Thứ Hai, 20 tháng 8, 2012

Vũ Hoàng Chương: "Cao xanh liều một cánh tay níu trời" (phần 1)

"Suy tư" - Hot girl Nhật Bản
Chao ôi, vẫn chỉ là ảo mộng có muốn trở về ngôi chính vị, chỉ khi nào đã từ bỏ trần giới mà ca lên: “Ta còn để lại gì không?/Kìa non đá lở, này sông cát bồi!". (ảnh không liên quan đến bài viết)

Năm sinh đúng của Vũ Hoàng Chương là 1915; nhưng trong khai sinh đề ngày 5-5-1916 tại Nam Định. Và tính theo âm lịch, ngày 4-11 năm Ất Mão. Chính quán làng Phù Ửng, tỉnh Hưng Yên. Đậu Tú tài Pháp xong ra làm Sếp ga. Tác phẩm xuất bản từ 1940-1975 trên dưới 20 cuốn, có tác phẩm đã dịch ra Pháp, Anh, Đức.
Về thơ: Thơ Say (1940), Mây (1943), Rừng Phong (Saigon 1954), Hoa Đăng (Saigon 1959), Tâm tình người đẹp (thơ viết lối “Nhị thập bát tú” (Saigon 1961), Trời một phương (Saigon 1962)… kịch thơ: "Vân Muội” (1942), "Trương Chi”, “Hồng Điệp” (1944) về văn xuôi: “Loạn trung bút" (Saigon 1970), "Ta đã làm chi dời ta” (hồi ký, 1974, tái bản, Nxb Hội Nhà văn/Chi nhánh phía Nam, Sai Gòn 1993), dịch sang Pháp, Anh, Đức..: "Pòemes choisis" (Saigon 1963, tựa Simone Kuhnen d la Coeuillerie), “Nouveaux Poems" (Saigon 1970), “Communions Poems" (Anh-Mỹ ngữ), "Die achtundzwanzig Sterne" (Đức ngữ, Nxb Hamburg, 1966). 
P.Mérimée, nhà văn Pháp của thế kỷ trước đã gióng tiếng nói báo hiệu: "Sau đàn bà mới tới văn chương!”. Với Vũ Hoàng Chương, (VHC) hẳn là một nàng Kiều Thu nào đó đã cùng nhà thơ chia sẻ hận tình, xảy ra vào 12 tháng 6 - hình ảnh lãng đãng nàng thơ thiếu phụ kia đã ám ảnh tâm linh Vũ Hoàng Chương trọn đời thi sĩ thật đậm nét, đến nỗi VHC phải bật thành thơ: 
“Tháng sáu mười hai từ đây nhé 
Chung đôi từ đấy nhé lìa đôi 
Em xa lạ quá còn đâu phải 
Tố của Hoàng xưa Tố của tôi…” 
hoặc : 
“...Kiều Thu hề Tố em ơi 
Ta dương lửa đốt tơi bời mái Tây" 
Nhà hát lớn Hà Nội - ảnh Việt Nam xưa
“Mây” ra mắt vào 1943, chứng giám mối tình lỡ chàng thi nhân thất tình, khiến chàng muốn thiêu hủy tâm can, bật thành thơ, hòng mong được giải thoát - để rồi nào có thể quên dễ dàng! Sau này, ở “Rừng Phong” sau mười mấy năm hình ảnh:
"Tố của Hoàng ơi 
từ hư không lại trở về không hư”, 
lẽ nào mộng cả thôi ư?" 
dẫn đến kết cục não lòng: 
“Người ơi giọt bể chưa dư tang điền"
Vậy nàng thơ có phương danh “Tố” là ai? 
Theo Tạ Tỵ, kể lại trong một hồi ký "Mười khuôn mặt văn nghệ - Tạ Tỵ- Nam Chi Tùng thư, Saigon 1970) - thì nàng Tố có hai chị em đều đẹp cả, nhan sắc dư thừa và nhà ở trên đường Capitaine Bruisseau, gần Place Négrier. (Cửa Nam, Hà Nội bây giờ). Và nhà thơ chỉ yêu một nàng, yêu đơn tư một chiều - còn Tố có yêu lại không, chẳng ai tiết lộ điều bí ẩn này. Sau nàng Tố đi lấy chồng, chẳng ai có thể làm khác hơn! 
Từ tan vỡ một cách rất vô tình, lại rất hợp lý này, sau này VHC cưới nàng Thục Oanh làm vợ. Thục Oanh là chị ruột Đinh Hùng, hơn Đinh Hùng 1 tuổi, sinh ở Manila ( Phillipimes) khi cha làm công chức cho Pháp đổi sang đây. 
Trước 1975, tôi có gặp bà, ấy là vào một buổi; đó là lần tôi đưa Vũ Hoàng Chương về nhà, một căn nhà nhỏ ở gần chợ Vườn Chuối (Sài Gòn 3). Chẳng là lần ấy, nhà thơ Nhất Tuấn (Phạm Hậu, giám đốc Nha Vô tuyến Truyền thanh Sài Gòn) mời chúng tôi làm giám khảo cuộc thi Thơ Tết của Đài, có VHC hiện diện. 
Sau 1975, gặp lại bà Thục Oanh nhiều lần, cũng nhờ nữ sĩ Thư Linh dẫn tới giới thiệu - từ đó, tôi cảm nhận được rằng người đàn bà làm vợ nhà thơ ấy thật phi thường, không chỉ có sức chịu đựng dẻo dai vô biên, cộng với tấm lòng hy sinh thật cao cả làm vợ một thi sĩ tài hoa, luôn luôn mặc complet bảnh bao, túi rỗng vì nghiện ngập. Hãy cùng nghe lời tán dương Thục Oanh, qua Tạ Tỵ: 
“…Ôi thật tội nghiệp cho thân phận đàn bà, đúng là: “ Thân em như giọt mưa sa!” Nàng Oanh, một người đàn bà phi thường, có một sức chịu đựng vô biên và có tấm lòng hy sinh cao cả. Trong suốt cuộc đời làm vợ VHC, một người chồng, tuy nổi danh về thi ca nhưng lại nghiện hút, gia đình thường túng thiếu. Có buổi sáng, tôi đến thăm Chương tại căn nhà ở gần phố Hàng Da (Hà Nội). Lúc tôi đến đã hơn 9 giờ sáng, Chương vẫn chưa tỉnh. Bà Oanh yên lặng như cái bóng, đứng chải đầu bên chiếc cửa sổ nhỏ. (….) 
“Ngồi chơi anh, đêm qua anh Chương thức khuya quá!”. 
Tôi (Tạ Tỵ) tìm không ra chỗ, đành ngồi xuống chiếu. Tôi nhìn Chương nằm trên tấm nệm cũ. Toàn chân Chương như dán xuống mặt nệm. Da mặt tái mét, đôi mắt mở hé trề xuống như còn muốn hút…”. 
Người đàn bà mang tên Kiều Thu hoặc Tố - được nhắc nhở thật nhiều lần trong thơ VHC - với nàng thơ mang tên Tố - tác giả yêu đơn phương, vì vậy rất có thể chính nàng thơ cũng không thể hay biết VHC yêu mình?! 
Còn nàng Thục Oanh, vợ chính thức VHC - thì tác giả chỉ "nhắc nhở tên nàng Thục Oanh duy nhất một lần” - trong tập thơ "Hoa Đăng” mà thôi. 
Trước 1950, chính xác hơn 1947 - VHC rạt rào tình cảm, dễ rung động nhịp sống “thời cách mạng”, tác giả viết bài "Nhớ về Hà Nội vàng son" - có những đoạn thơ thật mượt mà, rung động thật sự: 
"Ôi ngày mười chín ngày oanh liệt 
Sóng đỏ hoa vàng khắp bốn phương 
Hà Nội tiếng reo hò bất tuyệt 
Vang vang bờ nọ Thái Bình Dương ? 
Ba mươi sáu phố ngày hôm ấy 
Là những giòng sông đỏ sóng cờ 
Nền thắm nhụy vàng hoa vĩ đại 
Năm cánh xòe trên năm cửa ô 
(………………………………) 
Ôi ngày mười chín ngày oanh liệt 
Vạn ước mong dồn một ước mong 
Ôi mùa thu ấy, mùa tin tưởng 
Một tấm lòng mang vạn tấm lòng … 
Lưng chừng thế kỷ thứ hai mươi 
Khoảng giữa mùa thu đẹp tuyệt vời 
Như thoảng Mê Giang trào sóng thẳm 
Hoành Sơn tân lĩnh kết hoa tươi"
Bài thơ này trước đã in trong "Tập văn Cách mạng và Kháng chiến" (Nxb Sư thật 1947) - tôi trích đăng lại, bị “Sở Phối hợp Nghệ thuật” (Ban Kiểm duyệt - Bộ Thông tin VNCH) cắt bỏ 2 đoạn. Tôi không còn nhớ đến nữa, tới đầu năm 1999, kịch tác gia Hoàng Như Mai (Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân bây giờ) đọc cho nghe 2 đoạn thơ thiếu trong bài - nên mới có cơ hội bổ sung. 
"Trải nghiệm" - siêu mẫu châu Âu
Trở lại cùng người đàn bà mang tên Đinh Thi Thục Oanh - do chính phu quân mô tả, thì: "Khi lập gia đình, chú rể ở luôn bên nhà vợ cùng em vợ tọa lạc tại Ngõ Bò. Nhưng VHC “chơi chữ’ gọi Ngõ Bò thành “Hoàng Ngưu hạng” và tác giả giải nghĩa: "nếu dịch chữ nào nghĩa nấy thì đó là "Ngõ Trâu Vàng". Căn nhà 5 gian lợp ngói, cửa bức bàn, hiên rộng tới 3 thước, có thể trải chiếu ngồi, nhìn ra cây ổi và giàn hoa ngoài sân; nếu hội họp để uống rượu ngâm thơ thì 20 người ngồi vẫn còn thừa chỗ. Chỉ phải cái nhà hơi tối, vì chẳng có một cửa sổ nào, lại ở vào một ngõ không được hưởng tiện nghi điện lực(…) mà người nọ nhìn người kia vẫn mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm. Thục Oanh và Thứ Lang (Đinh Hùng) bất chấp. Hoàng đến nhập tịch cũng bất chấp luôn...".
Bạn bè văn chương đến thăm VHC hoặc Đinh Hùng đều được Thục Oanh tiếp đãi khách thật chu đáo, nồng hậu, VHC tự kể: 
“…Nào Chu Ngọc, Vũ Trọng Can, Lê Văn Trương.v.v…Nguyễn Bính thì đi đâu một dạo, hình như vào Sài Gòn - lúc phản hồi” Kinh đô văn nghệ” là đóng đô ngay (tại đây), nằm lỳ (ở) Ngõ Trâu Vàng đến một tháng là ít! Phải chịu Thục Oanh là một người thản nhiên có một. Bạn của Thứ Lang hay Hoàng đến, Oanh đối đãi rất thật tình. Có khi cơm gà cá gỏi, rượu thịt ê hề, có khi ăn khoai trừ bữa hay ăn cháo trắng thay cơm. Rất có thể một hôm nào đó mỗi người - chủ cũng như khách - chỉ được thưởng thức một chén cơm rang, hay một củ khoai, hoặc vừa đúng 3 thìa cháo(…). Hoàng ưa nhắc lại: "Ăn ít mới ngon!".
Cái thời "chữ nghĩa bán ra tiền” thời tiền chiến rất khác bây giờ - thơ in ra còn bán ra tiền. Có tiền mới có nhiều bữa ăn thịnh soạn do Thục Oanh đãi khách, có khi kéo dài tới ngày hôm sau. Cho tới lúc "bây giờ tiền hết gạo không” thì cả hai anh em VHC và Đinh Hùng phải “hạ sơn” đòi tiền “mãi văn” từ các báo đã in bài của họ: 
“…Thường thường chia quân hai ngả. Hoàng không biết Thứ Lang đã "bán" những bài tùy bút nào, nhưng về phía Hoàng thì đã "đi đứt" vở kịch thơ "Trương Chi”, rồi đến vở “Hồng Điệp” cũng đi luôn, cả một phần tác quyền tập thơ "Mây". Kể ra văn chương lúc đó cũng còn có giá…”.
Kể chuyện giai thoại nhà văn, nhà thơ nghèo - có khi thôi - có điều khi ngẫm về họ như VHC tả lại - thì: "vật được tặng trong ngày cưới, (kiểm lại) chỉ còn thấy đôi giầy cườm của Đỗ quân tặng, rồi tấm lụa mỡ gà óng ánh của Lê Trọng Quỹ cho, đến chiếc vòng huyền của Lê Thanh. Nhìn lại, chẳng thứ gì đáng giá, khi quy ra tiền. Còn chú rể (VHC) thì lại ngắm nghía không chán mắt một tập giấy của Nguyễn Tuân tặng để viết - lại cả bút máy cũ mèm từ tay Chu Ngọc tặng; mà tất cả quy ra tiền, thật mà nói chẳng có cái gì đáng giá cả. Bởi lẽ, họ có “sẵn cái gì thì tặng cái nấy” cốt ở tấm lòng quý mến nhau là chính" - đây chẳng phải chuyện bịa, mà chính chú rể, thi sĩ VHC tự kể: 
“…Giấy của Nguyễn Tuân thì ai còn lạ gì! Đó là thứ giấy báo in tầm thường, ở chỗ nó được cắt thành khổ vuông, mỗi bề hai gang tay, nghênh ngang ra mặt. Cách mép giấy chừng một đốt ngón tay, Nguyễn cho in một cái khung là những giòng kẻ lờ mờ. Bên phía dưới khung lại có in hai chữ "Nguyễn Tuân” - thủ bút của đương sự. Tất cả đều dùng màu xanh lá mạ, rất hợp với nền vàng….”. 
"Lênh đênh" - tranh của họa sĩ Kim Lê
Trở lại với tập thơ "Mây" của VHC - đó là 1942, có ghi lại chuyện kể vui vui thế này - anh chị em văn hữu rất sốt ruột đợi thi phẩm  Mây của VHC ra đời - kể cả một số văn hữu không mấy thân thiết với tác giả đi nữa - như “cặp bài trùng song sinh Huy Cận và Xuân Diệu "Có một buổi, gã Huy Cận và Vũ Hoàng Chương rất tình cờ đụng mặt nhau ở Cổng Chéo - Hàng Lược. Chả biết ông Xuân Diệu đề tựa cho Huy Cận ra sao, tán ma tán mãnh, bi thảm - hóa "nỗi sầu biển lớn, sông dài” bạn thơ Huy Cận có nỗi khổ lớn lao ra sao, thì chỉ một “Dieu seul le sait” mà thôi! (có Trời mới biết!) - còn ngoài đời - chàng kỹ sư nông nghiệp thời Tây nhiều bổng lộc, thì làm sao Huy Cận có nỗi khổ "như biển rộng, sông dài” cho được! Huy Cận lại cười típ mắt, nổi hứng ngâm luôn hai câu thơ: 
“Đã lâu lại gặp chàng "Say"
“Lửa Thiêng" xin đốt cho “Mây" xuống trần
Cứ như ý diễn từ hai câu thơ kia, thì “Lửa thiêng/Huy Cận” đã chẳng còn giá trị gì, cứ đốt ra tro để chào mừng một thi phẩm tuyệt tác của VHC sắp chào đời vậy. 
Ngâm xong, thú quá, chàng Huy Cận lôi xềnh xệc Vũ Hoàng Chương vào một hiệu phở ở Hàng Đồng, khăng khăng đòi đãi Hoàng một chầu kỳ no mới thôi! (“Ta đã làm chi đới ta/Vũ Hoàng Chương”).
Bây giờ bàn đến “thơ xuân VHC” sau 1954, từ khi chàng “Say” lên tàu "há mồm” của Hải quân Hoa Kỳ chở kìn kìn gần 1 triệu di dân vô Nam - từ vỹ tuyến 17 trở ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - từ 17 vỹ tuyến trở vào thuộc quyền Quốc gia Việt Nam - (theo Hiệp định Genève 20-7-1954) - thì thơ xuân VHC vẫn chỉ hướng về "mùa xuân dĩ vãng” - khai bút thơ xuân hôm nay mà chỉ nhắc lại xuân qua. 
Tôi cho trích lại toàn bài “Thơ xuân qua thi ca của vài thi nhân tiền chiến” (tạp chí 'Văn hóa Á châu” (Sài Gòn 1960, bài của Thế Phong) - trong đó có bàn đến thơ xuân VHC: 
“…Tác giả “Mây” , “Say”, “Rừng Phong”, “Hoa đăng”.v.v… thơ vàng son, và kịch thơ “Vân Muội” lại “ảo huyền”, than thở cùng mây, bay theo gió: “ Em ơi! lửa tắt bình khô rượu/Đời vắng em rồi say với ai!?” hoặc giải mộng yêu đương cũng chỉ mang sầu, thêm lụy, dầu muốn vượt qua hay từ chối - thỉ chẳng còn “neo” thoát, dù quyết bỏ phương xa một dặm đường xưa, lối cũ - thì VHC vẫn” yêu một phút để mang sầu trọn kiếp/tình mười năm còn lại mấy tờ thư" mà thôi! Thi sĩ đã từng nhìn lại khởi điểm con đường đã đi, trải qua bao năm, tháng, chao ôi, vẫn chỉ là ảo mộng có muốn trở về ngôi chính vị, chỉ khi nào đã từ bỏ trần giới mà ca lên: “Ta còn để lại gì không?/Kìa nón đá lở, này sông cát bồi!". 
Đã có lúc chán ngán đến đầu đốt tay, sầu tới đầu lưỡi giai cấp mình - VHC thử bước sang địa hạt thơ đấu tranh - đi tìm một chân trời mới cho đỡ buồn nản, cũng là cách ủng hộ đường lối chính trị quốc gia. (sau này tác giả được giải thưởng thơ Tổng thống VNCH, qua tập "Hoa đăng”) - Những bài thơ viết theo kiểu "Nhớ về Hà Nội vàng son” (1945) đến “Hoa đăng” (sau 1954), nhưng dễ mấy khi từ bỏ được ngay bản chất và thất bại ngay ở đầu sóng ngọn nước. (“Xôn xao hành khúc xây đời mới/Trang khúc du dương ngọn quốc kỳ” vẫn là "làm dáng văn chương" và thật đúng: "Tóc bạc má hồng mê vận hội!” quả đã muộn màng! 
"Giải lao" - thiếu nữ Việt Nam
Con đường dò, tìm hiểu khả năng thi phú tác giả, liệu còn; hoặc đã cạn mà không hay biết?! Dẫn chứng đôi câu trong bài “Thoát hình”: 
“…Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn 
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân 
Lòng cây mấy thuở ai người biết? 
Từng khóc từng reo đã mấy lần?" 
Tuy vậy vẫn có thể đo được: 
“Lòng cây mấy thuở ai người biết"? - hoặc trong bài “Công chúa Paris”: 
“…Rồi mỗi lần thu hội ý 
Hoa đăng lại vượt Trùng Dương 
Tháp lại truyền tin báo hỷ 
Cưới nàng công chúa Tây Phương...” 
Ba năm trước, thi sĩ còn nhớ: “bảy màu mây của Tháp Ngà vấn vương”, hòa đồng biến chuyển đời riêng với cơn sóng chính trị vần vũ: đất nước chia đôi, rời “kinh đô văn nghệ”, vào miền Nam tìm Tự do: 
“…Thuyền thơ chở hứng lên cao 
Sóng xuân lại có đêm nào nguyệt hoa 
Bạc trôi từng lớp sao sa 
Bảy màu mây của Tháp Ngà vấn vương…" 
(Xuân thanh bình) 
Thi sĩ còn đủ khả năng tìm Hội để kết "Hoa đăng”? đó là câu hỏi tác giả tự đặt cho bản thân từ 3 năm trước: 
“…Thời gian có mỏi cánh chim bằng? 
Vũ trụ sang mùa tận thế chăng? 
Anh vẫn còn thơ về dâng bút 
Em có còn Hoa đủ kết Hoa đăng?” 
(Tuổi xanh ) 
Thi sĩ còn đủ sức theo một đoàn thám hiểm để mơ tới đỉnh "Himalaya-Cho-Oyu” - nhưng thi sĩ đã đạt được ước mộng của mười mấy năm xưa: mơ được viễn du theo người tình cùng về "Kinh đô Ánh sáng” - thực tế tác giả mở mắt ra vẩn chỉ thấy mình - nên đành ở lại với thực tế: 
“…Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay 
Buồn mưa, trăng lạnh, nắng hoa gầy 
Nắng mưa đã trải tình nhân thế 
Lưu lạc sầu chung một hướng say 

Gặp gỡ chừng như chuyện Liêu Trai 
Ra đi chẳng hẹn một ngày mai 
Em ơi ! lửa tắt bình khô rượu 
Đời vắng em rồi say với ai ? 

Phương Âu mờ mịt lối quê nàng 
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang 
Ghé bến vào đây người hải ngoại 
Chiều sương mặt bể có mơ màng ? 

Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không ? 
Mà đáy lòng trắng một mùa đông 
Tương tư đốt thuốc thâu canh đợi 
Thoáng gió trà mi động mấy bông ?
(Đời vắng em rồi say với ai?) 
Mộng Liêu Trai của Bồ Tùng Linh ấp mộng lớn có mục đích "cải tạo xã hội”, kết tinh từ đời sống nguyên hình để thể hiện ước vọng - còn Vũ Hoàng Chương thì "mộng Liêu Trai cá nhân chỉ thấp như ngọn cỏ”, như vậy sao? Nhưng VHC vẫn không nản lòng, nuôi mộng để có ngày toại nguyện, là gặp được giai nhân cùng dệt khúc “cố nhân kỳ ngộ”: 
“…Nàng mang vòng ngọc giai nhân 
Tà áo vòng gai thi sĩ 
Tìm nhau đã mấy trăm lần 
Mới thỏa u hoài vạn kỷ ..” 
(Công chúa Paris) 
Gọi là "đường thơ mới” của thi sĩ nổi tiếng VHC từ tiền chiến - bởi tôi nhận thấy rằng ít nhất “đường thơ có Công chúa Paris” làm khuây khỏa nhà thơ yêu mến phần nào ẩn ức của bèo giạt bến mê - ít nhất hơn một lần: 
“…Nhổ neo rồi, thuyền ai xin mặc sóng 
Xô về đông hay dạt tới phương Đoài 
Xa mặt đất, giữa vô cùng cao rộng 
Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi !” 
(Phương xa) 
Chí tang bồng ấy, đã: 
“…Đây người thơ mộng Trang Chu 
Nhẹ cánh tìm mai đỉnh tuyết 
Đưa đường lên ngọn CHO-OYU 
Đã sẵn mùi hương diễm tuyệt!” 
(Tuyết hận) 
Thế Phong
Món bánh Crêpe nổi tiếng của Pháp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét