Bà Aung San Suu Kyi sẽ đến Pháp theo lời mời của tổng thống Hollande. |
Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật, các học giả đã chú ý đến các yếu tố “dân chủ” trong chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. (ảnh không liên quan đến bài viết)
Lý thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật. Đối với tôi, rất chủ quan, bà là người chính trị duy nhất thời nay nắm đúng tư tưởng Phật giáo và hành động đúng với tư tưởng đó. Bà là người lãnh đạo Phật tử duy nhất không xa lý thuyết của Phật một bước trong mọi hành động chính trị. Lý thuyết của Phật nói: vô uý! Bà gan dạ, can trường. Lý thuyết của Phật nói: từ bi! Bà không căm thù, dù là đối với những người đã chà đạp bà. Chỉ với một người lãnh đạo như vậy mới làm được tôi tin khi nói đến dân chủ trong Phật giáo. Tôi tin lý thuyết ấy không phải là lý thuyết suông. Không phải là ý thức hệ. Nó thở nơi người phụ nữ mảnh khảnh mà quắc thước ấy.
Vậy thì, đâu là những chỗ trùng hợp giữa Phật giáo và dân chủ? Đâu là nền móng Phật giáo trong hành động vì dân chủ của bà? Trước khi xây từng viên gạch, hãy hỏi một câu ưu tiên: thế nào là dân chủ đối với một người dân Miến Điện bình thường, bình dân, ít học? Mà có thật là họ muốn dân chủ không? Hay đó là triết thuyết ngoại lai? Bà nói: hỏi như vậy là khinh miệt người dân Miến Điện, khinh miệt người dân bất cứ ở đâu, vì dân chủ là ước muốn của mọi người mà mạnh nhất chính là ở các nước nhân dân bị đàn áp. Ở các nước ấy, dân chủ được hiểu rất đơn giản và rất thực tế: làm sao có được một chính phủ tốt, không đàn áp. Làm sao? Phật giáo đáp ứng câu hỏi ấy của người dân trên 5 điểm:
"Công nghệ" - người đẹp châu Á |
"Chải tóc" - tranh của họa sĩ Tô Ngọc Vân |
Bổn phận đầu tiên, rất quan trọng trong tư tưởng Phật giáo, là bố thí (dana). Điều này có nghĩa là người cầm quyền phải có khả năng mang lại của cải, thịnh vượng cho dân. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, an ninh kinh tế của dân phải được đảm bảo.
Bổn phận thứ hai, đạo đức (sila), buộc ông vua phải nêu gương sáng trong việc giữ năm giới của người Phật tử: không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, không nghiện rượu. Ngày xưa, dân tin rằng muốn tìm nguyên do của quốc nạn, cứ nhìn đạo đức của vua. Vua vô đạo thì nhà tan nước mất.
Bổn phận thứ ba, paricagga, có khi được dịch là rộng lượng, có khi được hiểu là hy sinh. Rộng lượng thì trùng nghĩa với bố thí, mà bố thí cho đến tận cùng, rốt ráo, thì có thể hy sinh cho đến tất cả của cải, tính mạng, vì lợi ích của dân. Đây là bố thí của bồ tát mà dân tộc Miến Điện thấm nhuần qua những chuyện tiền thân của Phật. Áp dụng vào đời sống chính trị ngày nay, bổn phận này có nghĩa là người cầm quyền đem hết sức mình để phụng sự cho đất nước, đặt ích lợi chung trên ích lợi riêng, cho đến mức có thể hy sinh cả quyền lợi riêng.
Bổn phận thứ tư, liêm khiết (ajjava), ngày nay là vấn đề nhức nhối không riêng gì ở Miến Điện. Thiếu liêm khiết thì thối nát từ trên xuống dưới, khỏi cần nói thêm. Điều phải nói thêm là: liêm khiết ở đây còn có nghĩa là lương thiện, thành thật trong tương quan với người khác. Ngạn ngữ Miến Điện có câu: “Người cầm quyền thì nói thật; người thường thì thề thốt”. Phải thề thốt thì người thường mới giữ lời. Còn người cầm quyền thì có bổn phận phải nói thật với dân. Đừng tưởng chính trị là mảnh đất của dối trá. Dân chúng có ngu đến bao nhiêu cũng biết khinh những chính quyền nói láo, lấy nói láo làm hệ thống cai trị. Trong một nước Phật như Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi khuyên người làm chính trị nên nói thật như chính danh hiệu của Phật, Tathagata, “Bậc đã đến với Sự Thật”. Phật khuyên nhủ: “Hãy thẳng như mũi tên, một lời nói thốt ra không lạc thành hai”.
Bổn phận thứ năm, nhân từ (maddava), còn có nghĩa là biết xúc động trước cảnh khổ của dân, biết lấy trách nhiệm, biết hành động theo phương châm “người cầm quyền là sức mạnh của kẻ yếu thế”. Đạo đức đó đã thấm nhuần tâm hồn người dân Miến Điện qua văn học, qua truyện cổ. Một ông vua có thể đày cả con mình lên mạn ngược vì đã gây khổ cho dân: “Trong vấn đề thương yêu, không phân biệt giữa dân và con, thương dân cũng như thương con, đó là đức hạnh của vua”.
Bổn phận thứ sáu, cần kiệm (tapa), buộc người cầm quyền phải sống đơn giản, biết kiềm chế mình, nghiêm khắc với mình, hướng thượng, vun trồng kỷ luật tâm linh. Ngày xưa đã vậy, ngày nay, khi hoang phí đã tràn lan từ trên xuống dưới, cần kiệm lại càng là tiếng kêu thống thiết của dân, của nước, của người đói thiếu cơm, người khát thiếu nước.
Bổn phận thứ bảy, thứ tám và thứ chín - không giận dữ (akkadha), không bạo động (ahimsa), nhẫn nại (khanti) - liên hệ với nhau. Người cầm quyền lực trong tay mà nổi thịnh nộ thì hậu quả khó lường. Hãy nhẫn nại và đối đãi rộng lượng, khôn ngoan, ngay cả đối với những thách đố, xúc phạm của những người mà mình có thể giết như giết muỗi. Bạo lực là trái với tinh thần Phật giáo, ngay cả đối với người cầm quyền. Hơn cả mọi người, người cầm quyền phải nhớ lời Phật dạy, thắng sân hận bằng từ bi, thắng điều ác bằng điều lành, thắng keo kiệt bằng bố thí, thắng dối trá bằng chân thật. Người cầm quyền nào cũng phải lấy hình ảnh của vua Ashoka (A Dục) để làm gương: một đại vương trong một đại quốc vẫn có thể cai trị bằng từ bi và bất bạo động.
Bổn phận thứ mười (aviradha) có thể tách riêng ra để minh chứng nòng cốt dân chủ trong Phật giáo. Không làm trái với ý muốn của dân. Trong nhiều chuyện tiền thân của Phật - mà dân Miến Điện nằm lòng - có chuyện thái tử Vessantara bị vua đày vì … bố thí nhiều quá, bố thí hết kho của nhà nước, bố thí luôn cả con bạch tượng mà nhà nước quý như quốc bảo. Bà Aung San Suu Kyi kết luận chuyện này: thái tử đã bố thí con voi mà dân không thỏa thuận nên bị vua đày. Thỏa thuận của dân là cơ sở chính đáng của quyền lực.
Rất thực tiễn, bà cũng biết có người sẽ bắt bẻ: đó chỉ là những bổn phận lý thuyết, người cầm quyền không thực hiện thì ai làm gì được họ? Thế nhưng, không ai không có chút lương tâm, nhất là trong một nước Phật giáo mà ai cũng tin có Phật tính trong lòng, không người cầm quyền nào ở Miến Điện, xưa cũng như nay, không nghĩ rằng những bổn phận đó đã nằm sâu trong văn hóa và niềm tin tôn giáo của dân tộc họ, của cha mẹ họ, của chính họ. Nhà nước Myanmar có suy đồi đến bao nhiêu đi nữa, xã hội của họ vẫn còn vững, còn sạch, còn đạo đức, còn mang hồn Phật, chuyện Phật, lời Phật trong lòng. Lấy những lời đó làm nền móng để cùng với những ý tưởng mới xây dựng dân chủ, còn gì hợp với lòng người hơn?
"Biển đỏ" - người đẹp Nu Phạm |
Thật là nhục mạ dân tộc Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi nói như vậy, khi ai đó dám nói rằng người dân nước ấy chưa đủ trình độ để hiểu và để hưởng những quyền được ban bố trong bản Tuyên Ngôn 1948.
Nhưng có nên làm cách mạng để lật đổ những quyền lực coi con người như cỏ rác? Lật đổ các ông tướng ở Yangon? Từ trong gian khổ, đàn áp, đày đọa, bà vẫn một lòng, một lời, một đường lối duy nhất: bất bạo động. Dân chủ là mục đích mà phương tiện để thực hiện chỉ có thể là dân chủ. Vì sao? Vì cách mạng, dù thành công, cũng không bảo đảm được tương lai dân chủ. Bạo lực đẻ ra bạo lực, lịch sử thế giới đã nhiều lần chứng minh. Cho nên:
Một nghĩa trang của người Pháp tại Hà Nội - ảnh Việt Nam xưa |
Bóng cây thật mát
Bóng cha mẹ còn mát hơn
Bóng thầy còn mát hơn nữa
Bóng của người cầm quyền lại càng mát hơn
Nhưng mát nhất là lời dạy của Phật.
Tại sao bóng đó mát nhất? Vì lời dạy của Phật là sự thật, ngay thẳng, đức độ, từ bi. Bà Aung San Suu Kyi nói: đó là những đức tính mà dân tộc của bà thấy trước mắt khi tranh đấu cho dân chủ. Chưa hết. Còn một điểm thứ năm này nữa, đặc biệt nơi con người phụ nữ lãnh đạo ấy, đặc biệt nơi dân tộc Miến Điện của bà, mà nếu không có, chắc chắn bà đã không thể thành công: sức mạnh tâm linh.
"Khe sáng" - siêu mẫu châu Âu |
Những giá trị gì bà muốn thay đổi? Một mạch văn từ đầu đến cuối, đây là những câu viết cách đây hơn hai mươi năm: “Gia tài bất hạnh của độc tài chỉ có thể dẹp bỏ nếu khái niệm quyền hành tuyệt đối như là nền tảng của cai trị được thay thế bằng khái niệm tin cậy như là nguồn gốc của quyền lực chính trị: tin cậy của dân vào quyền và khả năng quyết định về vận mạng của dân tộc, tin cậy lẫn nhau vào những nguyên tắc của công lý, tự do và quyền của con người”. Bà giải thích: “Trong Phật giáo, bốn đức hạnh đưa đến hạnh phúc, đứng đầu là saddha, tin cậy vào những giá trị đạo đức, tâm linh và trí tuệ”. Đâu có cần phải trích dẫn thuyết tin cậy của Locke? Truyền tin cậy đó vào một xã hội đã mất lòng tin, không phải bằng cách kêu gọi bạo lực mà thông qua niềm tin trí tuệ, là tinh tuý của cuộc tranh đấu vì dân chủ của bà. Đó là niềm tin căn cứ vào những giá trị tâm linh truyền thống của dân tộc bà, được củng cố bằng những tư tưởng tiến bộ mới trên thế giới.
Dân chủ không phải chỉ là những định chế chính trị. Dân chủ còn là những giá trị văn hóa và xã hội. Ở Myanmar, dù tướng tá có hư hỏng, văn hóa đó vẫn còn tốt, xã hội đó vẫn còn tốt, con người ở đó vẫn còn tốt, vẫn còn cùng nhau chia sẻ một đạo đức chung. Văn hóa đó, xã hội đó, con người đó đẻ ra được người phụ nữ đó. Văn hóa đó, xã hội đó, con người đó đang làm bà mụ thai nghén cho dân chủ. Và, tất nhiên, bảo vệ độc lập, chống ngoại xâm.
Cao Huy Thuần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét