"Chocola" - siêu mẫu châu Âu |
Nhưng mà những câu “cày vậy mà đói ở trong đó, học vậy mà lộc ở trong đó” thì nghe nó ra thế nào! Cày mà đói, thì ai còn cày làm chi? Học mà được lộc thì cái học ấy chẳng là đáng khinh bỉ lắm ư? (ảnh không liên quan đến bài viết)
X. Về cái thuyết khinh nông
Nước ta là một nước thuở nay vẫn lấy nghề nông lập quốc. Đâu đâu cũng nhờ nghề nông đặng mà sống, cho đến mọi sự cần dùng đều lấy ra từ trong hột lúa, củ khoai, trái bắp. Lẽ đáng có một bọn người học thức chăm lo nghề ấy hầu cho mỗi ngày một phát đạt lên để chống với thủy hạn thiên tai mới phải. Thế mà xưa nay trong hạng người ấy chẳng hề có ai chịu mó tay hay là để ý đến nghề nông. Cái sự cày sâu cuốc bẫm chỉ phó cho một lũ dân ngu vô học mà thôi. Như thế, chúng ta còn có hột gạo mà ăn là may phước đó, chớ trông gì trong nước cho thạnh vượng được!
Nước ta là một nước thuở nay vẫn lấy nghề nông lập quốc. Đâu đâu cũng nhờ nghề nông đặng mà sống, cho đến mọi sự cần dùng đều lấy ra từ trong hột lúa, củ khoai, trái bắp. Lẽ đáng có một bọn người học thức chăm lo nghề ấy hầu cho mỗi ngày một phát đạt lên để chống với thủy hạn thiên tai mới phải. Thế mà xưa nay trong hạng người ấy chẳng hề có ai chịu mó tay hay là để ý đến nghề nông. Cái sự cày sâu cuốc bẫm chỉ phó cho một lũ dân ngu vô học mà thôi. Như thế, chúng ta còn có hột gạo mà ăn là may phước đó, chớ trông gì trong nước cho thạnh vượng được!
Từ hồi có người Pháp đến đây, thì trường Canh Nông cũng đã lập ra. Theo ở nước khác, thì học trò tốt nghiệp ở trường ấy ra, phải chuyên làm nghề Nông, phải lấy cái sở học của mình mà cải lương mọi sự của kẻ dốt đã làm. Song ở ta đây không hề như vậy! Bao nhiêu người tốt nghiệp Canh Nông cũng thấy ra làm quan làm quyền như các người kia. Coi như cụ Bùi Quang Chiêu đó thì biết.
Tôi nói vậy thì người ta sẽ đổ cho: một là tại phải tùy theo nhà nước dùng, hai là tại không có vốn lớn để cất ra mà làm lấy các công cuộc về nông phố. Song le, đó chẳng qua là lời kiếm cớ để chữa mình, chớ kỳ tình là khác kia.
Tôi nói: đó là vì chịu ảnh hưởng của Khổng giáo. Trong Khổng giáo đã có cái chủ nghĩa làm quan như bài trước đã nói, cái chủ nghĩa ấy thấm trong óc mọi người nên ai ai đi học cũng muốn làm quan. Song cái đường làm quan mỗi ngày một chẹt, thành thử người ta đâm ra đường khác, miễn là sau nầy cũng làm quan được thì thôi, chớ không phải bổn ý muốn làm nghề nông mà đi học canh nông. Huống chi trong Khổng giáo lại có cái thuyết khinh nông nữa, cái thuyết ấy cũng đã choán một phần trong óc sĩ phu nước ta, cho nên dầu có ai thạo nghề canh nông mà cũng không thèm làm nghề ấy là phải lắm.
Không biết làm sao, về nghề nông, đức Khổng Tử nói nhiều lời khinh miệt họ lắm, tôi rất lấy làm bất bình. Ngài nói rằng: “Người quân tử mưu đạo chẳng mưu ăn. Cày vậy mà đói ở trong đó; học vậy mà lộc ở trong đó. Người quân tử lo đạo chẳng lo nghèo”. Có lần, Phàn Trì, học trò ngài, xin học cấy lúa, ngài đáp rằng: Ta chẳng bằng kẻ làm vườn. Phàn Trì ra rồi, ngài nói rằng: Tên Phàn Tu (tên tộc của Phàn Trì) thật là tiểu nhơn thay! Người trên ưa lễ thì dân dưới chẳng ai dám chẳng kính, người trên ưa nghĩa thì dân dưới chẳng ai dám chẳng phục, người trên ưa tín thì dân dưới chẳng ai dám chẳng dùng tình thiệt. Hễ như vậy thì dân bốn phương cõng con nó mà đến, lọ phải cấy lúa làm gì!”.
Tôi biết ngài nói đó là nói với một hạng người đi học mà có chí về sự tế thế an dân, đành phải bỏ việc nhỏ để lo việc lớn chớ không phải ngài bảo ai nấy đều phải bỏ nghề làm ruộng mà đi học làm quan cả đâu. Nhưng mà những câu “cày vậy mà đói ở trong đó, học vậy mà lộc ở trong đó” thì nghe nó ra thế nào! Cày mà đói, thì ai còn cày làm chi? Học mà được lộc thì cái học ấy chẳng là đáng khinh bỉ lắm ư? Rất đỗi ngài mắng Phàn Trì là đồ tiểu nhân, rồi lại nói “lọ phải cấy lúa làm chi?” thì thật là quá đáng.
Xét một sách Luận ngữ, thấy Phàn Trì hỏi ngài nhiều lần lắm, nào là hỏi hiếu, hỏi nhân, hỏi trí, hỏi việc chánh trị, lại có khi đánh xe cho ngài, đi chơi với ngài, cũng học hỏi luôn luôn. Chắc ông ta cũng nghĩ rằng kẻ học phải lấy sự trị sanh làm cần, nên lần nầy mới hỏi về sự cấy lúa làm vườn, ngài không biết mà không bảo cho thì thôi, cớ chi ngài lại mắng?
Người ta hỏi sự cấy lúa làm vườn, ngài không dạy cho, lại nói dông dài ra những là người trên ưa lễ, nghĩa, và tín thì dân dưới quy phục, chớ không cần cấy lúa, thì thật là hỏi một đường mà trả lời một đường. Vậy cho biết cái đạo ngài cốt chỉ dạy cho “người trên”, chớ không dạy “kẻ dưới”, trái hẳn với cái bình dân chủ nghĩa ngày nay.
Chẳng phải ngài khinh thị nghề Nông mà lại cũng không coi sự làm ăn buôn bán ra chi. Trong đám môn đồ của ngài có Tử Cống chăm nghề buôn, hễ rẻ thì mua mà mắc thì bán, làm nên giàu có. Có một lần, ngài phẩm bình các học trò mình, ngài cho Tử Cống là “chẳng chịu mạng trời mà lo đi chứa của”. Chữ “chẳng chịu mạng trời” đó, có ý là trời biểu nghèo thì phải chịu nghèo, sao Tử Cống lại cưỡng đi mà làm nên giàu có? Theo ý ngài thì phải “một đai cơm, một bầu nước” như Nhan Hồi cứ ôm lấy cái nghèo mãi thì người khen. Hay là “ăn cơm lức, uống nước trong, co cánh tay mà gối” như ngài thì ngài chịu lắm. Vẫn biết sự an bần cũng là một cái tiết thanh cao, như ngài và Nhan Hồi, tôi há lại không phục? Song xét trong các sách nói về cách Tử Cống làm giàu thì chỉ là rẻ mua mắc bán, như kiểu nhà buôn đời nay; vậy thì cũng là một cách làm giàu chánh đáng, chớ có phải bóp họng thắt hầu hay là ăn cướp ăn trộm ai, mà cho là chẳng chịu mạng trời? Ngài khinh rẻ sự làm ăn buôn bán đã đành, mà nói như thế thì lại thành ra cái khuynh hướng về cái thuyết định mạng (fatalisme), có hại cho sự phấn đấu tấn thủ của chúng ta ngày nay lắm vậy.
Có một lần, ngài đi qua nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe cho ngài. Thấy dân cư trù mật, ngài khen rằng: “Dân đã đông lắm thay!”. Nhiễm Hữu hỏi rằng: “Đã đông thì nên làm gì nữa?”. Ngài đáp rằng: “Nên làm cho chúng nó giàu”.
Coi đó thì thấy ngài cũng cho sự làm giàu là cần, nhưng làm giàu cho kẻ khác thì được, còn làm giàu cho mình như Tử Cống thì ngài lại phản đối.
Theo cái ý kiến của ngài đó nên về sau Mạnh Tử cũng khinh rẻ nghề nông mà cho là “việc của tiểu nhơn”. Chữ “tiểu nhơn” nầy tức là chữ “tiểu nhơn” của Khổng Tử dùng mà mắng Phàn Trì hồi nãy, nghĩa là đồ dân ngu, đối với “quân tử” là người ở trên cầm quyền cai trị, do đó mà thành ra cái chế độ tư bổn, lần lần trông thấy trong xã hội có một bọn người ngồi không đó mà ăn, còn một bọn người làm cháy da phỏng trán.
Người An Nam mình vì chịu ảnh hưởng của cái thuyết khinh nông ấy, nên người nào đã ôm cuốn sách đi học là cố chịu kiếm ăn trong sự học đó chớ không lo sanh lý gì cả, một nghề gì cũng không biết. Những người ấy một mai không kiếm ăn trong sự học được, nghĩa là không làm quan được, thì lại xoay ra làm những nghề địa lý, coi tướng, coi số, là nghề phỉnh người ta lấy tiền mà lại mát mặt hơn vác cái cày đi cày. Mà rồi xã hội cũng tôn họ mà kêu bằng “thầy”, sắp hàng họ ở trên những kẻ tay bùn chưn lấm, nai lưng ra làm cho có hột gạo để trút vào mồm mọi người, ôi! nó trái ngược là dường nào!
Chúng ta ngày nay nên vùi những câu của đức Khổng Tử nói xuống dưới đất cái mà đừng có khinh rẻ nghề nông như ngài nữa. Phải coi sĩ, nông, công, thương bằng vai với nhau, đừng có phân ra cao thấp. Xứ Nam kỳ là xứ có những đồng ruộng cò bay thẳng cánh, thế mà mất mùa chơi một năm đã thấy kêu đói tứ tung, mà lại còn không biết trọng nghề nông, thì tôi không hiểu cái học thức của người An Nam là cái gì.
"Thiền" - tranh của họa sĩ Bùi Công Khánh |
Nhẫn lên bốn chương, về cái thuyết minh đức tân dân, cái thuyết trung dung, cái chủ nghĩa làm quan, cái thuyết khinh nông, tôi cho là bốn điều trong Khổng giáo mà có ảnh hưởng xấu ở xã hội ta. Từ đây trở xuống, tôi sẽ kể ra những điều gì đã có ảnh hưởng tốt.
Có điều này tôi không vì mích lòng Khổng giáo mà phải nói thiệt : trong những cái ảnh hưởng xấu đã nói trên kia, tôi không thấy có phần nào tốt; mà trong những cái ảnh hưởng tốt kể dưới này, lại thấy có phần hơi xấu.
Trước hết xin nói về cái ảnh hưởng của sách Xuân Thu.
Xuân Thu nguyên là một bổn sử ký chép chuyện nước Lỗ là quê hương của đức Khổng Tử và là một nước chư hầu ở dưới quyền thiên tử nhà Châu lúc bấy giờ. Ngài sửa sang bổn sử ký ấy lại mà làm ra sách Xuân Thu, về sau liệt vào làm một kinh trong ngũ kinh. Trong một bổn sách xưa nói về Xuân Thu có nói rằng: “Sách Xuân Thu do chính tay đức Khổng chép lấy, chỗ nào đáng chép thì ngài chép, chỗ nào đáng bỏ thì ngài bỏ; tuy Tử Du, Tử Hạ là tay văn học trong cửa ngài, cũng không giúp được một lời”.
Sách Xuân Thu cốt để bao biếm. Bao, nghĩa là khen những điều phải; biếm, nghĩa là chê những điều quấy. Có vì tiên nho tán dương cái nghĩa bao biếm của sách Xuân Thu mà rằng: “Ngài khen cho một chữ là vinh hơn áo mão của nhà vua ban cho; ngài chê cho một chữ là nghiêm hơn dùng búa rìu mà giết”.
Sự khen chê của sách Xuân Thu là suốt từ việc lớn cho chí việc nhỏ. Đây nói những việc lớn: ai giúp kẻ yếu, chống kẻ mạnh, cứu những nước bị tai nạn, phò những nước bị diệt vong, ấy là được khen, còn những nước chiến tranh nhau, hoặc dùng mưu kế mà khi trá nhau, cùng những con giặc, tôi loàn, và những kẻ phản quốc, thờ quân thù nghịch, thì bị chê. Nói tóm lại, phàm việc gì hại đến cuộc hòa bình của xã hội là bị chê, mà trái lại, là được khen vậy.
Tuy vậy, xét kỹ lại thì cái hiệu nghiệm của sách Xuân Thu, bên khen không có quan hệ lắm bằng bên chê. Cũng có lẽ là vì sự cấm người ta làm điều dữ có công hiệu hơn là khuyên người ta làm điều lành. Bởi vậy ông Mạnh Tử có nói rằng: “Đức Khổng Tử làm nên sách Xuân Thu mà bọn con giặc tôi loàn phải sợ”.
Trên nền Khổng giáo ở nước Nam ta có những tư văn, văn chỉ, ấy là những cái cơ quan để phê bình xã hội theo như cái ý nghĩa của sáchXuân Thu.
Từ hồi có người Pháp đến xứ nầy, nhứt là sau khi cuộc bảo hộ đã thành lập, vì cớ mở miệng mắc quai, nên các hội nói trên đó ngoài một năm hai kỳ tế Thánh ăn thịt uống rượu rồi về không thấy có hành động sự gì; chớ trước kia thì chính các hội ấy đã làm giềng mối, chủ trương cả dư luận trong xã hội. Mỗi một phủ huyện nào cũng đều có hội Văn chỉ, mỗi một ông thầy dạy học lâu năm và đông học trò thì có hội Đồng môn. Những hội ấy rất có thế lực ở dân gian; người ta quen gọi là cái nền “danh giáo” hay là cái cơ quan “thanh nghị”. Chẳng những người trong hội, cho đến người thường ở ngoài nữa, nếu có làm một việc gì phạm tới luân lý, trái với đạo đức thì không thể nào tránh khỏi sự công kích của hội hoặc trực tiếp hay gián tiếp. Có khi một việc trái phép mới xảy ra, pháp luật của nhà nước chưa hỏi đến, mà chính người thủ phạm trong việc ấy đã bị “thanh nghị” làm cho sỉ nhục mà phải hối cải hơn là bị hình phạt. Bởi vậy cũng có khi, ở dân gian, người ta đem những việc bất bình mà cáo với các hội ấy, chớ không cáo với quan.
Hồi xưa người ta sợ “thanh nghị” lắm, sợ đắc tội với “danh giáo” lắm, hơn là sợ tù tội nữa. Bởi vì cái nhục của tù tội còn có chừng, lại có khi theo vua thì bị tù tội, song đối với công chúng lại được khoan thứ; chớ còn đã bị “thanh nghị” công kích, đã bị “danh giáo” loại ra, thì gần như là không còn mặt nào trông thấy ai, không còn biết ở đời với ai, chỉ có nước vạch đất ra mà chui xuống! Cho nên lúc bấy giờ, từ hàng tấn thân cho đến hạng dân giã, ít kẻ dám công nhiên làm bậy như ngày nay. Sự đó tôi không có thể trưng bằng cớ ra đây, nhưng tưởng ai ai cũng công nhận như vậy.
Cái “thanh nghị” do theo ý nghĩa bao biếm của Xuân Thu đó, tôi cho là đối với xã hội ta đã có hiệu lực nhiều hơn là các tín điều của tôn giáo đem buộc các giáo đồ. Cái lẽ đó là vì các tín điều chỉ lấy cái giáo nghĩa của một tôn giáo làm chuẩn đích; còn bên “thanh nghị” thì lấy nhân cách làm chuẩn đích. Phàm người nào làm ra việc gì phạm tới luân lý, trái với đạo đức, tức là làm mất nhân cách của người ấy, “thanh nghị” cứ băm vào chỗ mất nhân cách ấy mà công kích thì nghe nó thiết thiệt hơn. Tôi xin cử ra đây một sự cấm hút thuốc phiện.
Đời Tự Đức, khi chưa hòa với Pháp về trước, triều đình ta vẫn cấm nhân dân hút thuốc phiện. Trong sự cấm ấy, phép vua tuy nghiêm mà cũng không bằng các hội Văn chỉ và Đồng môn. Tôi chưa kịp thấy, nhưng nghe các ông già nói lại rằng lúc bấy giờ thuốc phiện dầu nhiều và rẻ mà ít ai dám hút, nhứt là những người có học, không sợ hình phạt là mấy, nhưng sợ rủi bị hội Văn chỉ hoặc hội Đồng môn ngoại ra thì khốn.
Ta thử đem việc ấy so với hai việc sau nầy. Ở gần miền tôi có một người vô đạo mà ghiền thuốc phiện. Ông cố bắt xưng tội ấy thì anh ta không chịu xưng, nói rằng hút thuốc phiện không phạm vào mười điều răn của Chúa. Lại khi ở Hà Nội, tôi có gặp một ông thầy tu cũng hút. Tôi hỏi chớ thầy không sợ phạm giới sao. Ông ta trả lời rằng trong ngũ giới của Phật vẫn không cấm điều nầy, mà có lẽ hút á phiện thì tiệt được sự sắc dục, lại là có ích cho người tu hành nữa vậy! Coi đó thì thấy rằng cũng đồng một sự cấm hút á phiện mà một bên nói rằng hút thì hư nhân cách, làm cho người ta dễ nghe hơn là bên kia nói rằng hút thì “trái ý Chúa” hay là “mang tội cùng Phật” vậy.
Cái thế lực của các hội Văn chỉ mạnh là như vậy, cho nên gặp khi trong nước có việc thì mọi sự phản động đều do đó mà ra. Ông quan địa phương nào tham ô, bị “thanh nghị” trong hàng tỉnh hay hàng huyện công kích, ấy là có thể bị giáng bị cách, không thì cũng bị đổi đi nơi khác. Sau khi kinh thành thất thủ, các đám cần vương khởi nghĩa toàn là bắt đầu tổ chức từ trong các hội Văn chỉ, các hội Đồng môn. Nói tóm lại, các hội ấy chẳng những chủ trì dư luận mà thôi, lại cũng nắm luôn cái quyền ngấm ngầm về chánh trị nữa.
Hiện nay các hội ấy chỉ còn cái xác mà thôi, song cái hồn nó lại tản mác ra trong dân gian, nó bám vào trong lòng mọi người. Trong khoảng 5-7 mươi năm nay, những người nào tỏ ra là bất trung với bổn quốc, hãm hại đồng bào, thì bị người ta chửi mắng nhiếc móc riêng với nhau. Ở Bắc kỳ, có những sanh phần sanh từ của mấy ông quan to bị người ta đề thơ mà chửi bới, hay là đem đồ ô uế mà ném vào, cùng là lén mà phá cho hư đi. Lại có những người tuy chưa làm ra việc chi đáng trách, chỉ mới nói một vài câu chi đó mà thôi, cũng đã bị cáo là “bán nước dối dân”, rất là khó chịu. Một vạn cái lòng An Nam chẳng có cái nào là chẳng ghét những người làm mật thám, tức Nam kỳ kêu bằng lính kín. Mật thám ở các nước văn minh là những người có phần trong sự giữ cuộc trị an cho xã hội, song theo cái tình thế riêng ở xứ ta lại khác, cho nên người ta ghét cũng phải.
Trong khoảng 4-5 năm nay, có nhiều người khi không mà bị nghi là mật thám. Tôi cũng là một người trong đám ấy. Tôi đã trải qua cái tình cảnh ấy nên nói ra chắc có ý vị. Trong khi ấy, tôi đi đến đâu, người ta chào sơ qua rồi thôi, ít hỏi han chi. Nếu là chỗ đông người thì họ lấy mắt ngó nhau, dường như bảo phải giữ mình vì tôi, chẳng khác nào giữ một đứa kẻ cắp. Ngoài sự giữ gìn ấy họ lại còn hằm hằm mà tỏ ra dáng khinh bỉ. Tôi lại có được thơ nặc danh gởi đến luôn luôn, cái thì khuyên tôi cải ác tùng thiện, cái thì chửi tôi tàn tệ. Tôi chịu những điều đoán phạt oan ức ấy mà lại lấy làm vui lòng, vì nội đó cũng đủ chứng rõ cái lòng ái quốc và cái đức chánh trực của dân tộc Việt Nam. Tôi nói: dân tộc ta mà sau nầy có ngày cất đầu lên được, là nhờ ở chỗ đó. Chỗ đó, ta phải cảm ơn Khổng giáo, ta phải nhận rõ ràng là sự ban tứ của sáchXuân Thu.
Tiện đây, ta cũng nên cứ thiệt mà trần khai cho chánh phủ Pháp ở đây biết rõ một điều. Chánh phủ làm việc gì mà nói rằng ấy là theo dân ý, là cái dân ý ở đâu? Mấy ông hội đồng An Nam chăng? Mấy tờ báo quốc ngữ chăng? Không phải đâu. Nếu chánh phủ muốn tìm cho ra cái dân ý chơn chánh của An Nam thì hãy tìm ở trong những câu đàm tiếu của dân gian, trong những câu chuyện trò rất tầm thường ở đầu đường xó chợ. Vì cái hồn “thanh nghị” theo kiểu Xuân Thu của sĩ phu An Nam ngày xưa, bây giờ nó đã lẩn lút vào những nơi hạ tiện ấy, trong đó mới có câu chuyện thiệt tình, còn ở đâu cũng đều là giả dối hết. Mà thật vậy, người Pháp có biết cái chỗ bí yếu ấy rồi mới biết cái giá thật của dân tộc An Nam là thế nào.
Ngày nay dầu các hội nói trên kia không còn gì, cái thế lực của “thanh nghị” không có tỏ bày ra như trước, nhưng tôi nói rồi, nó đã bám vào trong lòng mọi người, thì không có bao giờ mất đi được, điều ấy khỏi lo. Lo là lo người An Nam mình kém học, ít nghe, cạn thấy, lại thêm không biết phán đoán, mà ôm cái lòng ghét điều ác quá nồng nàn, bao biếm nhiều khi thất thiệt, thì người ta lợi dụng cái nhược điểm ấy mà gieo điều nghi kỵ giữa chúng ta, thành ra ngờ vực nhau, chia rẽ nhau, thật là một điều rất hại vậy.
Lại còn, những người có tài lỗi lạc, hay cậy có thủ đoạn mà toan làm ra những việc phi thường. Trong khi làm chưa nên việc, bị cái sức ngầm của “thanh nghị” làm cho hư hỏng đi cũng nhiều lắm. Cho nên, làm anh hùng hào kiệt ở nước nào còn dễ, chớ làm anh hùng hào kiệt ở nước An Nam nầy mới thiệt khó, vì dư luận ý chừng nghiêm khắc quá.
Tức như ông Varenne bên Pháp, khi trước liều cho đảng Xã hội xóa tên mình để được đi Toàn quyền Đông Dương, khi trở về rồi lại xin vào đảng lại, thế mà dư luận người Pháp chẳng lấy làm điều, không ai nói chi hết, được ở bên mình thì người ta dị nghị biết bao.
Hai điều vừa nói trên đây là tôi muốn chỉ ra cái chỗ dở của cái ảnh hưởng sách Xuân Thu. Song chỗ đó chúng ta phải nhận là cái chỗ thiên lịch của mình chớ không phải tại chữ Xuân Thu vậy.
"Tươi trẻ" - người đẹp Việt Nam |
Khổng học với Mặc học khác nhau ở nhiều điều, mà một cái quan niệm về nghĩa và lợi cũng đã thấy khác. Mặc Tử nói rằng: “Nghĩa tức là lợi” (Nghĩa, lợi dã). Mà Khổng Tử thì lại chia nghĩa và lợi làm hai; chẳng những hai cái là khác thứ, mà lại hai cái là phản đối nhau nữa.
Hai cái thuyết của Khổng và Mặc khác nhau như vậy là do ở cái tư tưởng căn bổn của hai đằng không giống nhau. Mặc Tử chuộng kiêm ái, bình đẳng. Cái xã hội trong ý Mặc Tử cũng gần như cái xã hội các nước Âu Mỹ thời nay. Nghĩa là coi nhà nước với nhân dân làm một, việc gì lợi cho nhà nước tức là lợi cho nhân dân đó. Chẳng những thế, vì là kiêm ái bình đẳng cho nên việc chi lợi cho một người cũng tức là lợi cho nhiều người, việc chi lợi cho kẻ nầy cũng tức là lợi cho kẻ khác nữa. Vậy thì việc làm lợi đó tức là việc nghĩa, cho nên nói rằng nghĩa tức là lợi. Còn cái xã hội trong ý Khổng Tử là xã hội có giai cấp, chia ra vua và dân, nhà nước là của vua, mà nhân dân chẳng qua là vật phụ thuộc vào, tức là kiểu xã hội nước Tàu và nước ta lâu nay. Theo kiểu xã hội ấy mà nếu nhập nghĩa và lợi làm một thì e người trên vịn đó mà bóc lột kẻ dưới quá thể, làm cho mất cái mực quân bình đi mà sanh loạn chăng, nên phải phân biệt ra nghĩa là nghĩa, lợi là lợi, là cốt để hạn chế bớt cái lòng tham dục của người trên vậy.
Theo như Mặc Tử thì lợi tức là lợi chung cho mọi người, không có thể hiểu là lợi riêng của một người được, cho nên nhập hai cái lại một, khuyên người ta làm lợi tức là khuyên người ta làm nghĩa, mà khuyên người ta làm nghĩa cũng tức là khuyên người ta làm lợi. Song theo Khổng Tử lại phải thấn tới một bước, vẫn biết cái nghĩa đó tức là cái lợi chung, mà cũng không chịu nói là lợi, phải nói là nghĩa để cho phân biệt với lợi. Lợi, theo ý Khổng Tử, thì chỉ là sự tư lợi của ít người mà thôi, là điều xấu, ai ai cũng nên tránh nó. Vì cái thâm ý Khổng Tử là như vậy nên ngài chia ra cái bờ của nghĩa và lợi thật rạch ròi. Ngài nói rằng: “Hễ là người quân tử thì hiểu về nghĩa; hễ là tiểu nhân thì hiểu về lợi”. Lại nói rằng “Hễ thấy lợi thì phải nhớ đến nghĩa”. Câu trên có ý khuyên người ta nếu muốn làm quân tử thì phải theo đường nghĩa. Câu dưới nhắc cho người ta trong khi thấy lợi phải nhớ đến nghĩa đặng đánh đỡ cái lòng tham lợi đi. Mấy câu đó còn là lời nói chung, đến như trong Đại học thì lại dạy rõ về cách trị quốc mà rằng: “Nhà nước chẳng lấy lợi làm lợi, mà lấy nghĩa làm lợi”. Chữ “nghĩa” đó tức là lấy thuế có chừng có đỗi, không xâm phạm đến những cái lợi nhỏ của dân. Như thế thì nhân dân no đủ mà quy phục với nhà nước; mà hễ nhân dân no đủ tức là nhà nước giàu: ấy tức là lấy nghĩa làm lợi. Sách Đại học đây cũng còn nói lấy nghĩa làm lợi, chớ đến Mạnh Tử thì lại cấm tiệt không cho nói đến lợi trơn.
“Mạnh Tử ra mắt vua Huệ Vương nước Lương. Vua hỏi: Cụ già chẳng ngại xa ngàn dặm mà đến đây, cũng sẽ có phương gì để làm lợi cho nước ta chăng? Mạnh Tử thưa rằng: Vua lựa phải nói lợi làm chi; chỉ có nhân nghĩa mà thôi. Chớ nếu vua nói: có phương gì để lợi nước ta, thì quan đại phu cũng sẽ nói: có phương gì để lợi nhà ta, sĩ và dân cũng sẽ nói: có phương gì để lợi mình ta - Rồi thì người trên kẻ dưới giành lợi lẫn nhau mà nhà nước nguy rồi! Nếu ai cũng coi nghĩa làm sau, coi lợi làm trước, thì chẳng cướp nhau chẳng hề biết no đủ. Chi cho bằng nhân nghĩa: chưa có kẻ nhân nào mà bỏ sót cha mẹ mình, chưa có kẻ nghĩa nào mà lại để vua mình ra sau. Vậy thì vua cũng nên nói nhân nghĩa mà thôi, lọ phải nói lợi làm chi?”.
Lại có một lần, “Tống Hình hầu qua nước Sở. Mạnh Tử gặp dọc đường, hỏi rằng: Tiên sanh tính đi đâu? - Tống Hình trả lời: Tôi nghe nước Tần và nước Sở sắp đánh nhau, tôi muốn đến nói với vua nước Sở biểu thôi đi, mà không chịu, thì tôi lại sẽ nói với vua nước Tần biểu thôi đi; trong hai vua đó thế nào tôi cũng sẽ gặp một - Mạnh Tử lại hỏi : Tiên sanh định nói bằng cách nào? Tống Hình đáp: Tôi định nói về sự đánh nhau là chẳng lợi - Mạnh Tử nói rằng: Không được. Tiên sanh đem lợi mà nói với vua Tần, Sở, vua Tần, Sở ham lợi mà bãi binh đi, ấy là bọn quân lính vui được bãi mà ham lợi vậy. Rồi thì kẻ làm tôi nghĩ lấy lợi thờ vua mình, kẻ làm con nghĩ lấy lợi thờ cha mình, kẻ làm em nghĩ lấy lợi thờ anh mình. Ấy là vua tôi, cha con, anh em đều bỏ nhân nghĩa mà lấy lợi tiếp nhau. Như vậy mà nước chẳng mất, là sự chưa hề có. Bây giờ nếu tiên sanh lấy nhân nghĩa nói với vua Tần, Sở, vua Tần, Sở ham nhân nghĩa mà bãi binh đi, ấy là bọn quân lính vui được bãi mà ham nhân nghĩa vậy. Rồi thì kẻ làm tôi nghĩ lấy nhân nghĩa thờ vua mình, kẻ làm con nghĩ lấy nhân nghĩa thờ cha mình, kẻ làm em nghĩ lấy nhân nghĩa thờ anh mình. Ấy lẽ vua tôi, cha con, anh em cùng nhau bỏ lợi, cứ lấy nhân nghĩa mà tiếp nhau. Như vậy mà chẳng làm nên nghiệp vương, là sự chưa hề có. Vậy thì lựa phải nói lợi làm chi?”.
Coi mấy lời của Mạnh Tử đó thì thấy sự phân biệt nghĩa và lợi lại càng nghiêm lắm. Đại ý Khổng Tử và Mạnh Tử cũng vậy, làm một việc gì mà khởi niệm ra bởi lợi là không được. Theo Mạnh Tử nói đó, trong một nước mà ai làm việc chi cũng nghĩ về lợi hết, thì sanh ra giành nhau mà rồi nước phải nguy phải mất. Khổng Tử cũng có nói rằng: “Hễ nương theo lợi mà làm thì nhiều điều oán”. Nghĩa là, hễ mình làm việc gì cũng cốt cho một mình được lợi, thì tất phải hại đến kẻ khác mà rồi có nhiều người oán mình.
Theo cái thuyết trọng nghĩa khinh lợi của Khổng giáo nên các nhà vua thuở nay, đối với dân không dám lấy thuế nặng hay là bày ra nhiều thứ thuế. Chẳng những vậy, gặp năm mất mùa lại còn giảm thuế hay là tha hẳn đi, còn chẩn thại cho cân nữa là khác. Cứ như cái tình hình kinh tế ngày nay, thật không thể làm như vậy được. Song ở thời đại quân chủ chuyên chế, phải làm vậy mới được, không thì thế nào cũng sanh loạn, trong lịch sử có thấy nhiều ông vua vì hà chính bạo liễm mà phải diệt vong.
Thế nhưng ở đây tôi không cốt nói về phương diện vua đối với dân, chỉ cốt nói về trong xã hội An Nam ta, cá nhân đối với cá nhân, đã chịu ảnh hưởng của cái thuyết ấy thế nào.
Ngoài những câu đức Khổng Tử nói mà đã dẫn trên kia, ngài lại còn nói nhiều lời khác làm cho sự phân biệt nghĩa và lợi càng thêm rõ ràng thiết thiệt, mà phàm người có đọc sách ngài không thể bỏ qua đi được. Ngài đã tỏ ra ý mình đối với sự giàu sang mà rằng: “Ăn cơm lức, uống nước trong, co cánh tay mà gối, cái vui cũng ở trong đó rồi. Chớ còn làm điều bất nghĩa mà được giàu sang, thì ta coi cũng như đám mây nổi”. Lại rằng: “Khi trong nước hữu đạo (nghĩa là thạnh trị) mà mình chịu nghèo hèn là đáng xấu hổ; khi trong nước vô đạo (nghĩa là loạn ly) mà mình được giàu sang, cũng là đáng xấu hổ”. Lại khi “ngài ở nước Trần, hết lương ăn, Tử Lộ tỏ ý bất bình mà nói cùng ngài rằng: Thế ra người quân tử cũng có lúc cùng ư? Ngài đáp rằng: Quân tử cùng thì chịu cùng, chớ còn tiểu nhân, hễ cùng thì làm bậy”. Trong ba câu đó chỉ câu thứ nhì nghĩa nó hơi tối một chút nên giải thêm cho rõ hơn. Khi trong nước hữu đạo mà mình chịu nghèo hèn, thế là tỏ ra mình vô tài, cho nên đáng xấu hổ. Khi trong nước vô đạo mà mình được giàu sang, thế là chỉ có hùa theo sự vô đạo ấy mà kiếm ăn, hoặc đến làm điều bất nghĩa để cầu lợi, cho nên đáng xấu hổ.
...(Tòa kiểm duyệt bỏ một đoạn)...
Với cái thuyết nầy, phải kể Tống nho là thật có công lắm. Trình tử nói rằng: “Kẻ học chẳng có việc gì trước hơn là phân biệt nghĩa và lợi”. Một câu ấy khác nào như một cái hoa tiêu cắm ngay trước mặt những người mới bước chơn vào cửa Khổng.
Bởi vậy trong làng nhà nho ở nước ta, những người nào học mà rồi trả chữ cho Thánh thì thôi không kể, chớ còn những người học được chữ nào làm được chữ ấy, thì họ phải gióng theo sự phân biệt nghĩa và lợi đó mà quyết định cái đường tấn thố của mình. Chúng ta đừng thấy bọn nhà nho ngày nay phần nhiều thất thế, không làm ra gì được, mà khinh họ là vô tài. Vô tài thì cũng có vô tài thật, nhưng họ lại quên lửng cái sự vô tài của mình đi ; họ đương ngồi xấp bằng trong ba gian lều cỏ dựa lưng vào chữ “nghĩa” mà khủng khỉnh làm cao, lấy nửa con mắt coi những phường ăn sung mặc sướng, lên bổng xuống trầm, mà cho là đồ vô sỉ ! Mà hạng người ấy nào có phải là ít.
Tôi biết cụ Nguyễn Bá Học. Cách 20 năm trước, tôi ở Nam Định học chữ Pháp với cụ đâu vài tháng. Song tôi nhìn cụ là ông thầy tôi thật. Cụ học chữ Hán vào bậc giỏi, chữ Pháp cụ cũng thông, ở thời bấy giờ có tài như cụ, giá “lém” ra thì làm gì chả được. Song cụ cứ cả đời làm thầy giáo, lương bổng vừa đủ ăn. Năm 1906, đức Thành Thái ra Bắc kỳ, nghe tiếng cụ, toan thưởng cho cái hàm Hàn lâm gì đó. Cụ kiếm cớ từ chối không chịu. Sau ngài ban cho cái biển bốn chữ “giản dị tinh thông” là cái biển sơn đen thếp vàng, hiện giờ còn treo tại nhà. Ấy là tôi cử ra một Nguyễn Bá Học, nhơn tiện vì nhiều người đã thấy cụ trong Nam phong; còn biết bao Nguyễn Bá Học khác mà không tên tuổi chi, thì có ai biết đến!
Nếu trong xã hội không cần có những người có nết thanh cao để làm tiêu biểu, hay là nói rằng đương thời đại vật chất, hãy đua nhau trong đường vật chất không còn kể tinh thần là cái cóc mốc gì, thì thôi, chẳng nói làm chi; bằng trong đời còn có luân lý, trong lòng người ta còn có một chỗ để chứa cái trong sạch thơm tho, thì những nhà nho cao thượng ấy ta cũng nên biểu dương ra mới phải, mà cùng trong lúc đó ta lại phải cảm ơn Khổng giáo.
Nhiều khi tôi thấy những chuyện vụn vặt trong làng xóm mà tôi ngẫm nghĩ hoài. Càng ngẫm nghĩ tôi càng tin cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta thật là sâu xa. Tôi kể lấy một chuyện mà nghe.
Ở vùng nhà quê tôi có hai anh em người kia, anh giàu mà em nghèo. Người em chuyên nghề trồng trầu bán. Lúc đó vừa gặp sau cơn bão, trầu mắc. Nhà anh sai trẻ cầm tiền qua nhà em mua một tiền trầu. Người em hái trầu cho một rổ, biểu đem về mà không lấy tiền, nói rằng: “Chỗ anh em, tao nhờ ảnh nhiều, chi thứ một vài tiền trầu mà bán chác, tao nỡ nào ngửa tay lấy tiền ảnh hay sao?” Trẻ đem cả trầu lẫn tiền về. Người anh thấy trầu nhiều quá, nói rằng: “Sao một tiền trầu mà nhiều thế, bộ chú vừa bán vừa cho sao há?”. Đứa trẻ mới lòi tiền ra, thuật lời của em. Người anh đưa thêm một tiền nữa biểu cầm cả hai tiền qua trả, và rằng: “Nói với chú nó: tình nghĩa là khác, còn mua bán là mua bán; huống chi tao đã tư trợ cho chú nó được, thì lẽ nào tao lại đi bòn một bữa gạo của con chú nó sao?” - Qua bên kia, người em không nghe, bắt cầm tiền lộn về. Vậy rồi đứa trẻ cứ phải đi qua đi lại đến mấy lần, mà tôi không hiểu việc ấy về sau rồi liễu kết ra cách nào.
Việc nhỏ quá con tép! Song le đạo lý của thánh hiền ở trong đó. Đằng người em lấy nghĩa làm trọng, muốn làm ra quân tử; đằng người anh đã không ham lợi thì không ham lợi cho luôn, cũng không muốn làm tiểu nhơn. Tôi tưởng người ta ở đời với nhau mà có những câu chuyện như vậy thì nghe có hơi êm đềm dễ chịu, phải không? Hay là cứ “đồng trên đè đồng dưới”?
Tôi nghe nhiều người đi bên Pháp về kể chuyện lại. Ở bển, anh em học sanh ta hay tiêu tiền chung với nhau, khi người nầy có, cho kẻ kia tiêu, khi kẻ kia có, người nầy tiêu lại. Song phải biết rằng sự có ấy không kể chắc được. Người Pháp thấy như vậy, trầm trồ lấy làm lạ. Mà lạ thiệt. Chẳng những ở nước Pháp, cả Âu châu cũng vậy, theo luật, cái quyền sở hữu rất phân minh thì bảo sao họ thấy vậy mà chẳng trầm trồ? Vì đó người Pháp ở đây, cho An Nam mình là không biết phân biệt của người của ta nên có thói ăn cắp. Song họ không biết rằng cái sự ăn cắp là khác, còn cái sự không phân biệt của người của ta lại là khác. Không phân biệt của người của ta, tức là cái thói trọng nghĩa khinh tài, chịu ảnh hưởng Khổng giáo lâu đời mới có được cái thói ấy!
Đó là bề mặt. Lật bề trái lại, thì cái sự phân biệt nghĩa lợi cũng có điều khó chịu cho người ta, nhứt là vào thời buổi nầy. Theo tâm lý người mình thì ai ai cũng hiểu rằng lợi là đáng khinh mà nghĩa là đáng trọng. Nhưng xem chừng như ít người đem cái luật ấy ghép vào cho mình, mà lại đem ghép vào cho người khác ở chung quanh mình. Suy cái bụng họ ra, ý chừng họ muốn ai ai cũng “uống nước trong làm việc” thì họ mới ưng; ai ai cũng “ăn cơm nhà mà đi đánh giặc” thì họ mới cho là quân tử. Bởi vậy khi nghe ông Phan Văn Trường có mấy trăm mẫu ruộng ở Cà Mau, ấy là họ bất bình rồi, họ không hỏi đến lai lịch ruộng ấy vào tay ông Phan cách nào, và từ trước đến nay, ông ta có chút công lao gì đối với người An Nam, từ đó họ không kể nữa! Như vậy, làm cho kẻ thức giả ở đời càng thấy khó.
Còn bọn gian hùng thì quả nhiên họ lợi dụng cái tâm lý ấy mà làm lợi cho mình. Năm trước, ở Hà Nội tôi thấy có một cái cơ quan, người đứng đầu trong cái cơ quan ấy đối với những người giúp việc cùng mình thì nói: việc nầy chẳng qua chúng ta bớt ra mỗi người một chút công để làm nghĩa vụ; thế nhưng cái quyền lợi kín ở trỏng không ai thấy thì người ấy tóm thâu. Cho đến mấy ông chủ phòng ngủ, chẳng biết việc làm ăn riêng của họ có can hệ chi đến 20 triệu anh em, mà họ cứ kêu “đồng bào! đồng bào!” om sòm trên tờ quảng cáo “Hỡi đồng bào! - Xin hãy vì nghĩa đồng bang ghé vào khách sạn tôi!” - Ừ, đồng bào vì nghĩa đồng bang ghé vào khách sạn ông, ấy là đồng bào làm một việc nghĩa để cho ông thủ lợi! Hai chữ “đồng bào” có phải là chữ sắm ra để họ dùng vào việc ấy đâu. Còn các ông nhà buôn tinh ranh, cũng chực lợi dụng cái tâm lý ấy. Các ổng đưa những hàng xấu ra mà hô lên rằng: “Của nội hóa đây! các ngài phải có cái nghĩa vụ dùng nội hóa hầu để khuyến khích công nghệ nước nhà”. Rồi họ thừa dịp đó mà bán mắc muốn gấp hai ngoại hóa. Thế nhưng bọn nầy có dại chi, trong khi ấy thì mình đừng thèm làm quân tử.
Đừng nói những việc nhỏ mọn như vầy là không hại. Một số đông người vì lòng thành thiệt mà bị phỉnh, còn một vài kẻ mượn chữ nghĩa mà lấy lợi riêng, cái tệ ấy lại còn đáng ghét hơn là nhà tư bổn ăn hiếp nhà lao động nữa vậy.
Là một ứng viên cho "món ăn dân tộc... Singapore", cơm gà Hải Nam có thể tìm thấy trong các quán ăn đường phố cũng như các nhà hàng khách sạn ở đảo quốc này. |
Nhẫn lên mấy thiên, tôi đã chỉ ra những cái ảnh hưởng Khổng giáo ở nước ta, mà tôi đã thấy được, hoặc dở hoặc hay là vậy. Những cái hay nó không trái với văn hóa mới, thì tôi tưởng nên giữ lại; còn cái dở, nếu giữ lại thì thật là vô ích mà hữu hại, như tôi đã nói rõ trên kia rồi.
Tôi đã nói, những điều tôi kể ra đó là theo sự tôi thấy. Vậy hoặc còn những cái ảnh hưởng khác mà tôi không nói đến, ấy là vì tôi chưa thấy. Sau nầy nếu tôi còn xem xét ra được điều nào nữa, tôi sẽ bổ thêm vào ; nay tạm dừng bút ở đây.
Trước khi dừng bút, có mấy cái vấn đề về Khổng giáo rất là quan hệ mà ai cũng nên biết, thì tôi xin giãi bày ra trong mấy thiên nữa, làm kết luận luôn thể.
Khổng giáo khi gặp Âu hóa tràn sang thì cái trạng thái nó ra làm sao, sự đó tưởng có nhiều người muốn biết lắm.
Theo tôi thấy thì Khổng giáo tuy đã làm nền móng cho xã hội, duy trì cái thế đạo nhân tâm trong mấy nước Á Đông ta mấy ngàn năm nay, nhưng khi nó đã cụng trán với cái văn minh Âu châu thì chừng như nó muốn lung lay, đứng không vững nữa. Sự ấy rất rõ ràng trước con mắt chúng ta, xin độc giả xem qua cái lịch sử sơ lược dưới nầy, rồi lấy lòng công bình mà xét đoán, thì dẫu viện ông thầy trời xuống cũng không lấy lời nào binh vực cho nó được. Mà theo cái thuyết “ưu thắng liệt bại”, thì nội chỗ đó cũng đủ chứng rằng Khổng giáo là không thích hiệp với sự sanh tồn ở đời nay.
Cái lịch sử Khổng giáo ở nước ta không đủ đem ra mà nói, phải mượn của Tàu.
Khổng giáo có cái tánh chất hay điều hòa. Khi trước gặp Phật giáo thì nó điều hòa với Phật giáo, coi như cái kết quả của Tống nho nói trên kia thì biết. Khi gặp Gia-giáo thì lại cũng muốn điều hòa với Gia, tức như bọn Từ Quang Khải hồi nhà Minh là danh nho mà theo Đạo, lại làm tể tướng đương triều, theo các giáo sĩ Tây học được những món thiên văn toán pháp, rồi nhờ có thế lực mà làm sách truyền bá ra, về sau ai cũng nhìn rằng Tây học truyền sang Tàu là từ bọn đó. Nhưng đến khi Khổng giáo gặp cả cái văn minh của Âu châu thì dường như muốn điều hòa mà điều hòa không thể được, ví chẳng khác hai người gặp nhau, toan bắt tay, mà rồi một người đi bắc một người nam, rút lại chỉ nhìn nhau chớ không thể bắt tay.
Hồi nhà Minh, các giáo sĩ Tây đem truyền sang Tàu chỉ có thiên văn toán học mà thôi. Lịch pháp nước Tàu nhờ đó mà cải lương được đúng hơn trước. Người Tàu biết có trái đất, biết trái đất chia ra hai bán cầu và ở trển có năm châu cũng là từ đó. Nhưng một vài cái khoa học đó không đủ làm cho người Tàu kính phục, họ cũng vẫn còn tự đại như xưa, họ vẫn cho chỉ có ông Khổng Tử nhà mình là thánh hơn ai hết thảy.
Đến rốt đời nhà Thanh, đời Quang Tự sơ niên, người Tàu đã dịch ra được nhiều sách Tây cả sách khoa học và sách triết học. Bấy giờ họ mới biết bên Tây cũng có những bậc thánh triết như ông Socrates, ông Platon, ông Descartes, ông Kant, v.v. Lại thêm các nước Âu châu đem những tàu những súng qua mà dọa họ, họ mới càng hoảng hốt. Khi ấy các nhà nho nước Tàu trước sau chia ra làm ba phái, tìm cách phò trì cho Khổng giáo để chống lại cái văn minh Âu châu.
Phải thứ nhứt là bọn lập ra cái thuyết “Tây học do Đông nhi lai”. Họ tìm những chứng cớ quàng xiên mà chỉ minh ra rằng bao nhiêu những học thuật Âu châu, dầu triết học dầu khoa học cũng vậy, đều là từ Tàu truyền sang hết, tức như kỷ hà học là phép toán bày ra bởi ông Nhiễm Cầu, học trò đức Khổng Tử. Cái thuyết nầy chỉ là như anh nhà quê làm phách, không bổ ích gì cho sự thiệt hết, nên lại có kẻ nổi lên xướng cái thuyết khác.
Phái thứ nhì là bọn lập ra cái thuyết “Trung học vị thể, Tây học vị dụng”. Họ nói rằng những sự học về luân lý chánh trị,v.v. thì trong Khổng giáo cũng đã đủ thừa rồi, nên lấy những cái đó làm cốt; nước Tàu thiếu là chỉ thiếu về khoa học, nên phải lấy Tây học để cung cấp cho sự cần dùng. Phái nầy có một tay kiện tướng tức là Trương Chi Đồng. Coi như cái thuyết đó thì thấy họ tuy chưa chịu nhận cả Tây học, nhưng cũng đã nhận một phần của Tây học (vì bấy giờ trong con mắt họ coi Tây học chỉ là khoa học). Cái thuyết ấy thạnh hành một lối, song không thấy công hiệu chi nên lại có phái thứ ba.
Phái thứ ba tức là phái Khương - Lương, xướng ra cái thuyết “tam thế” của Khổng giáo. Họ chủ trương rằng Khổng Tử đã lập ra phép tắc để trị các “đời” khác nhau, ấy là đời cứ loạn, đời thăng bình và đời thái bình, mà thái bình tức là đại đồng. Đó là tam thế. Họ chia ra các thời kỳ, từ Khổng Tử cho đến bây giờ cũng còn thuộc về đời cứ loạn; từ thời kỳ họ đó mới bắt đầu thăng bình rồi còn lâu nữa mới đến thái bình, bấy giờ khắp thế giới sẽ đại đồng. Đương thời kỳ nào thì phải lấy phép tắc theo thời kỳ ấy mà trị. Rồi họ mới lấy một đoạn lời đức Khổng nói trong Kinh Lễ mà vẽ vời ra cái phép tắc đại đồng coi hơi giông giống cái chế độ cộng sản ngày nay. Chính ông Khương Hữu Vi xướng ra cái thuyết nầy, ổng cho rằng sau Khổng Tử hơn hai ngàn năm, cái bí truyền ấy đã giấu kín đi, đến ổng, nhờ Trời mở trí cho mới tìm thấy. Học trò ổng là Lương Khải Siêu cũng phụ họa theo mà nói bô bô lên một độ, nhưng về sau, khi Lương độ chừng 35 tuổi trở lên, không hề nói đến nữa cho đến chết.
Cái thuyết “tam thế” nghe nó xuyên tạc quá, thật không thể đứng được. Người Tàu có ông Trương Văn Khai đã phản đối. Muốn bẻ bác cái thuyết ấy thì phải dẫn sách vở nhiều quá, không tiện, cho nên tôi tạm bỏ đi. Ở đây tôi chỉ có ý cho độc giả biết rằng cái thuyết ấy xướng ra là bởi ông Khương Hữu Vi thấy Khổng giáo không sánh kịp Tây học, mới vẽ vời thêm cho tốt đẹp ra để có đem mà đối địch cùng nhau. Chớ thiệt ra thì trong Khổng giáo có đâu cái đồ quý lạ như Khương đã nói. Mà có lẽ đồ quý lạ ấy lại ổng mượn của Tây học mà đem chưng ra.
Khổng giáo ở nước Tàu xưa nay không có giáo hội (église) gì cả. Từ Khương Hữu Vi mới có lập ra giáo hội, kêu bằng “Khổng giáo hội”. Trần Hoán Chương, tấn sĩ, học trò của Khương, đứng chủ trương việc ấy, mà cách tổ chức và chương trình trong giáo hội thì đều do họ Khương bày ra. Giáo hội ấy lập đâu hồi cuối triều Quang Tự, đầu Tuyên Thống, ban đầu thiên hạ cũng nô nức, sau càng ngày càng suy. Tôi không rõ, ngày nay có lẽ tiêu rồi, chưa biết chừng.
Nội một sự lập giáo hội đó cũng đủ thấy cái thế lực của Khổng giáo đã sa sút lắm, không đủ địch lại với cái phong trào ở ngoài, sợ mình thua mà bị diệt vong đi, nên mới lập hội đặng hiệp sức lại mà giữ. Song hễ cái gì nó đã không thích hiệp với đời, thì tức là đã đến ngày nó phải đi, dầu neo tầu cầm cũng không lại. Khổng giáo hội nầy cũng như “Bảo hoàng hội”, mà hai cái đều do tay họ Khương lập ra. Thuở nay, ông vua có cần ai lập hội mà bảo hộ ổng bao giờ, cái ngày lập hội mà bảo hoàng tức là cái ngày đức hoàng đế sắp bước từ trên ngai bước xuống vậy.
Trong mấy năm đầu Dân quốc cũng còn nghe Khổng giáo hội vọc vạch nọ kia. Nhứt là hồi Viên Thế Khải toan xưng đế, muốn lợi dụng Khổng giáo để được việc cho mình, bèn sức cho các trường học phải đọc kinh truyện, bấy giờ Khổng giáo hội hơi đắc thế được một độ. Nhưng sau khi Viên đổ rồi, hội ấy lại suy, rồi suy luôn cho đến giờ. Một đoạn lịch sử ngắn ngắn nầy lại đủ tỏ ra rằng Khổng giáo là bạn với quân quyền, là vây cánh cho cái chánh thể chuyên chế. Hễ quân quyền lụn bại, chánh thể chuyên chế hạ màn, thì Khổng giáo cũng không còn đứng với ai.
Thế mà trong khi phái thứ ba nổi lên đó, họ cố làm cho những chỗ hiệp với quân quyền chuyên chế trong Khổng giáo thay hình đổi dạng đi để giống với Tây học, khỏi trái với thời thế. Ngoài các sách của họ Khương làm ra, là sách đại để dựa theo Tây học mà giải kinh Khổng, có mấy điều Lương Khải Siêu đã biện bác, cũng nên thuật lại mà nghe. Như câu “Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi” trong Luận ngữ, tiên nho đều giải rằng : Dân, có thể cho chúng nó noi theo được, mà không thể cho chúng nó biết được. Lương giải lại rằng: Dân trình độ khá, thì cho chúng nó noi theo; còn chẳng khá thì phải cho chúng nó biết đã. Lại câu “Thiên hạ hữu đạo tắc thứ nhân bất nghị” vốn có ý là dân không được nghị luận đến việc chánh trị; nhưng Lương giải ra là hồi bấy giờ mọi việc đâu vào đó, nhân dân không còn chỗ nào dị nghị được nữa. Phàm những điều ấy đều vì có ý “cải trang” cho Khổng giáo mà làm ra; nhưng chỉ cải trang được một câu một lời mà thôi, cả sách vở của họ Khổng còn đó, còn có lời nầy dính dấp với lời kia, chỗ nầy đối chứng với chỗ khác, làm thế nào mà che đậy hết đi được? Việc họ làm đó chẳng có công hiệu gì, chỉ càng tỏ ra Khổng giáo đã đến ngày đứng không vững, nên mới dựa vào lưng người khác vậy.
Cũng như ở ta đây, có nhiều người đã lấy câu “tứ hải chi nội giai huynh đệ dã” trong Luận ngữ mà cho rằng Khổng giáo cũng chuộng nghĩa bác ái, không phân biệt các chủng tộc trong loài người. Thật ra thì lời đoán ấy chưa chắc là đã phải. Cứ văn nghĩa của nội một câu đó cũng đã rõ rồi. Bởi vì, nói rằng “tứ hải chi nội” (nghĩa là trong bốn biển) thì rõ là chỉ trong một nước Tàu mà thôi, câu ấy chẳng khác nào nhìn mọi người cùng ở nước Tàu là anh em, chớ không hề nói đến người ở ngoài bốn biển. Huống chi trong kinh Xuân thu của đức Khổng làm ra, có một cái nghĩa lớn, kêu là “nội Trung quốc ngoại di địch”, lấy nước Tàu làm chủ mà ngoại các nước khác ra, cho là mọi rợ hết; đã cho là mọi rợ mà còn nhìn là anh em được sao? Vì quá ư tự tôn theo kiểu Xuân thu đó mà 5-7 mươi năm về trước nước Tàu và nước ta đều cho người Tây là mọi, cái lầm như cái trời ấy trải bao lâu mới tỉnh biết. Thế mà ngày nay ta còn xưng Khổng giáo là bác ái, chẳng qua thấy Gia-tô và Phật có cái nghĩa ấy rồi ta cũng kiếm lấy một cái tựa tựa để chưng ra cho có với đời mà thôi.
Lại cũng có người lấy câu “Dân quý quân khinh” mà cho rằng chính Mạnh Tử đã xướng ra dân quyền trước các học giả bên Tây. Kỳ thiệt có phải vậy đâu. Lời Mạnh Tử nói đó cũng giống như trong Kinh Thơ nói rằng “dân duy bang bổn” (nghĩa là dân là cội gốc của nước) mà chỉ bạo hơn một chút. Nói vậy có ý khuyên người làm vua phải coi dân là trọng chớ chẳng hề có ý biểu vua phải nhường quyền cho dân. Coi cả sáchMạnh Tử, chỗ nào ổng cũng nói “bảo dân, dưỡng dân, mục dân”, nghĩa là nuôi dân như nuôi con, chăn dân như chăn trâu chăn dê vậy; vậy thì dựa vào chỗ nào dám bảo rằng Mạnh Tử đã xướng dân quyền ? Đại phàm bàn về một cái giáo nghĩa nào một cái học thuyết nào, cũng phải như đứng vào chỗ rất cao mà ngó xuống cả toàn thể nó, rồi phán đoán mới trúng được; chớ nếu thấy đâu nói đó, mượn một câu một lời, thì luôn luôn là sai lầm, dối mình và dối cả người nữa.
Nãy giờ nói hơi xa đề, nay xin tiếp theo khúc lịch sử đã kể trước.
Người Tàu thấy ba phái kia đối với cái vấn đề Khổng giáo gặp Âu hóa giải quyết lúng túng không xong, năm 1916 khởi đầu mới có cuộc cách mạng lớn về tư tưởng, tức gọi là “tân văn hóa vận động”. Bấy giờ mới có những người cất thân ra làm tròng bia chịu đạn như bọn Ngô Ngu, Trần Độc Tú mà công kích Khổng giáo rất kịch liệt. Sau đó bèn có những sự cất tế điền họ Khổng ở Khúc Phụ và bỏ xuân đình thu đình không tế.
Người An Nam mình nghe những sự như vậy đều phải than thở, cho họ là làm bậy, quá nhẫn tâm.
Song phải hiểu mới được, phải biết tình thế nước người ta, nếu đã biết, thôi thì không trách. Bởi vì các nước lập hiến đời nay, trong hiến pháp nước nào cũng có điều nhân dân tín giáo tự do. Đã tín giáo tự do thì trong nước chắc có nhiều tông giáo. Trong nước đã nhiều tông giáo thì nhà nước không có thể tôn một cái giáo nào làm quốc giáo (religion nationale) được.Trong bản thảo hiến pháp của Tàu, nơi điều 11, cũng đã định rằng tín giáo tự do, thì lẽ nào nhà nước Tàu còn tôn thờ riêng một mình Khổng Tử? Nếu còn đặt tế điền, còn tế lễ một năm hai kỳ ở văn miếu, thì thành ra nhà nước lấy Khổng giáo làm quốc giáo rồi, há chẳng trái với hiến pháp hay sao? Nước Tàu cũng còn có mấy chục triệu dân không theo Khổng giáo mà theo các giáo khác, bọn ấy có dại đâu ngồi yên mà để cho chánh phủ làm như vậy? Vì lẽ đó nước Pháp trong năm 1904 cũng truất Thiên Chúa giáo, không nhận làm quốc giáo nữa, hầu để tôn trọng hiến pháp và quyền tự do tín giáo của nhân dân. Thế nhưng, người mình đối với việc nước Pháp làm thì không ai nói chi ; còn thấy người Tàu làm, thì cho là làm bậy. Sự đó cũng không lạ mấy, vì An Nam đối với Khổng Tử có tình sâu nghĩa nặng hơn là đối với Jésus Christ.
Tuy vậy, hiến pháp nước Tàu, nơi điều 19, nói về việc quốc dân giáo dục, lại có nói rằng “lấy đạo Khổng Tử làm cái gốc lớn cho sự tu thân”. Theo ý riêng tôi thì sự đó rất phải, và cũng chẳng đến nỗi mâu thuẫn với điều 11; ấy vậy mà lúc bấy giờ trong nước Tàu nhao nhao lên,có nhiều người còn không chịu nữa, thế thì đủ biết cái sự người ta làm trên kia là sự vạn bất đắc dĩ vậy.
Cho đến năm ngoái đây, sau khi Chánh phủ Quốc dân thành lập tại Nam Kinh, trở lại hạ lịnh cho nhân dân phải tôn Khổng. Bởi vậy mà khắp trong nước ta, thấy Hoa Kiều đã làm lễ kỷ niệm Khổng Tử hai lần rồi. Sự nầy tôi không được biết cho rõ là thế nào, cứ theo dư luận người Tàu thì họ nói vì Tưởng Giới Thạch muốn thi hành cái lối độc tài (dictature) nên mới hạ cái lịnh ấy, nghe có lẽ lắm. Độ trước, tôi có viết trong Quần báo mà rằng : “Đối với Chánh phủ Nam Kinh, tôi vốn không ngờ vực gì cả ; nhưng từ khi chánh phủ ấy hạ lịnh tôn Khổng, tôi bèn bắt đầu nghi cho họ có giã tâm”, vì việc họ làm đó coi giống việc Viên Thế Khải đã làm năm xưa.
Cái lược sử Khổng giáo ở nước Tàu cùng cái văn minh Âu châu gặp nhau đầu đuôi như vậy. Coi đó thì biết cái gốc của Khổng giáo ngày nay đã lung lay. Có kẻ hay than vắn thở dài, sợ rằng đạo Thánh gặp phải cái thời khó khăn nầy rồi một ngày một suy diệt. Tôi thì tôi nói: Đổ cho thời a? Có ai bắt đạo Thánh phải suy? Suy là tại đạo Thánh không đủ sức trong mình để làm nên thạnh.
Nước Tàu còn có năm ba bọn trung với Khổng giáo, gặp cơn nguy biến, ra tay chống chải, hết phương nầy tìm phương khác, tuy không kéo lại được mà cũng còn tỏ cho thiên hạ biết rằng trong Khổng giáo vẫn có người. Đến nước ta thì hết chỗ nói ! Khổng giáo ở nước ta trong khi gặp văn minh Âu châu, hình như nó nằm sát rạt xuống, vừa khóc vừa rên, vừa ngửng đầu lên coi chánh phủ. Chánh phủ có để khoa cử thì cứ thi đậu làm quan chơi ; chánh phủ bỏ khoa cử thì cũng đau lòng mà khóc rên chút đỉnh ; nhưng đến khi chánh phủ lập trường ra bắt học chữ Pháp thì lại lau nước mắt mà cứ việc học, mong cho tốt nghiệp đặng làm quan. Rồi đến ngày nay đây, có thằng ngỗ nghịch là thằng tôi nó dám ra đương trường chỉ trích Khổng giáo, - để coi giạc chừng như, - cũng không ai thèm nóng mặt mà ra miệng hết. Ừ, nó nói ông Khổng Tử chớ nó có nói chi mình đâu, nó có động đến bát cơm của mình đâu mà hòng ra miệng! Không dám dối độc giả, tôi viết đến đây, bỗng dưng hai hàng nước mắt trào ra trên giấy. Không phải tôi khóc vì Khổng giáo điêu tàn, nhưng tôi khóc, một là vì cái kẻ chỉ trích Khổng giáo lại là tôi, hai là vì ngó thấy cái tình đời bạc bẽo!
Vậy mà hễ nói đến Khổng giáo thì ai nấy đồng thanh bảo phải duy trì. Hôm trước đây thấy Chánh phủ Nam kỳ ra lịnh bắt dạy chữ nho mỗi tuần một giờ trong các trường, thì đã đua nhau cảm ơn và ca tụng ! Tôi chẳng biết nửa giờ chữ nho ấy mà nó có ích gì cho học trò, có ích gì cho Khổng giáo, có ích gì cho cái văn hóa tương lai của Việt Nam?
Mới đây, đọc một tờ báo quốc ngữ ở Hà Nội, trong có bài bàn về sự duy trì Khổng giáo, tôi thấy như thấy của quý, nên coi thử lập luận ra sao. Cái lý do của họ rất là đơn sơ, chỉ nói rằng nước Tàu ngày nay mà còn tôn Khổng, các bậc kỳ cựu họ vẫn lo bảo tồn Khổng giáo, thì ta cũng nên lấy họ làm gương. Nói như vậy thì thật chẳng có lý gì hết. Muốn duy trì Khổng giáo thì phải hiểu Khổng giáo là gì, cái địa vị của nó ngày nay ra sao, duy trì nó có ích lợi gì không, và làm cách nào mà duy trì; chớ còn thấy người ta duy trì, mình cũng duy trì, thì chỉ nói cho vui tai đó vậy.
Trong bọn kỳ cựu Tàu đó, tôi biết có lão Ngô Trĩ Huy. Va năm nay ngoài 60 tuổi, đương làm ủy viên trong chánh phủ Nam Kinh, mà là một người phản đối Khổng Tử, hồi trước rất kịch liệt và lỗ mỗ. Trong văn tập chú va, có chỗ va nói rằng: “Cái học của Khổng Khưu là cái học ăn c...” (“Khổng Khưu khiết phẩn chi học”), vậy mà ngày nay va lại đồng tình với mấy ủy viên kia hạ cái lịnh tôn Khổng, thì tôi chẳng hiểu va là người gì! Ông biểu tôi lấy thứ đồ kỳ cựu ấy mà làm gương cho tôi sao?
Phan Khôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét