Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế (kỳ I)

Bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ, triều Minh Mạng (1820-1841). Trên bản đồ có ghi rõ tên Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Với bao công sức tìm tòi, lắp ghép, xây dựng lý lẽ trong mấy chục năm qua, Trung Quốc vẫn không chứng minh được rằng nước này đã chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ bao giờ, đã thực hiện "chủ quyền" đó ra sao. Đó là một việc mà họ không bao giờ có thể làm được. Vì lý do đơn giản là: Từ trước tới nay, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà nhà cầm quyền Trung Quốc gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa" chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc.
I- Việt Nam - Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa
Trung Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc nhân dân Trung Quốc "đến hai quần đảo này hàng hải, sản xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý, nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Cụ thể: 
Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp. 
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa. 
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618),Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820),Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc. 
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ. 
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tất cả đều rất thống nhất với nhau. 
Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để cố chứng minh chủ quyền đối với hai quần đảo này. 
Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa và phạm vi cai quản của mình", "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa". Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm do địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào. 
Sự kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên". 
"Bên hoa" - người đẹp Việt Nam
Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Dưới đầu đề "đo đạc bốn biển", Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Biển Hải, Nam Hải.
Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là "đo đạc" "toàn quốc" như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là "đo đạc bốn biển", cho nên mới có cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều Tiên, Thiết Lặc nay thuộc vùng Xi-bia của Nga, Nam Hải tức Biển Đông. 
Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ "cương vực" Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam. 
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phái Tây Đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí - đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận”. 
-Đồ ăn rất nhiều, các bạn đừng sợ thiếu nhé, cứ ăn thoải mái...!!!
Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu. 
Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tại liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.” 
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.” 
Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này. 
Với bao công sức tìm tòi, lắp ghép, xây dựng lý lẽ trong mấy chục năm qua, Trung Quốc vẫn không chứng minh được rằng nước này đã chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ bao giờ, đã thực hiện "chủ quyền" đó ra sao. Đó là một việc mà họ không bao giờ có thể làm được. Vì lý do đơn giản là: Từ trước tới nay, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa mà nhà cầm quyền Trung Quốc gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa" chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc. 
Trong khi đó, các tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này. 
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam. 
"Nàng dâu" - Hot girl Nhật Bản
Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam chỉ rõ: “Các hải đảo của Việt Nam như Trường Sa, Hoàng Sa được vẽ từ năm 1490 trong Hồng Đức bản đồ. Sau này, nhà Nguyễn (1838) vẽ bản đồ trong Đại nam nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung là quần đảo Hoàng Sa, phí dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.” 
Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn chủ quyền của Việt Nam là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775) khi ông được triều bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi. Đáng chú ý, bộ sách này còn nêu rõ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ. 
Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rỗi lĩnh bằng trở về. 
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản". 
Lê Quý Đôn còn ghi lại những sự kiện lịch sử xảy ra trước đó, như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan với thủy binh nhà Nguyễn. Các sự kiện này chứng tỏ, thời ấy, nước ta đã rất chú ý tới việc kiểm soát trên biển. 
Rõ ràng, các tư liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này ít ra từ thế kỷ XVII khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào. 
Cảng than (Bắc Giang) - ảnh Việt Nam xưa
II- Việt Nam quản lý Hoàng Sa, Trường Sa liên tục và hoà bình
Các tài liệu lịch sử đáng tin cậy cho phép kết luận ngay rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Trong phần đầu của loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế”, chúng tôi đã đưa ra các dẫn chứng để chúng minh rằng, Việt Nam là quốc gia đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa. 
Có một vấn đề đặt ra là: Việt Nam có tiếp tục làm chủ hai quần đảo này không? Và việc chiếm hữu, khai thác nó của Nhà nước Việt Nam có bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác không? 
Các tài liệu lịch sử của Việt Nam rất nhiều, khớp với các tài liệu nước ngoài đáng tin cậy cho phép kết luận ngay rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Nhiều bản đồ, tập địa đồ hay sách địa lý nước ta chỉ rõ, các quần đảo là một bộ phận của nước ta, cụ thể là: Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, 1774; Đại Nam Nhất Thống toàn đồ, 1838; Đại Nam Nhất Thống chí, 1882,… 
Sự quản lý thật sự các quần đảo cũng xuất hiện trong nhiều tài liệu khác của Việt Nam. Những tài liệu quan trọng nhất có thể kể ra là: Đại Nam thực lục tiền biên, 1884 và Đại Nam thực lục chính biên, 1848; Đại Nam nhất thống chí, 1882,… 
TS. Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ cho biết, một số tài liệu này có những lời phê bằng mực son, bút tích của nhà vua: “Trong kho lưu trữ ở Huế, chúng ta đã tìm được những bút phê của nhà vua trong việc thành lập đội Hoàng Sa, rồi cử đội này ra Hoàng Sa và Trường Sa, với thời gian cụ thể và cả các quyết định phong chức cho các đội trưởng để chỉ huy ra Hoàng Sa và Trường Sa như Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật,vv… mà hiện nay các tên tuổi đó được ghi nhận ở một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của chúng ta như đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hòa. Chúng ta cũng tìm được các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn các văn bản của nhà vua trong việc cử các đinh tráng xung vào đội Hoàng Sa. 
Đây chính là bằng chứng pháp lý để nói rằng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. 
Nhà nước phong kiến Việt Nam từ lâu đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo này. Các biện pháp này thể hiện chính sách quốc gia chú trọng tới các lợi ích biển. 
Trong thế kỷ XVIII, nhà Nguyễn đã thành lập các đội đi biển có tính nhà nước. Tổ chức và hoạt động của chúng được mô tả chi tiết trong cuốn sách của Lê Quý Đôn năm 1776. Các đội này có nhiệm vụ đặc biệt, một số để thu lượm các hải sản tại các đảo gần bờ, số khác để thu lượm các đồ vật từ các tàu bị đắm ở ngoài khơi. 
"Xuyên thấu" - siêu mẫu nội y châu Âu
Điều này cũng được mô tả trong Toản tập Thiên nam chí lộ đồ thư từ thế kỷ XVII: “Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông đưa 18 chiếc thuyền đến (Bãi Cát Vàng) lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Hay trong Đại Nam thực lục tiền biên (1884): "Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến, thu lượm hoá vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân ở phường Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn thu lượm hoá vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản". 
Trong giai đoạn từ năm 1771 đến năm 1802, lịch sử nước ta được đánh dấu bằng sự đối đầu của các triều đại phong kiến. Khi nhà Nguyễn được khôi phục lại (1802) đến khi ký với Pháp Hiệp ước 1884, các vua nhà Nguyễn ra sức củng cố chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. 
Đại Nam thực lục chính biên kể lại, năm 1815, vua Gia Long cử Phạm Quang Ảnh chỉ huy đội Hoàng Sa đi thuyền ra Hoàng Sa để khảo sát và đo đạc đường biển. 
Vua Minh Mạng, năm 1833, đã ra chỉ thị cho Bộ Công phái người tới dựng miếu, lập bia, trồng nhiều cây cối ở Hoàng Sa. Chỉ thị viết: “Ngày sau, cây cối to lớn, xanh tốt, người dễ nhận biết, có thể tránh được nhiều mắc cạn".
Năm 1836, vua Minh Mạng tiếp tục thực hiện làm địa bạ toàn quốc. Đại Nam thực lục chính biên ghi lại như sau:“Phải ghi chép mọi việc, mọi chi tiết và tường trình cho trẫm rõ. Khi thuyền đến một nơi nào, một hòn đảo hay một bãi cát, thuyền trưởng phải đo kĩ chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều sâu, chiều rộng và cả chu vi của hòn đảo hoặc của bãi cát, độ sâu của nước vùng ở xung quanh, dò tìm các bãi đá ngầm, xem đó có nguy hiểm cho tàu bè hay không, khảo sát đất đai, đo đạc và vẽ bản đồ.” 
Cùng năm này, vua Minh Mạng sai đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền ra Hoàng Sa đo đạc, vẽ bản đồ và cắm các cọc để đánh dấu những nơi đã kiểm tra. Trên mỗi cọc có ghi dòng chữ: “Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân (1836), thừa hành Hoàng thượng, thủy quân đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật đã ra đây, tại đảo Hoàng Sa để đo đạc địa hình và cắm cọc này để làm dấu tích.” 
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định, trong luật quốc tế phân tích, đã có nhiều hoạt động của Nhà nước được thực hiện để xác lập chủ quyền: lập một đội thủy binh riêng, trợ cấp về tài chính cho nó, khai thác nó, thưởng cho nó, quyết định xây dựng các công trình xây dựng trên lãnh thổ, cắm mốc chủ quyền,vv… Đó là những bằng chứng của chủ quyền theo đúng các quy tắc của luật pháp quốc tế áp dụng vào thời điểm đó: “Các triều đình phong kiến Việt Nam có giấy chứng thực chủ quyền từ thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVIII. Họ đã tổ chức quản lý các quần đảo này thông qua các đội tàu biển. Theo mùa, các đội tàu này đến các đảo để khai thác tài nguyên thiên nhiên và của cải từ xác các con tàu đắm trôi dạt vào. Họ còn dùng nhiều biện pháp như trồng cây để bảo đảm cho các vùng đó bớt nguy hiểm hơn cho các tàu bè qua lại. Người ta đã tìm thấy bằng chứng trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng về việc này. 
Trong luật quốc tế, đó là những bằng chứng của chủ quyền”. 
Odysseus kéo ba nười bạn khỏi những kẻ ăn hoa sen đầy mê hoặc. Tranh không rõ nguồn. Trong tranh, sen mọc trên cây cao mới lạ chứ!
GS. André Menras, Chủ tịch Hiệp hội Phát triển và Trao đổi Sư phạm ở miền Nam nước Pháp khẳng định, ở thời kỳ đó, ngoài Việt Nam thì không một quốc gia nào, kể cả Trung Quốc thực thi chủ quyền ở các quần đảo này: “Tôi đã nghiên cứu rất rõ về lịch sử của Hoàng Sa và Trường Sa thì Việt Nam đã thường xuyên có mặt ở Hoàng Sa. Đội Hoàng Sa hàng năm đi làm nhiệm vụ vừa kinh tế vừa bảo vệ chủ quyền trên quần đảo đó. Trong khi đó, không có một nước nào ra Hoàng Sa, kể cả Trung Quốc. Như vậy, hồ sơ của Việt Nam rất chặt chẽ. Theo những quy định trong Công ước Luật biển năm 1982 thì đó là chủ quyền của Việt Nam”.
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là: khi xác lập chủ quyền của mình trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam có bị một nước nào phản bác và chống đối hay không? Vì trong công pháp quốc tế thì chủ quyền trên một vùng đất sẽ phải bị xét lại nếu khi vừa xác lập đã bị một hay nhiều nước phản đối. 
Như đã phân tích trong phần trước của loạt bài này, cho đến đầu thế kỷ XVII, các tài liệu của Trung Quốc không cho phép xác định nước này đã xác lập chủ quyền lãnh thổ đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Vậy thời kỳ sau đó thì sao? 
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định: “Mãi về sau này, Trung Quốc mới có yêu sách về chủ quyền đối với các quần đảo. Đối với Hoàng Sa, Trung Quốc có yêu sách về chủ quyền bắt đầu từ năm 1909. Còn đối với Trường Sa là sau Chiến tranh thế giới thứ hai.” 
Trong tất cả các tài liệu của Trung Quốc đều nhắc rằng, các ngư dân nước này đã đến các đảo này hàng ngàn năm nay nhằm chứng minh rằng nhân dân nước này đã “phát hiện” và “khai phá kinh doanh”. Nhưng đó chỉ là những hành vi cá nhân, không có đặc quyền, không phù hợp với một sự chiếm hữu hay ý định khẳng định chủ quyền. Việc chiếm cứ của cá nhân không thể là hành động nhân danh chính phủ của họ, không thể tạo thành một sự chiếm hữu. Hơn nữa, trong cùng thời kỳ này, chính ngư dân Việt Nam cũng hay lui tới các quần đảo đó. 
Trên thực tế, việc chiếm hữu và khai thác của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo này không bao giờ gặp phải sự phản đối của một quốc gia nào khác kể cả Trung Quốc. 
Trong các sử liệu Trung Quốc có cả các tài liệu chứng tỏ nước này không hề có một đòi hỏi nào đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ví như Trong Hải lục viết: “Vạn lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên dậu của An Nam”. Từ đó ta thấy rằng, Trung Quốc không có các hành vi thực thi chủ quyền mà còn im lặng, đồng tình với sự chiếm hữu của Việt Nam. 
Tướng quân đội Pháp Daniel Schaeffer, nguyên tùy viên quân sự của Pháp ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan, một chuyên gia về các vấn đề an ninh và quốc phòng ở khu vực Đông Á đưa ra kết luận:“Việt Nam và Trung Quốc đã đưa ra các bằng chứng, tài liệu từ thời phong kiến để chứng minh nước nào là nước đầu tiên có hoạt động ở Hoàng Sa. Bằng chứng của Trung Quốc về chủ quyền Hoàng Sa không thuyết phục. Trong khi đó, Việt Nam có những tài liệu khẳng định quyền của mình từ xa xưa không có nghi ngờ gì đối với các đảo Hoàng Sa.”
Ngoài Trung Quốc, các quốc gia khác có hay không biểu lộ ý định thực thi chủ quyền?
Câu trả lời là, lúc đó, không có một quốc gia nào khác trong vùng đã đưa ra yêu sách. Thực tế ngày nay cũng cho thấy, không một quốc gia nào có ý định đưa ra yêu sách có từ thế kỷ XIX hay trước đó.
Cần biết thêm rằng, năm 1898, trong Hiệp ước Paris giữa Tây Ban Nha và Mỹ chuyển giao Philippines. Như vậy, trước khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp năm 1884, Việt Nam đã thực sự chiếm hữu mà không có cạnh tranh trong nhiều thế kỷ đối với các đảo theo đúng chế độ luật pháp của thời kỳ đó. 
Đến đây đặt ra vấn đề củng cố danh nghĩa và nhất là việc duy trì danh nghĩa này liên quan tới tiến triển của luật pháp quốc tế. 
Chúng tôi sẽ đề cập nội dung này trong phần tiếp theo. 
Lê Phúc - Lê Bình - Thùy Vân - Thu Lan
(Một số ảnh không liên quan đến nội dung bài viết)
"Buông lơi" - thiếu nữ Hàn Quốc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét