Hạt Higgs boson. |
LHC đã được thai nghén từ 30 năm trước. Một thế hệ các nhà vật lý trẻ đã cống hiến phần lớn sự nghiệp khoa học của mình để xây dựng LHC. Sự cống hiến như vậy cho riêng một dự án kéo dài trong nhiều năm không phải bình thường trong khoa học. Nó đòi hỏi nhiệt huyết, sự quyết tâm và niềm tin vào thành công của dự án.
Hai nhà vật lý, Fabiola Gianotti và Joe Incandela, những người đã trình bày kết quả của hai thí nghiệm ATLAS và CMS, là hai đồng nghiệp trẻ của tôi tại UA2 (thí nghiệm mà tôi là phát ngôn viên trong những năm tám mươi). Fabiola tham gia vào thí nghiệm khi cô còn là một nghiên cứu sinh trẻ. Có lần tôi trực vận hành máy gia tốc cùng với cô; hôm đó đường điện bị hỏng do một cơn bão nên máy không thể vận hành được trong khoảng thời gian dài. Chúng tôi không thể làm gì hơn ngoài việc chờ đợi. Lúc đó, Fabiola mang theo cuốn sách Finnergans Wake của tác giả James Joyce. Chúng tôi đã nói rất nhiều về James Joyce và cả tiểu thuyết Ulysses của ông. Tôi rất ấn tượng về cô ấy: ở tuổi cô, tôi thậm chí không biết James Joyce là ai. Còn Joe thì tham gia cùng với chúng tôi khi anh là thực tập sinh sau tiến sỹ. Anh thực hiện nghiên cứu về đơn cực từ Dirac cho luận án tiến sỹ của mình tại Chicago. Mặc dù, Joe không tìm thấy đơn cực từ nào nhưng anh thiết lập được những điều kiện ràng buộc chặt chẽ về sự tồn tại của chúng. Tôi nhớ khi đến thăm Joe vào thời điểm đó, thí nghiệm của anh được bày trên một chiếc bàn, nổi bật lên là một vòng dây lớn và anh ấy gần như chỉ làm việc một mình. Bây giờ, anh làm việc cùng với hàng ngàn cộng sự…
"Tự cảm nhận" - thiếu nữ Nhật Bản |
Những người không quen thuộc với vật lý hạt có thể khó hình dung được tầm quan trọng của sự kiện này và cách gọi hạt Higgs boson là “Hạt của chúa”, như trên một số phương tiện thông tin đại chúng, không thực sự giúp chúng ta hiểu vấn đề rõ hơn.
Chúng ta hãy bắt đầu với cái nhìn tổng quát về cách các nhà vật lý nhìn nhận thế giới. Họ nhìn nhận thế giới như thể được cấu tạo bởi các khối cơ sở mà họ gọi là các hạt cơ bản. Trong các khối cơ sở thì electron của một nguyên tử và các hạt quark trong proton và neutron tạo nên các hạt nhân nguyên tử là những khối phổ biến nhất. Mọi thứ trong Vũ trụ, các ngôi sao, các thiên hà và ngay cả chúng ta cũng đều được tạo bởi những hạt cơ bản này. Kích thước của chúng rất nhỏ so với kích thước của con người: cỡ một phần một tỉ micromét. Khi quan sát các vật với kích thước nhỏ như vậy, người ta thấy rằng chúng hành xử rất khác lạ, vừa như hạt và lại vừa như sóng: do đó người ta buộc phải từ bỏ cả hai khái niệm này và thay vào đó bằng một khái niệm mới: thế giới của vật lý lượng tử. Hằng số Plank, thường được viết là ħ, xác định giới hạn mà bắt đầu từ đó các hiệu ứng lượng tử không còn có thể bỏ qua được. Đối với những vật được tạo nên bởi các hạt cơ bản, như proton và neutron, tích số của khối lượng và kích thước của chúng luôn lớn hơn hoặc bằng ħ. Phát biểu này được gọi là nguyên lý bất định Heisenberg và nó xác định một giới hạn cho thế giới vật lý: Giới hạn Heisenberg.
"Đợi" - tranh của họa sĩ Vũ Hạnh Chi |
Giao điểm của hai giới hạn Heisenberg và Schwarzschild tương ứng với kích thước ~10-33 cm và khối lượng ~1019 lần khối lượng của proton. Nó được gọi là thang Plank (Plank scale). Tại đó, như hiện nay chúng ta biết, vật lý lượng tử và thuyết hấp dẫn không tương thích với nhau: để miêu tả các hiện tượng xảy ra tại kích thước này, chúng ta cần một lý thuyết mới mà trong đó cả vật lý lượng tử và thuyết hấp dẫn chỉ là những ước tính xấp xỉ đơn giản áp dụng riêng biệt trong các vùng chịu tác động của chúng. Đã vài thập kỷ qua, nhiều nhà vật lý lý thuyết đã bỏ nhiều thời gian và công sức để xây dựng lý thuyết mới như vậy. Thành phần chính của lý thuyết này là các dây có kích thước cỡ kích thước Plank; đã có nhiều tiến bộ thu được trong lĩnh vực này nhưng vẫn còn rất nhiều điều cần phải làm. Vụ nổ Big Bang cũng đã xảy ra tại quy mô cỡ kích thước Plank: những điều xảy ra tại kích thước Plank có thể là những bí ẩn chính của vật lý hiện đại và người ta hy vọng giải thích được bí ẩn này sẽ đồng thời giải quyết nhiều vấn đề khác có thể ít cơ bản hơn của vật lý.
"Ba tháng tuổi" - người mẫu Việt Nam |
Khối lượng của các ngôi sao và các đám khí chỉ chiếm khoảng 4% khối lượng của Vũ trụ và chúng ta vẫn hoàn toàn chưa hiểu được ba phần tư khối lượng của Vũ trụ gồm những gì. Đó là một bí ẩn lớn nữa của vật lý hiện đại. Chúng ta không biết nó là gì, và gọi là “năng lượng tối”. Năng lượng tối được mô tả bởi thuyết tương đối rộng bằng một số duy nhất, Λ, gọi là hằng số vũ trụ. Trong hệ thống đơn vị mà chúng ta đang làm việc, mật độ của năng lượng tối là Λ/8π, điều đó có nghĩa là hằng số vũ trụ có giá trị khoảng bằng 10-120. Do đó, đáy của chiếc nón xác định giới hạn thứ ba của Vũ trụ. Người ta thấy trên giới hạn này, tại giao điểm với giới hạn Heisenberg, là sự tồn tại của hạt nhẹ nhất trong tất cả các hạt cơ bản được biết đến, hạt neutrino. Chúng ta chưa rõ liệu đây là một sự ngẫu nhiên hay có ý nghĩa sâu xa nào đó.
Khi xem xét những chi tiết nhỏ hơn, chúng ta phát hiện ra những bí ẩn mới. Trong thế giới của lực hấp dẫn, vật chất tối và những điều xảy ra ngay sau Big Bang - sự giãn nở đột ngột của Vũ trụ - là những vấn đề thách thức nhất. Còn trong thế giới lượng tử, cơ chế tạo ra khối lượng là mối quan tâm hàng đầu. Những hạt cơ bản mà chúng ta biết đến có khối lượng cực kỳ nhỏ: hạt nặng nhất trong số chúng, hạt top quark, có khối lượng chỉ là ~10-17 (so với khối lượng Plank, trong hệ đơn vị ta đang sử dụng). Do đó, người ta nghĩ rằng một thế giới với các hạt không có khối lượng là một hình dung gần đúng hợp lý của thế giới thực. Với giả thuyết như vậy, bức tranh về thế giới trở nên đẹp đẽ và đơn giản một cách đáng kinh ngạc và chỉ cần dựa vào một số rất ít nguyên lý cơ bản: đối xứng không - thời gian theo phép quay và phép tịnh tiến (nhóm Poincaré), những đối xứng trao đổi giữa các hạt đồng nhất (cũng có cấu trúc nhóm, SU(3) đối với tương tác mạnh và SU(2)×U(1) đối với tương tác điện yếu) và cái mà chúng ta gọi là bất biến gauge, nghĩa là các quy luật vật lý không phụ thuộc vào những pha cố hữu của vật lý lượng tử. Khả năng dự đoán của lý thuyết này thật đáng kinh ngạc: nó chỉ đòi hỏi sự tồn tại của photon, các hạt boson truyền tương tác yếu, các hạt gluon truyền tương tác mạnh. Lý thuyết này được xác định với độ chính xác tốt hơn 1% bởi hàng trăm thí nghiệm khác nhau,
Tuy nhiên, lý thuyết này không lý giải được khối lượng mặc dù nhỏ của các hạt cơ bản. Ngay khi đặt khối lượng đúng với khối lượng thực của chúng, mặc dù rất nhỏ, lý thuyết này sụp đổ: người ta phải thay đổi lý thuyết để có thể có các hạt cơ bản có khối lượng khác không. Cách đơn giản và tiết kiệm nhất là đưa vào một hạt mới có tính chất đặc biệt. Nó tương tác với tất cả các hạt khác với cường độ tương tác tỉ lệ thuận với khối lượng của các hạt. Hạt này được gọi là hạt Higgs boson và được đề cập tới từ năm 1964 bởi sáu nhà vật lý Robert Brout, François Englert, Gerald Guralnik, Carl Richard Hagen, Peter Higgs và Thomas Kibble. Hạt Higgs có spin bằng 0 và do đó được gọi là hạt vô hướng, trong khi tất cả các hạt cơ bản khác có spin bằng 1 hoặc 1/2. Cái đẹp của nó đến từ thực tế là nó đem lại khối lượng cho các hạt cơ bản nhờ một sự không hoàn hảo nhỏ của đối xứng điện yếu SU(2)×U(1): phá vỡ một cách nhẹ nhàng đối xứng này (có thể quan sát được trong thực tế), và một cách tự nhiên tạo nên khối lượng của các hạt cơ bản. Ý tưởng chi phối cơ chế tự phát khối lượng này rất tổng quát và đẹp, người ta gọi nó là phá vỡ đối xứng tự phát và ngay lập tức nó được cộng đồng khoa học chấp nhận, coi đây chính là cơ chế khả dĩ nhất của Tự nhiên. Lý thuyết này dự đoán tương tác của hạt Higgs boson với các hạt cơ bản một cách chi tiết nhưng lại không dự đoán được chính xác khối lượng Higgs: đó chính là động lực thúc đẩy việc xây dựng LHC, có dải năng lượng phủ trên khoảng rộng để không bỏ lỡ cơ hội tìm thấy hạt Higgs nếu nó tồn tại.
"Si mê" - siêu mẫu nội y châu Âu |
Triển vọng về những phát hiện mới trong vùng khám phá mới của vật lý hạt là phần thưởng xứng đáng đền đáp cho tất cả những người đã cống hiến cho công cuộc này trong nhiều thập kỷ qua. Chúng ta hãy chúc cho họ đạt được nhiều thành công hơn nữa!
Pierre Darriulat
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét