính lên chiến khu, mẹ tôi đã phải cắn răng lại chống đỡ nỗi cô đơn, ba gian nhà trên, ba gian nhà dưới trống huyênh. Những quét cho sạch nhà, sạch sàn đã mệt. Lại còn khu vườn đầy cỏ, cứ dọn góc này góc kia đã um tùm. Trưa hè, trong không gian im vắng tù đọng chốn làng quê, tiếng chim tu hú cất lên cũng khiến cô gái trẻ giật thót tim hoảng sợ. Vào nhà, ra sân thui thủi một bóng theo. Ngọn lửa rơm liếm lem lém quanh cái niêu đồng một. Vại dưa chua mốc meo bốc mùi trong nhà, một con cá kho hay nửa quả trứng luộc đặt trên cái đĩa nhỏ bằng lòng tay. Bắt canh leo pheo dăm ngọn rau mồng tơi hay rau dền hái ven bờ rào. Đôiï khi, vừa nhìn ngọn lửa rơm vừa ứa nước mắt thương thân, mẹ tôi lắng nghe tiếng láng giềng gọi nhau sửa soạn bửa cơm chiều, nào giã cua nấu riêu, nào luộc khoai ăn thêm buổi tối, nào rang thóc làm cốm, nào nầu chè lam cúng rằm tháng giêng. Cô gái 19 tuổi không cắt nghĩa được những tai họa giáng xuống đời mình. Thêm vào đó, bọn trai làng nghịch tặc lẫn đám ông lý ông nhiêu háo sắc dòm ngó như quạ vào chuồng lợn, Tối tối, mẹ tôi khóa chặt các cửa, rồi thắp ngọn đèn hoa kỳ hạt đỗ, nằm chờ cho tới sáng. Lúc ngủ dược đã vậy, lúc thao thức chỉ còn biết tặp ba nén nhang khấn tổ tiên, xin các người che chở cho cảnh sống cheo leo, như một mình neo con thuyền trong gió dữ. Đúng lúc ấy, mẹ tôi đã gặp bố tôi. Anh chàng Tốn là hương sự mới được bổ về làng. Trước, bố tôi dạy học trên phố huyện. Nhưng vì bà nội tôi bị tê thấp, bại tiệt một chân nên ông xin đổi về xã để hầu hạ mẹ già. Mẹ tôi 20, bố tôi 26. Mẹ tôi xinh gái nhất vùng, bố tôi cũng là người khá kẻng trai, lại có học vấn. Tình yêu của hai người nảy nở nhanh chóng và tăng trưởng với một tốc độ mà dư luận xã hội không chấp thuận. Theo tục lệ, mẹ tôi phải để tang ba năm, và trong thời gian ba năm ấy, không có quyền yêu đương, trang phục lòe loẹt tham dự hội hè. Bố tôi đã vượt qua những lời đàm tiếu, sự khinh thị, thái độ diễu cợt hay châm chọc của dân làng để cưới mẹ tôi. Người ta mỉa mai: 
- Anh chàng Tốn theo Tây học. Bên Tây, chỉ chịu tang một năm thôi. 
- Mình có phải giống mắt xanh mũi lõ đâu? Rõ quân xanh như lá bạc như vôi, bước qua mồ mả ông bà mà không biết nhục. 
- Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục của tổ tiên. 
- Các ông các bà cứ chờ đấy mà xem. Đã trái lệ ắt sinh sự chẳng lành. Rồi chúng nó cũng chẳng ăn đời ở kiếp được với nhau đâu. 
Lời tiên tri độc ác của họ đã thành sự thực. Nhưng không phải vì bố mẹ muốn chia lìa nhau. Thời gian đầu, hai người đã thực sự hạnh phúc. Bởi vì, trong câu chuyện kể, dù sầu thảm đến đâu, tôi cũng thấy mắt mẹ ánh lên ánh hồi quang nồng nàn, thắm thiết của một tình yêu không thể đo đếm, không thể tìm kiếm lại, thứ tình yêu chỉ có một lần... một năm hai tháng sau ngày bố mẹ cưới nhau, hòa bình lập lại. Bộ đội ta từ chiến khu Việt Bắc kéo về. Khắp nơi vang khúc hát mừng giải phóng, khút hát yêu hòa bình, khúc hát của đồng lúa và rừng xanh. Mẹ tôi mừng mừng tủi tủi, hồi hộp chờ đứa em trai duy nhất. Từ hồi cậu đi, biệt vô âm tín, tịnh không có lấy một dòng thư nhắn về. Có người làng đi buôn thuốc Tây ngược lên vùng Trại Cờ gặp cậu, bảo cậu khỏe mạnh lắm, đã lên chức trung đội trưởng rồi. Người khác lại quả quyết thấy cậu sốt rét, da vàng khè như nghệ, chăn mấy con ngựa cho một đại đội thông tin. Mà cậu không đủ quần áo rét chỉ có một manh trấn thủ giữa tiết tháng Chạp, run lẩy bẩy như người nghiện thiếu thuốc. Mẹ tôi khóc hoài, giục bố tôi lần tìm khắp các đơn vị bộ đội trong tỉnh. Bố tôi cũng cất công đạp xe khắp nơi, nhưng không bắt được tin. Rồi, bỗng dưng nửa năm sau ngày giải phóng, cậu tôi đeo ba lô lùi lũi bước vào nhà. 
Mẹ tôi đang dỡ khoai sọ trong vườn, ném cây cuốc ngồi thụp xuống khóc. Ai gọi mẹ tôi cũng không đứng được lên. Bố tôi dạy học trở về, chào cậu em vợ, đun nước pha trà ngon cho cậu uống. Nhưng đáp lại những săn sóc nồng nhiệt của bố tôi, cậu Chính chỉ hờ hững gật đầu, hoặc ầm ừ trong miệng. Thái độ của cậu vừa trịch thượng, vừa có gì rất khó hiểu. Bố tôi ra vườn gọi mẹ tôi vào rồi bỏ sang nhà mình. Nhà bà nội tôi cách đấy một vườn cau với hai hàng dậu trồng hoa móng rồng. Đứng ở nhà này, có thể gọi vóng sang nhà bên kia. Bà sống với cô Tâm, chị ruột bố tôi. Côtôi 27 rất đẹp nhưng có học lại lạnh tính nên chưa lấy được chồng. Cô vừa làm ruộng vừa nuôi tằm. Bà tôi cơm nước. Bố tôi đã ở bên ấy luôn cho tới ngày bỏ quê đi. 
Về phần mẹ tôi. Khi bố tôi đi khỏi, cậu Chính đã bảo mẹ ngồi xuống chiếc tràng kỷ đối diện với mình và nói: 
- Chị Quế, từ nay về sau chị không được gặp mặt, không được nói năng, không được trao đổi bất cứ việc gì với tên Tốn. 
- Tên Tốn? Sao cậu lại gọi anh ấy như thế? 
- Vì anh ta là phần tử bóc lột. 
- Bóc lột? 
- Gia đình anh ta thuộc thành phần địa chủ, kẻ thù của nông dân. Chị Quế, trước khi về nhà, em đã được trên giao nhiệm vụ đội trưởng đội cải cách ruộng đất. Em đã họp dự thảo từ cấp huyện xuống xã, và đã sơ bộ quy định thành phần cho các nhóm trong làng. Gia Đình tên Tốn có ruộng cho cấy rẽ, có bóc lột công nhân. Theo tình hình được cung cấp, hắn thuộc đối tượng phải đem đấu tố. 
- Đấu tố là thế nào hở cậu? 
- Là buộc kẻ có tội phải cúi đầu nhận tội trước bà con nông dân 
Mẹ tôi run rẩy nói: 
- Từ xưa tới nay gia đình anh ấy vẫn ăn ở hiền lành, chưa làm điều gì độc ác . Cậu biết đấy, ở làng ai xấu ai tốt xóm giềng đều biết cả. 
Cậu Chính nghiêm giọng bảo: 
- Chị không được để kẻ khác lung lạc. Chị phải giữ vững lập trường giai cấp. Chúng ta phải đánh đổ bọn địa chủ cường hào giang ác để đem lại ruộng đất cho bà con nông dân. Nếu không nghe em, chị sẽ bị đào thải khỏi đội ngũ, chị sẽ chịu các hình thức kỷ luật của cách mạng. 
Mẹ tôi òa khóc: 
- Nhưng xưa nay chị và anh vẫn sống êm thấm với mọi người. Anh Tốn tốt nhịn lắm. Hồi anh chị cưới nhau ai mắng chửi, mỉa mai anh ấy đều nuốt giận làm lành. Chị không biết anh bóc lột ra sao. Mà chị cũng chưa nghe những điều em nói bao giờ. 
- Chưa ai nói thì bây giờ Đội cải cách nói, cách mạng nói. Chị Quế, chị phải nghe em. 
Cuộc đối thoại ấy diễn ra trước mặt một số bà con thân quyến. Ai nấy sợ xanh mặt, lặng lẽ ra về. Mọi người không hiểu vì sao bà lão Tam, chủ nhân một mẫu 8 ruộng hương hỏa lại trở thành kẻ thù với mình, thành giai cấp bóc lột phản động. Cô Tâm coi sóc số ruộng ấy. Mùa cày, cô thuê thợ cày. Mùa cấy cô ra đồng cấy. Mùa gặt, cô quần quật vừa làm vừa lo cơm nước cho tốp thợ gặt thuê từ dưới thôn Đông, thôn Sở lên. Trong làng, không thiếu người gia cảnh tương tự như thế. Họ là đám người cốt lõi của làng quê. Những kẻ yêu nghề nông như chính sinh mạng của mình. Tháng Giêng, tiếng trống hội hè vang lên khắp các sân đình, lũ trẻ mặc quần áo mới chạy chộn rộn các ngả đường thôn. Các đám rước và các gánh hát thi nhau dựng rạp, hòng moi những đồng xu nóng ấm thắt kỹ trong hầu bao dân quê. Đám người này, nửa con mắt ngó lên sân diễn, nửa con mắt kia đã liếc ra cánh đồng, nơi những vạt lúa xanh non phủ kín mặt ruộng. Tay họ vục trong bùn, cảm thấy độ ấm lạnh của đất, độ tan nguyễn hay thô cục của các rạch cày. Mùa hạ, trong các cơn gió chạy rần rật qua mái tranh, họ đoán trước được tai họa hay ân huệ của trời đất. Và từ tiếng sấm đầu tiên của cơn mưa đầu tiên, họ đã biết mình phải vác cuốc ra be bồ hay xáo xới các ruộng màu ngoài bãi sông. Tháng Tám, đêm thu trong vắt, tiếng chày giã cốm vọng từ các mảnh sân qua đường làng, tiếng cười đùa chí chóe của lũ đàn bà con gái làm không gian nở bung ngàn đóa hoa trắng, mùi hoa móng rồng mê mệt du níu các vườn cây. Lúc đóù, họ nhìn trăng, quầng đỏ hay tán bạc màu mây xanh leo léo oan nghiệp kia báo trước hiểm nguy gì? Tháng Chạp, những đêm đông tê tái, họ có thể tỉnh dậy giữa lúc giấc ngũ đang nồng, và lặn khỏi giường, chạy ngay tới chuồng trâu, để đem thêm một ôm rơm, hay đốt lên một đống lửa. Nghề nào cũng có những người tận tụy với nó, yêu mê nó. Tình yêu đó đôi lúc không cắt nghĩa được. Nhưng chính nhờ tình yêu ấy mà nó tồn tại. 
Phải, mẹ tôi đã không hiểu được tai họa giáng xuống đầu mình. Mẹ tôi khiếp sợ, như nhiều người khác đã khiếp sợ vào lúc đó. Cậu Chính đã triển khai đội cải cách rất nhanh. Bà nội tôi và cô Tâm chịu quỳ trước sân đình, đấu gục xuống , hai tay vòng trước ngực. Trước mặt hai người là đám dân làng đốt đuốc ngồi. Họ có nhiệm vụ lắng nghe những lời đấu tố. Và mỗi khi có tiếng hét bật lên: “Đả đảo địa chủ.” họ có nhiệm vụ giơ nắm tay lên hô thật to: “Đả đảo! Đả đảo...” 
Hô càng to càng chứng tỏ tinh thần cách mạng vững vàng, chứng tỏ lòng căm ghét giai cấp bóc lột. Mà trong đám đông ấy, không ít những nông phu có ruộng đất và yêu ruộng đất với tình yêu máu thịt, nhờ kinh nghiệm lao động và tính cần mẫn mà có được một nóc nhà, một con trâu với vài ba vựa thóc. Chỉ cần bị một lời tố giác điêu toa, họ dễ dàng nhảy từ địa vị của người ngồi tham dự xuống đáy hố của kẻ bị kết án. Tai họa, nỗi nhục nhã, cái chết treo lơ lửng tựa một trái cây chín rục trên cành cao, không biết nó rụng xuống lúc nào. Bởi lẽ đó, trong tiếng hô rầm rập của đám dân làng, không ít những tiếng gào để che lấp cơn sợ hãi, một cách tự trấn an tinh thần, một cách cầu lợi thấp hèn, cái thấp hèn mà con người khó tránh khỏi trong những cơn giông tố. Mẹ tôi kể rằng trong đám dân làng có hai kẻ được liệt vào loại cốt cán đã đấu tố bà nội tôi và cô Tâm. Người thứ nhất là một gã du thủ du thực, sống lang bang hết làng này qua làng kia, suốt mùa đông tới mùa hè đều đánh một bộ ka ki vá víu, bẩn thỉu. Nghe đâu gã đã có thời đi lính. Sau rồi nghiện rượu, gã được xuất ngũ trước thời hạn. Gã cao lớn, khá đẹp trai, nhưng lười. Người ta chỉ thuê gã làm những việc vặt trong nhà như dọn dẹp mâm bát, coi sóc sân phơi lúa hoặc lật lá thuốc, hù dọa bọn trẻ con ăn trộm mùa quả chín. Gã có tài pha trò hầu chuyện mấy lão chức dịch trong làng, xách thúng đi chợ hoặc làm gà, pha thịt cho mấy bà địa chủ giàu có, gã có thể ngồi đánh tổ tôm suốt đêm, xoa mạt chược suốt đêm như các ông chủ, bà chủ, có thể tán tỉnh các cô thợ gặt từ đầu mùa tới cuối mùa không chán, càng tán càng xôm nhưng chỉ cần cuốc một luống khoai, gã đã thở hồng hộc, mồ hôi toát đầm đìa khắp thân mình vạm vỡ như một võ sư chính cống. Người ta vẫn thì thầm với nhau rằng gã đã ngủ khắp lượt với bà lý Tiềm, bà tống Hớn, bà nhiêu Lan, bà cai Hồng... Còn mấy bà chủ ruộng góa chồng thì có các thêm vàng cũng không dám cho hắn vào nhà vì sợ ễng bụng ra. Không chồng thì biết đổ nọc cho ai? 
- Bích, lại đây mày. 
Đám đàn ông trong làng thường gọi hắn thế, dù hắn ít hơn hoặc nhiều hơn họ một chục tuổi. Hắn không được định giá theo bảng giá trị chung của dân làng. Hắn có cái tên đàn bà: Ngọc Bích, không hiểu cha mẹ hắn đặt từ thuở lọt lòng hay hắn ăn mày ở đâu trong đời phiêu bạt. Người ta cũng không biết cha mẹ hắn là ai. Hắn là dân cư ngụ. 
- Bích, kể chuyện đi. 
- Thưa vâng, chuyện gì bây giờ? 
- Chuyện sờ vú sư cụ. 
- Hi hi... Cho xin một chén đã. 
Từ lão chánh tổng dâm ô 60 tuổi đến gã trai làng phóng đãng vừa có ria mép đều sai khiến được gã theo cách đó. Bỗng dưng, khi được liệt vào thành phần cố nông, đối tượng bắt rễ của đội cải cách, gã liền biến thành kẻ được trọng vọng. Thay vì nói chuyện phiếm mua vui cho cánh mày râu, gã dạy họ phải giác ngộ giai cấp, kiên quyết đấu tranh với bọn địa chủ bốc lột, nêu cao tinh thần chiến đấu. Thay vì ngồi bệt xuống ngạch cửa, chìa bàn tay cáu ghét ra xin chén rượu, hắn ngồi chồm hỗm trên tràng kỷ, nhìn chòng chọc vào mặt những ai bị đấu tố, la lối, sỉ nhục họ với vẻ hả hê bèo bọt. Thứ hả hê của loài cỏ leo. 
Nhưng thôi, hãy nhắc tới nhân vật thứ hai, đó là một mụ góa, một người đàn bà nở nang phốp pháp từ mặt mũi tới thân hình xộc xệch cả áo quần lẫn tâm tính. Mẹ tôi kể rằng mụ khá xinh. Tên mụ là Nần. Da trắng nhây nhẫy, có phơi nắng nửa năm cũng không đen. Hồi chồng mụ còn sống, cứ năm ngày mụ bị ba trận đòn vì tội ăn cắp vặt. Ăn cắp từ trong nhà qua hàng xóm. Từ dăm quả cà, ổ trứng gà đang ấp, mớ ngô, cho tới con cá diếc. Mụ có tật tham ăn. Bún riêu cua, một lúc và lùa sáu bát. Bánh đúc hành mỡ, quẹt ngang miệng cũng bốn đĩa lật. Bánh da kê, người ta ăn hết một góc thì mụ phải làm cả chiếc mới đã nư. Cứ quỳ gối xuống hàng quà là mụ quên tất tần tật: cả chồng, cả con, cả hàng xóm láng giềng. May mà mụ chỉ đẻ mỗi một mống con gái. Người ta bảo mụ ăn quá nhiều, mỡ lấp tịt cả trứng nên không sinh nở được thêm. Giá đẻ nhiều, chắc cả lũ con mụ chết đói dở. Chồng mụ trước kia đăng lính, sau bị sa hố gãy dóng xương chân nên được về làng. Ông ta vốn người cù mì như cục tính. Suốt ngày lặn lội ngoài ruộng, ngoài bãi, lúc vác cày dong trâu về nhà thấy mụ vợ nằm lù lù trên giường ngáy, cơm nước chưa thổi, ông ta liền vác đòn tre phang. Ngày mùa, thóc tuốt về đổ vựa lớn, cót con nhưng chưa qua tháng đã thấy vơi như bị ma làm phép. Ông chồng đầu tiên còn hồ nghi, sau vài bận rình rập mới mục kích vợ xúc thóc trộm bán lấy tiền ăn quà. Ông ta lại nện cho mụ một trận thừa sống thiếu chết rồi thuê người đóng một chiếc rương gỗ lớn bằng cả gian nhà ngang chứa thóc. Cái rương ấy được khóa chặt bởi một ổ khóa bằng gang. Hết đường xơ múi, mụ Nần vác rá sang buồng hàng xóm. Từ láng giềng gần tới bà con xa. Không biết bao nhiêu bận lại bắt quả tang, mụ phải quỳ xuống van lạy. Rồi có lúc ông chồng phải tới tận nơi đem tiền chuộc vợ về. Đòn đánh như đập đất nhưng mụ vẫn không chừa. Thoạt tiên, còn là trộm thóc, sau tới cả con cá, lá rau. Người làng vẫn kể đi kể lại một giai thoại về tính tham ăn của mụ: 
Mùa đông, buổi sớm trời rét như cắt tai. Chưa lăn xuống đất, mụ đã kêu đau bụng. Ông chồng chẳng nói chẳng rằng vào buồng xúc gạo nếp nấu nồi cơm nếp đậu đen. Xong xuôi, ông gọi đứa con gái dậy ăn rồi cha con chuẩn bị cuốc xáo ra bãi. Trước khi đi, ông ta dặn vợ: 
- Nửa trưa, hễ bớt đau bụng thì ngồi dậy nấu cho bố con tôi bát chè. Đường tôi để trong chạn. 
Mụ Nần nhăn nhó: 
- Cứ đi đi. Tôi xem bụng dạ thế nào đã. 
Chồng con vác cuốc đi khỏi ngõ, mụ nhỏm dậy, xuống bếp vét sạch nồi cơm nếp. Xong, mụ sang nhà hàng xóm đánh võng, tán chuyện. Chùng non trưa, ngon ngót bụng, mụ về nhà cạo khoai từ nấu chè. Nồi chè chín, đặc sánh như mỡ, múc vừa đầy bốn bát. Thoạt tiên, mụ Nần ăn hai: 
- Để cho bố con mỗi người một bát. 
Rồi mụ đi vo gạo nấu cơm. Cơm cạn, vùi trấu xong mụ ra vườn hái rau dền nấu canh trứng cáy. Đi ra, đi vào, nhìn hai bát chè, không nhịn được cơn thèm, mụ lại tặc lưỡi húp bát nữa: 
- Thôi, hai bố con nó chia nhau một bát cũng được. Đi ngoài bãi về lạnh bụng ăn của ngọt dễ giở chứng. 
Nồi canh ra đã chín, mấy con cá mắm khô cũng đã nướng xong, mụ Nần sắp bát đũa vào chiếc mâm gỗ, bưng lên nhà. Còn bát chè mụ đặt tít trên bàn thờ để khỏi nhòm ngó tới. Nhưng chồng con mụ ham việc nên quá trưa mới về. Trong khoảng thời gian đó, mụ hết ra ngõ ngóng lại vào nhà cởi áo bắt rận. Bát chè đặt tít trên cao không nguội đi mà cứ nóng hôi hổi trong cơn thèm. Mụ không chịu nổi. Mùi thơm của nó, vị ngọt của nó, hương vị bùi ngậy của nó khiến các giác quan mụ bứt rứt, không yên. 
- Ôi dào, ăn nốt cho gọn chuyện. Lần khác, bố con nó chén hẳn một nồi. 
Người đàn bà tặc lưỡi lần thứ hai. Ông chồng về biết chuyện, lẳng lặng ngồi ăn cơm. Nhưng đứa con gái mới 11 lại bô bô kể cho lũ trẻ trong làng. Hơn nửa năm sau, gia đình mụ có giỗ, Ông chồng mời anh em, họ mạc tới đông đủ vẫn chưa thấy vợ đi chợ về. Xôi dỡ rồi, gà giết rồi chỉ còn thiếu gia vị và các thức nấu. Từ nhà lên chợ huyện những tám cây số rưỡi. Người chồng đành nhờ chú em trông nhà rồi ba chân bốn cẳng chạy té lên phố huyện. Tới chợ, mồ hôi tháo ướt áo quần, ông ta sục tìm khắp nơi. Cuối cùng, tới dãy hàng quà, ông tathấy mụ đang quỳ gối trước chỗ bánh khúc. Bên cạnh, chiếc rổ xề đựng các thứ đồ lề và thực phẩm. Ông ta không nói được câu gì, chỉ hộc lên một tiếng rồi ngã lăn ra. Mọi người xúm lại. Lúc ấy, mụ Nần mới ngẩng được mặt lên. Chồng mụ đã cấm khẩu, mặt mũi tím đỏ như cổ con gà bị thít trước khi cắt tiết. Khi người ta võng ông ta đến trước cổng nhà thương thì ông ta trút hơi thở cuối. 
Chồng chết, mụ Nần bán bớt ba gian nhà ngang để lấy tiền làm ma. Số thóc trong rương đủ nuôi hai mẹ con tới mùa sau. Nhưng vì mụ vẫn không chừa được tật tham ăn. nên mới được nửa mùa, mụ đã vét thúng thóc cuối đem bán. Đứa con gái 11 tuổi không thể thay cha cáng đáng việc nhà. Còn mụ, vốn quen chơi hơn quen làm nên càng ngày càng sa sút. Vừa giỗ đầu cho chồng xong, mụ bán nhà bán đất, dọn tới ở một mái lều ngoài trại, cách làng non cây số. Qua năm, mụ giao đứa con gái cho một bà con đưa lên tỉnh. Con bé đã ra đi không nhỏ một giọt nước mắt. Nghe đâu nó làm công cho một hàng bán bánh cuốn. Vì cơ chỉ, nên nó cũng dành dụm được món tiền còm. Có lần, quá túng đói, mụ Nần lên tỉnh tìm con, nhưng đứa bé trốn không ra gặp mẹ. 
hai nhân vật đó, gã Bích và mụ Nần, không ai trong làng không biết. Chẳng hiểu vì cớ gì, cậu tôi lại xếp vào đội ngũ cốt cán của giai cấp nông dân. Chúng ngồi lên hàng ghế danh dự, đập bàn, quát: 
- Mụ Tam, mày có biết tao là ai không? 
- Thưa có, ông là ông Bích. 
- Con Tâm, con địa chủ gian ác, mày có biết tao là ai không? 
- Thưa có, bà là bà Nần. 
Bên tay trái bà nội và cô tôi, những người khác quỳ gối chờ tới lượt họ. Cứ mỗi lần tiếng hô: “Đả đảo...” cất lên, họ lại run bần bật. Chỉ cô Tâm không hề run rẩy. Mẹ tôi nói rằng cô có cặp mắt tượng, trơ trơ cùng thế gian. Lần đấu tố thứ hai, bà và cô tôi phải đứng đưới một cái hố sâu chừng nửa thước. Đứng ở dưới đó, con người có cảm giác mình là một sinh vật thấp hèn, tủi nhục, bị đầy ải. Ngay những người đàn ông lì lợm rơi vào cảng ngộ ấy cũng phải gục. Bà tôi ốm nặng rồi chết. Chỉ cô tôi là thản nhiên. 
Tôi hỏi mẹ: 
- Còn bố con thì sao? 
- Bố con không như cô Tâm, bố con không chịu được nhục. 
Mẹ tôi trả lời, với một giọng buồn, chẳng ra chê trách, cũng chẳng ra thán phục. Mẹ kể rằng bố tôi đã đau khổ ngay từ lần đầu tiên cậu Chính tới nhà bà nội tôi, chỉ vào mặt ông mà nói: 
- Trước kia, anh với chị Quế là vợ chồng. Bây giờ, anh là kẻ thù giai cấp, không có quyền đi lại với chị tôi. Nếu anh còn bén mảng tới nhà chị ấy, tôi sẽ ra lệnh cho du kích bắt trói. 
Cậu nói xong, tiếng trống cà rùng nổi lên, dinh tai nhức óc. Rồi tiếng hô uy hiếp vọng vào: 
- Kiên quyết đánh đổ địa chủ Đỗ thị Tam. 
- Kiên quyết đánh đổ... 
Cậu Chính nhìn bố tôi, hất hàm: 
- Nghe rõ chưa? 
Bố tôi không trả lời. Cậu quát: 
- Đội hỏi, có trả lời không? 
Mặt bố tôi tái xanh, mồ hôi và đầy hai thái dương nhưng vẫn im lặng. Lúc ấy cô Tâm bước lên: 
- Bẩm thưa đội, bây giờ chúng con biết thân biết phận, dù Đội không ra lệnh, người nhà con cũng không dám chơi trèo. 
Cậu Chính là đội trưởng đội cải cách. Lúc ấy, đội cải cách là Thượng đế, là Trời. Câu trả lời của cô Tâm thỏa mãn lòng tự ái của cậu. Cậu đi ra. Nhưng theo lệnh của cậu, đoàn thiếu nhi còn ở lại, hô khẩu hiệu, đánh trồng thị uy, và đồng thanh hát. Bài hát thế này: 
Cắt đứt là cắt đứt 
Dứt khoát là dứt khoát 
không vương vấn giai cấp dịa chủ... 
Bài ấy mới hợp tình cảm của bố mẹ tôi làm sao? Dăm hôm sau, vào một đêm mưa, cô Tâm thu xếp cho bố tôi trốn khỏi làng: 
- Đi đi, em không chịu được nhục đâu. Muốn sống qua lúc này, phải chịu nhục. Đừng lo gì cho chị cả. Rồi trời khắc có mắt thôi. 
Giá người khác như thế, ắt bị truy lùng khốn khổ, nhưng cậu Chính chỉ tra hỏi cô Tâm qua loa rồi lờ đi. Cậu bảo mẹ tôi: 
- Thằng ấy đi khuất mắt càng tốt cho chị. Từ đây, chị yên tâm làm ăn. Gánh hàng xén đem bỏ đi. Cặp bồ để mà dấm chuối. Ruộng Được chia rồi, nay mai nước mình sẽ tiến ngang với Liên Xô, mùa cày có máy cày, mùa gặt có máy liên hoàn gặp đập, không ai phải mó tay vào bùn đất. 
Mẹ tôi cúi đầu nghe cậu nói, nước mắt rơi lã chã hai hàng. Trưa hôm sau, mẹ tôi vác giỏ ra đồng móc cua, chờ cô Tâm đem quần áo ra đầm giặt. hai người nói chuyện với nhau, một người cúi gầm mặt xuống bờ ruộng giả bộ móc cua, một người vỗ đập quần áo: 
- Cô Tâm, nhà tôi đi đâu thế? 
- Thưa bà nông dân, chúng con không biết. 
- Tôi xin cô, tôi có làm gì nên tội đâu. 
- Thưa bà, con biết bà là chị ruột đội Chính. Đội là Trời, bọn địa chủ chúng con là sâu bọ. 
- Trăm lạy cô, ngàn lạy cô, đừng dày vò ruột tôi nữa. Chồng tôi đi đâu? 
- Chị đã có em, chị khỏi phải có chồng. Người nhà tôi không chịu được nhục. Nó nhất thiết phải bước khỏi đây, dù núi cao hay sông sâu, dù kiếm ăn nơi đồng chua nước mặn hay sống nơi lam sơn chướng khí cũng còn hơn cảnh đọa đầy này. 
Nói xong, cô Tâm cắp rổ quần áo ướt, tong tả về làng. Mẹ tôi cứ cúi khom lưng xuống ruộng, tay vẫn ngâm trong hốc cua, nước mắt mồ hôi chan chứa. 
Tối hôm đó, cậu Chính hỏi mẹ tôi: 
- Trưa nay chị gặp con Tâm? 
Mẹ tôi cãi: 
- Ai bảo cậu thế? 
Cậu đáp: 
- Anh em du kích theo dõi. 
Mẹ tôi nói: 
- Tôi đi móc cua. 
Cậu bảo: 
- Không ai móc cua lại đứng mãi một góc ruộng. Chị đừng cãi. 
hai người lặng im một lát, rồi cậu bảo: 
- Vì ba đời nhà ta làm thuê bốc thuốc, không có một tấc đất nên tôi mới được làm đội trưởng. Nếu chị liên hệ với bọn địa chủ, có đứa báo cáo lên cấp trên, sẽ ảnh hưởng uy tín của tôi. 
Mẹ tôi lại bật khóc: 
- Tôi khổ quá. 
Cậu Chính quát: 
- Chị không được nghĩ tới cá nhân mình. Chị phải nghĩ tới quyền lợi giai cấp. 
Nói xong, cậu bước ra khỏi nhà. Mẹ tôi quằn quại, rên rỉ một mình trong gian nhà trống vắng, với cây đèn hoa kỳ trên bàn thờ gia tiên. Từ dạo đó mẹ tôi càng ngày càng gầy rộc, hai hố mắt trũng sâu. Đêm đêm, mẹ tôi thờ thẫn ra vườn, đến từng gốc khế, bụi móng rồng, từng gốc ổi, gốc sung thì thầm. Phải chăng mẹ trò chuyện với những vật vô tri vô giác ấy về tình yêu của mình, về người đàn ông duy nhất đã đem tới nguồn vui sướng và tuổi xuân, về nỗi oan khuất không thể bày tỏ. Người làng thì thầm là mẹ tôi mắc bệnh tâm thần. Cậu Chính giận lắm: 
- Người làng xì xào bàn tán. Họ bảo chị còn thương tiếc thằng địa chủ Tốn. Rằng vì thế mà chị dở điên, dở dại, suốt ngày nói chuyện một mình. 
- ... 
- Chị có biết rằng chị đang giết hại uy tín của tôi không? Khắp vùng này, chẳng có đội nào tiến hành cải cách triệt để bằng đội của tôi. Không khéo vì chị, hóa thành công cốc. Chị Quế, hãy nghe em. Chị em mình vẫn là chị em, trước sau như một. 
- ... 
- Chị Quế, bố mẹ chết chỉ còn hai chị em mình. Em không thương chị thì thương ai? Chị còn trẻ, được nết được người, thành phần cơ bản, có nhà có ruộng, lấy đâu cũng được người tử tế. Chị nghĩ đi, một đằng tương lai sáng sủa, được cách mạng dìu dắt, một đằng bị đào thải khỏi hàng ngũ, đứng trong đám kẻ thù nhân dân. 
- ... 
- Em nói lời cuối cùng, chị hãy tỉnh ngộ. Vài hôm nữa lên tỉnh em sẽ giới thiệu chị với anh Nham, cấp trên của em. Hồi ở chiến khu, anh ấy là đại đội trưởng thông tin của tư lệnh mặt trận. 
Trước những lời lẽ ấy, mẹ tôi lặng im. một đêm tháng Chạp, mẹ cuốn bọc quần áo rời khỏi làng. Cậu Chính cho người dò xét, không ai biết. Tra hỏi cô Tâm, cô một mực bảo rằng không liên quan. Cuối cùng cậu tuyên bố với dân làng rằng mẹ tôi mắc bệnh thận, phải lên thành phố chữa. 
Nửa năm trôi qua, cậu Chính cùng đội cải cách rút khỏi làng. Căn nhà được khóa lại bởi một ổ khóa gang to tướng, chìa đem gửi một người bà con gần gụi. Trẻ con nghịch, đem đất sét trát kín ổ khóa, rồi vẽ lăng nhăng nhảm nhí lên những cánh cửa vá các bức tường vôi. Lá tre rụng lấp đầy chân tường. Màng nhện bắt đầu chăng lớp mỏng lớp dầy hai bên đầu hồi. Lúc ấy, mẹ tôi về, thất thểu như bóng ma. Làn da hồng mịn màng xưa kia đã sạm. Những nếp nhăn mờ in trền gò má và sơn căn, giữa hai tràng mày cong vút. Đêm ấy, chòm xóm kéo sang thăm hỏi. Mẹ tôi ngồi vòng tay ôm gối, nước mắt thánh thót rơi. Thói thường, người làng hay tọc mạch. Họ nhất thiết dò tìm điều muốn biết. Nhưng dạo ấy, họ không cật vấn mẹ tôi. Phần vì thương, phần bị hút vào cuộc xáo động mới. Đội sửa sai về làng. 
Giống như làn gió sung mãn thổi qua cánh đồng tiêu điều trơ gốc rạ, đội sửa sai không thể cứu những cánh ruộng đã bị giông gió quần nát, những hạt thóc bị vùi giữa bùn, nhưng ít nhất nó cũng quét được phần nào làn không khí hắc ám tù đọng trong không gian. Thôn xóm vang tiếng cười, tiếng khóc, tiếng than hờ, lời kể lể những nông nỗi oan khuất, tiềng hú gọi hồn những người thác oan. Đèn dầu cháy thâu đêm trong các căn nhà. Người ta mở cửa thâu đêm, trò chuyện thâu đêm, họp hành thâu đêm. Người ta đòi rạch mồm những kẻ tố điêu, đòi bồi thường danh dự, đòi nợ máu. Kẻ bị căm ghét nhất là cậu Chính. Lúc đó, không rõ cậu ẩn núp nơi nào. Chỉ mẹ tôi và căn nhà tổ tiên để lại là không thể chạy trốn cơn giông bão thù hận. một tối đám người bị kích động tay thước tay dao đã ập tới cổng, đòi mẹ tôi ra đền nợ máu thay đứa em trai. Họ nguyền rủa, đập phá, la hét. Mẹ run như giẽ núp trong buồng. Buồng đã cài then. Cửa chính cũng đã khóa. Nhưng chắc chắn nếu đám người kia lấn tới, chúng sẽ bị đập tan. Lúc ấy cô Tâm đã nhảy ra: 
- Các ông các bà có điên không? 
Cô nói, giọng lạnh lùng, đầy uy lực. 
- Chỉ có lũ trẻ chưa ráo máu đầu mới xử sự như thế này, chỉ có kẻ mất trí mới giận cá chém thớt. Người biết nghĩa không ai làm bậy. Hơn nữa... tôi hỏi, liệu em dâu tôi có đáng chịu tội không? Các ông các bà mất ruộng, cô ấy mất chồng. Bây giờ sửa sai, ruộng vườn còn đòi lại được, cô ấy tìm chồng mòn gót lại trở về tay không. 
Cơn điên của đám đông dịu xuống. Cán bộ sửa sai tới trấn an. Người ta ra về. Cô Tâm gọi mẹ tôi mở cửa. hai người đàn bà ông nhau khóc... 
"Ngây thơ" - thiếu nữ Nhật Bản
Con tàu dừng lại. Ga đầu tiên trên chặng đường dài. Bảy giờ kém 15 phút. Người đàn ông bên tôi giơ tay che miệng ngáp. Ông ta gấp cuốn sách trinh thám bỏ vào túi, rồi đưa mắt liếc nhìn tôi như nhìn một con mèo ngồi trong góc đi văng. 
- Ư hừm ừm... 
Bỗng dưng ông ta hắng giọng một cách vô lý, rồi nhoài qua mặt tôi, áp chiếc mũi khoằm vào cửa kính nhìn ra bên ngoài. Tàu dừng ở một ga tỉnh lỵ. Thành phố nhỏ nhưng đẹp, êm dịu, u tịch. Các dãy phố đổ từ các ngọn đồi xuống lòng thung, nhà nọ tiếp nhà kia chẳng nhà nào giống nhà nào nhưng tất cả đầu toát ra hương vị ngọt ngòa của các mối tình xưa cũ. Các bức tường trắng diệp màu trong ánh trắng hoàng hôn. Các rèm cây uốn lượn theo dọc phố, thếp vàng trên đỉnh các ngọn đồi và biến màu tím thẫm dưới lòng thung, nơi phố chia thành nhiều hẻm con, khuất lấp trong các khu vườn. 
Người đàn ông ngắm nghía tỉnh lỵ, gật gù. Rồi ông ta khẽ nhếch lông mày, nheo mắt nhìn tôi. Dường như ông ta muốn nói: 
- Thế nào, thành phố của chúng tao đẹp đấy chứ, bé con? 
Tôi im lặng, không đáp. Trong những trường hợp như thế, tôi thường không tìm cách ứng xử khôn ngoan. Người khách đồng hành rút trong chiếc túi đi đường hai miếng bánh mì kẹp thịt, chìa cho tôi: 
- Làm một miếng cho vui, cô bạn đồng hành, cô cũng tới Matxcơva chứ? 
Tôi đáp: 
- Vâng. Cảm ơn ông, tôi chưa thấy đói. 
Ông ta khẽ nhún vai, cười. Răng ông ta đã hỏng nhiều, cái trẩm bạc, cái thay răng giả. Vì thế, nụ cười thật hài hước. Bất giác, tôi cũng cười theo. Người đàn ông bắt đầu nhai bánh mì một cách ngon lành. Nhưng được vài ba miếng chợt ông ngừng lại. Đoạn, lấy trong túi đi đường chiếc rađiô cát sét Nhật, ông ta thận trọng đặt lên bàn, bật nút. Ngay tức khắc, giọng hát quen thuộc của Pugatrôva vang lên. Ông khách đồng hành nhìn tôi. Cái nhìn thay cho câu hỏi: 
- Thế nào, không làm cô khó chịu chứ? 
Tôi nói: 
- Tôi rất thích. Cám ơn. 
Ông khách ngả người vào thành ghế, vừa nghe hát vừa nhai bánh mì, vẻ mặt ông mãn nguyện. Nhưng tôi cũng không còn chú ý tới ông, cũng không chú ý tới con tàu đã bắt đầu chuyển bánh, rời xa tỉnh lỵ. Giọng hát nổi loạn của người nữ ca sĩ mê hoặc tôi. Có lẽ giọng hát ấy đã là một trong những niềm vui hiếm hoi ở xứ này, giúp tôi chiến thắng nỗi buồn ly hương kể từ ngày bắt đầu cuộc đời công nhân xuất khẩu. Lần đầu, tôi nghe giọng hát ấy ở nhà một tay nghiên cứu sinh trong thàng phố Kiep. Ông ta là chú họ cô bạn cùng cư xá với tôi. Cô ta cao lớn, rắn rỏi, sống phóng đãng. Cô có thể cùng một lúc chung sống với dăm bảy anh chàng, nhưng không bao giờ nhớ tới họ. 
- “Trong giấy mơ của tao không có chỗ dành cho gương mặt đàn ông.” 
Cô thường tuyên bố với bọn tôi như thế. Vậy mà, tụi đàn ông lại lăn vào mê say cô như điếu đổ. Đám con gái ghen ghét với cô thì thầm rằng cô học được cách làm bùa mê của mấy mụ digan. Tôi, tôi biết cô rất đẹp. một vẻ đẹp tàn bạo, thiêu đốt. Những người đàn ông bản lĩnh tầm thường không thể tránh khỏi ngọn lửa ấy. Nó biến họ thành tàn tro. Nhưng tôi cũng thích cô vì cô thành thực, thành thực ngay với tội ác của mình, và hay bênh vực kẻ yếu. Mùa đông năm đầu tiên chúng tôi sang Nga, nỗi buồn tê tái xâm chiếm tâm hồn. Căn buồng khu cư xá như cái hộp tẩm ướt những ý nghĩ buồn tẻ, và quây bọc chúng tôi trong nỗi nhớ nhà. Cứ ngày nghỉ chúng tôi lại tìm cách đi chơi. Ít nhất là để lẩn tránh bốn bức tường nhàm chán ấy và nghe tiếng nói mới, nhìn gương mặt mới của người Việt. Lần đó, cô bạn dẫn tôi đến Kiep. Chú họ cô đang nghiên cứu môn Điện cơ. Khu nhà đủ sinh viên các màu da, lúc nào cũng rầm rập người đi lại, khuân vác hòm xiểng, hàng hóa. Lạc vào đó, khó mà tìm được lối ra. May sao, vốn từ vựng tiếng Nga của tôi cũng khá. Hai chúng tôi kéo đi chợ, mua thực phẩm và hoa quả trước khi tới nhà khách. Cô bạn tôi bảo: 
- Các lão nghiên cứu sinh bao giờ cũng keo kiệt. Mình chuẩn bị trước vẫn tốt hơn. 
Chú họ cô trạc ngoại 40, dáng vẻ nho nhã. Ông ta đang cạo chiếc móng giò, thứ thực phẩm rẻ tiền cho nhữnng ai muốn dè xẻn từng côpếch. Nghe tiếng gõ cữa, ông ta vội dúi vào xoong, đậy nắp. Cô bạn tôi cười khanh khách, lật nắp xoong bảo ông: 
- Ôi dào ôi, có giấu diếm thì người ta cũng biết tỏng ra rồi. Các chú già trót đời cũng không chừa được tính sĩ. 
Chú cô ngượng gỏ mặt, nhìn tôi. Chừng như thấy tôi quê mùa, nhút nhát nên ông ta yên tâm mỉm cười. Cô cháu bảo: 
- Thôi dẹp cái móng giò ấy lại. Cháu mua thịt bò với gà làm sẵn rồi. Gà loại một của Hung nhập sang đấy. Chú ở nhà nấu nướng với cái Hằng nhé. Cháu phải chạy sang mấy đứa bạn tí xíu. 
Nói xong, cô ném túi thực phẩm xuống sàn, vào phòng vệ sinh mở nước rửa, rồi lát sau quay ra: 
- Hằng ở đây, tao đi một lát thôi. 
Không chờ tôi trả lời, cô xách ví đi luôn. Buộc lòng, tôi phải cùng ông chú họ cô chuẩn bị bữa ăn. Cô bạn tôi đi một giờ, hai giờ, ba giờ đồng hồ sau cũng chưa thấy về. Ông chú họ mời tôi ăn cơm trước. Ăn xong, trời mờ tối. Tuyết bắt dầu rơi. Từng vệt trắng dài, cheo chéo ngoài cửa kính. Bóng mây xám tro bồng bềnh như một biển hoàng hôn trải trên thành phố. Các cành cây đã rụng hết lá, trơ trọi vẽ những nét gầy guộc, cọ quạnh. Giữa đám cây, một đốn đen vụt lướt qua. Chắc hẳn, đó là một con quạ. 
Tôi đang dán mặt vào khuôn cửa, chợt ông chú họ cô bạn nói: 
- Uống một chút rượu cho ấm bụng nhé? 
Tôi ngạc nhiên, chưa kịp đáp, ông ta đã hấp tấp mở tủ, lấy chai rượu. Rồi cúi xuống gầm giường, ông ta kéo ra chiếc hòm gỗ, trong xếp đầy những bát chén sứ, ly cốc bằng thủy tinh và pha lê. Những chiếc ly khua lanh canh. Rót hai chén ruợu, ông chìa cho tôi: 
- Uống đi, nào uống cho ấm. Tuyết lại rơi, trời rét ghê. 
- Cảm ơn chú, nhưng cháu không uống được rượu nặng. 
- Được, được... rượu nhẹ thôi. Mà có nặng thì trời rét này cũng chẳng thấm vào đâu. 
Ống ấn ly rượu tận môi tôi. Lúng túng, nhưng quá nể nang, tôi đành uống một ngụm. 
- Ngụm nữa, ngụm nữa sẽ thấy người ấm lên. 
Ông nài nỉ, dốc tuột cốc rượu vào họng tôi. một chất lửa lan truyền khiến toàn thân tôi nóng rực. Mắt nhìn chao đảo, bập bênh. Ông chú họ cô bạn tôi uống cạn ly rượu, rất nhanh. Rồi một ly nữa, ly nữa... Quái lạ, sao ông ta lại uống rượu sau bữa ăn? Tôi ngơ ngẩn với nỗi băn khoan ấy. Người đàn ông ngồi xuống ghế, cười ngây độn. Rồi rất nhanh, ông ta nhào tới ôm chặt lấy tôi: 
- Em, em... nào em... 
Miệng ông ta nồng nặc mùi rượu và mùi tỏi. Cặp môi dày hé mở, thật ghê tởm. Những ngón tay cứng như gọng kìm, xiết chặt vai tôi. Trong khoảnh khắc ấy, chợt một nỗi căm hờn dâng lên, nghẹn ứ tim. Tôi tỉnh rượu tức khắc, tôi nhìn thấy từng sợi râu, li ti trên mép người đàn ông, mụn ruồi thịt trên cánh mũi, cả chất mỡ ngoang nhoáng trên hai gò má đỏ ửng lên vì rượu: 
- Ông bỏ tôi ra. Tôi sẽ hét lên đấy. 
Tôi đáp, bằng một giọng nhỏ nhẹ nhưng bình tĩnh. Tôi cố sức nhìn vào mặt ông ta, cố đẩy cái khuôn mặt ấy ra xa để nhận diện cho rõ ràng. 
- Không có gì đâu... Không có gì đâu em. 
Ông ta lắp bắp. Hai khóe môi dày khép mở, giống như miệng cái mặt nạ ông Địa trẻ con thường chơi ngày Tết Trung Thu. Tôi hoàn toàn không thấy sợ, nhưng ghê tởm và căm thù, có lẽ, ông ta đã lờ mờ nhận biết được điều đó qua ánh mắt tôi. Ông ta nhếch môi cười. 
- Tuyết rơi... Trời rét... rét ghê. 
Có tiếng gõ cửa. Cô bạn tôi trở về. Tức khắc, cô mỉm cười: 
- Chú mà cũng khốn nạn thế à? Đẹp mặt nhỉ. 
Ông chú họ co rúm lại, buông thõng hai tay ngồi xuống giường. Các thớ thịt trên mặt ông chảy xuống. Lúc ấy, trông ông già như một ông lão lục tuần. Cô bạn tôi mở tủ, rót nước lạnh uống rồi bảo: 
- Đánh đĩ mười phương cũng phải chừa một phương để lấy chồng chứ? Bạn cháu mà chú cũng không tha à? 
Ông chú im ro, không đáp. Hai vai ông nhô lên gần chấm tai. Cô bạn nói tiếp: 
- Thôi, sang phòng bên mà ngủ nhờ. Đêm nay chúng cháu ở đây. Từ giờ trở đi, chú liều liệu đấy. 
Ông chú lật nắp giường, lấy ra một bộ chăn gối: 
- Đây này. Mới giặt xong tuần trước. 
Nói đoạn, ông lùi lũi mở cửa phòng, đi ra. Cô bạn tôi khóa trái cửa buồng, trải chăn nệm cho tôi nằm, rồi nói: 
- Đừng buồn. Đời nó thế. Tất nhiên là cũng có những người tốt. Nhưng mà... Thôi, đừng nghĩ cho mệt óc. Tao mở máy quay đĩa cho mà nghe.
Nhà văn Dương Thu Hương

"Dáng ngọc" - siêu mẫu đồ lót châu Âu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét