Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Những Thiên đường mù (phần 4)

"Xuân sắc" - người đẹp Quách An An
Đó là câu chào duy nhất tứ khi mẹ con tôi đặt chân vào nhà. Nói xong, bà mợ tôi lại cúi xuống cuốn sách. Một cuốn sách rất dày, láng bóng. Nhìn kĩ, có đề chữ: V.I. Lênin tập 13. (ảnh không liên quan đến bài viết)

Tuổi thơ tôi hiển hiện lên, như trái bóng lăn qua dường. một trái bóng không địa chỉ. Những con đường lấm bụi nơi ngoại ô. Gió bấc rít ngang trời, với làn mây xám không di động. Bầu trời vẩn đục vì khói nhà máy và cát bụi cuốn theo những đoàn xe tải. Chúng chạy rầm rầm suốt đêm ngày. Con Trắng xồm lại tru lên. Nó đã già quá rồi, lông đuôi bết từng đám bẩm thỉu, xơ xác. Nó bước đi lử thử, mắt kéo màng. Nó không còn nhận ra tôi. Mỗi lần tôi cất tiếng gọi, nó đưa mũi hít hít rồi gục gặc cái đầu đã trụi hết nửa lông. Có lẽ nó vẫn còn ngửi thấy lờ mờ cái mùi của quá khứ. Nhưng nó không đủ tình thương mến để xẻ chia. Nó, người bạn thời thơ ấu, vị hiệp sĩ của tôi bao năm dài.
- Ú ú ú...
Tiếng tru của con chó bay qua ngõ. Tôi như thấy cái mũi lạnh và ướt của nó chạm vào tôi. một mùa hè nồng ấm đã tắt đi quá sớm.
- Bố ơi.
Tiếng gọi vang trong ba gian nhà, rồi lắng đi, như thứ bụi vô hình. Nước mắt tôi ứa qua hàng mi. Tôi bước khỏi căn nhà trống, không buồn khóa cửa. Mẹ đi chơi quanh quất đâu đó, chắn chắn sẽ quay về. tôi quấn chiếc khăn len kẻ ô vào cổ, ra đường. Các nhà hàng xóm đều đóng kín. Tôi đến nhà ông lão mù xem bói. Nhà vắng khách, mảnh sân đầy lá đào, lá mai rụng. những chiếc lá khô bị gió đuổi trên sân, dồn từ góc này sang góc kia, xạc xào. Ông lão đang ngồi thu lu trên giường, hai tay bó gối:
- Ai đấy? 

Tôi đáp lời. 

- Cháu ạ... 

Ông gọi. 
- Con bé Hằng nhà mẹ Quế phải không? Vào đây chơi với ông. 
Nhưng tôi chán ngắt. Tôi chẳng muốn chơi với ai. Tôi trả lời: 
- Ông ơi, cháu phải đi ra chợ một tí. 
Nói rồi, tôi chạy đi. Những chiếc lá đào khô đuổi theo tôi. Tôi chạy một mạch, chẳng biết tới đâu. Sau cùng, tôi thấy mình ngồi trước miệng cống thoát nước. Dòng nước cống chảy tong tỏng xuống hầm chứa, qua hàng răng chắn rác đã mòn trũng. Rác dồn tụ ở đó, từ chiếc bàn chải đánh răng tới mảng lược gãy, từ vỏ trứng vịt lộn, vỏ cà chua, hột gấc, bã mía tới lông gà lông vịt, nhãn dán rượu, đồng tiền lẻ rách... Cả những đám vỏ hạt bí, hạt dưa từ đám cưới nào đó hắt xuống. Cả những mảnh vải thêu kim tuyến, chắc xé ra từ tấm áo biểu diễn cũ của diễn viên, phân tươi trẻ con nổi lều bều cạnh những ống thủy tinh rỗng, vật thải của một trạm y tế. Tôi kiếm chiếc que dài, lẩn mẩn bới từng thứ kên, cố cắt nghĩa xem chúng từ đâu tới. một bàn tay cứng nhắc bóp vai tôi: 
- Hằng. 
Tôi ngẩng lên. Té ra đó là cậu Chính, đôi mày cậu nhíu lại trên sống mũi: 
- Mày nghịch bẩn thế hả? Về nhà ngay! 
Cậu túm vai tôi, kéo lên. Chân cậu vẫn gác khung xe đạp. Tôi nhìn cậu, thấy cậu rất giống mẹ tôi. Trong khi đó, cậu đã kịp đặt tôi ngồi lên tấm lưới sắt đèo hàng, và cậu chở tôi về nhà. Mẹ tôi đang ngồi sao chè. Chắc hẳn rôi vừa đi chơi, mẹ đã trở về. Trong chiếc thúng đặt cạnh bếp, có tới hai cân chè vừa sao còn nóng hổi. Thấy cậu Chính, mẹ bỏ đôi đũa, bắc chảo chè đổ ra nong: 
- Cậu vào nhà đi. 
Cậu tôi đặt chiếc xe ngay trước cửa, khóa lại cẩn thận, mới vào nhà. Chưa kịp ngồi xuống ghế, cậu đã nói: 
- Mấy hôm vừa rồi em tới tìm chị luôn. 
Mẹ tôi đáp: 
- Vâng tôi cũng nghe hàng xóm nói lại. Hằng, lấy cho mẹ gói chè sen. Bên trên chiếc xích đông ấy. 
- Khỏi cần chè cháo, em vừa uống nước bên cơ quan. Chị lấy được tiền cho em chưa? 
- Cậu hã thong thả uống nước cho ấm bụng. Tôi đã lấy đủ tiền cho cậu, rồi làm văn tự bán đoạn cho người ta. 
Mẹ tôi rót nước chè vào chén, đặt trước mặt cậu. Xong xuôi, mẹ vào buồng lấy ra một bọc tiền: 
- Phần cậu đấy. 
Cậu tôi cầm gói tiền, lật qua lật lại. Mẹ tôi biết ý, bảo: 
- Không cần phải kiểm tra lại đâu. Tôi vừa nhận tiền hôm qua, đếm đủ. Người trong họ, không ai dám làm ăn điêu bạc. 
Cậu tôi im lặng uống nước rồi bảo: 
- Em xin cho chị làm tạp vụ ở nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà. Sáng mai tới nhận việc cho sớm sủa. 
Mẹ tôi nhẩn ngơ nhìn cậu, khi hiểu ra, mẹ dãy nảy lên: 
- Thôi chết, sao cậu làm ăn đường đột thế? Cậu để cho chị ngẫm nghĩ đã. 
Cậu tôi cau mày, gắt: 
- Còn ngẫm nghĩ cái gì? Đã bảo chị rồi, đường quang không muốn đi, lại đâm quàng vào bụi rậm. 
Mẹ tôi van vỉ: 
- Muốn sống phải nghĩ chứ cậu? Ngần này tuổi tôi còn làm loong toong cho người ta sai vặt, biết bao giờ mới thành nghề thành nghiệp? Mà trước mắt, lương bổng như thế, tôi làm sao nuôi nổi cháu Hằng? 
Cậu tôi nói: 
- Chị nghe đây này. Cái nghề buôn gánh bán bưng của chị, dù bây giờ kiếm đủ ngày hai bữa cơm, nhưng mai sau sẽ bị tiêu diệt. Còn đứng vào đội ngũ giap cấp, dù làm tạp vụ chăng nữa, cũng sẽ nắm tương lai trong tay. Chị muốn đường nào? 
Mẹ tôi bối rối cúi mặt xuống, nhưng lát sau, mẹ vẫn lắc đầu nài nỉ: 
- Chị chịu thôi, cậu cho chị nghĩ đã. Không thể quyết định việc tày trời một chốc một lát được. 
Cậu tôi đứng lên, thở một cách bực dọc, rồi bảo: 
- Thôi được, tùy chị đấy. Sau này khốn khổ đừng có trách em. Em đã làm hết phận sự của mình. 
Mẹ tôi cũng đứng lên, run rẩy: 
- Chị cảm ơn cậu. Cậu đừng giận. Nhưng sự thể là... 
Cậu tôi nói: 
- Chị không nhìn được qua chóp mũi của mình. Chị không dám nhìn thẳng tới tương lai. Nếu cháu Hằng có bị thua kém con nhà người ta, ấy là lỗi tại chị. 
Mẹ tôi đứng im, vẻ mặt lo âu, khổn khổ đến nỗi tôi phải phải chạy tới: 
- Mẹ ơi i i... 
Tôi gọi mẹ, đoạn quay sang nói với cậu Chính: 
- Cậu đừng dằn vặt mẹ cháu. 
Cậu trợn mắt lên: 
- Tất cả những điều tao lo lắng là vì tương lai của mày, cuộc sống của mày nghe chưa. 
Cậu bỏ gói tiền vào chiếc cặp da, treo lên ghi đông xe đạp. Rồi cậu mở khóa xe, ra về. mẹ tôi cung cúc ra theo, định chào cậu nhưng không dám lên tiếng. Khi cậu đã đạp xe khuất hẳn nơi lối rẽ, mẹ mới quay vào. Mẹ ngồi xuống bàn, đầu rũ xuống. Tôi hỏi: 
- Mẹ ơi, làm sao thế? 
Mẹ ngẩng lên, nước mắt lưng tròng: 
- Mẹ chỉ còn một cậu Chính là người thân. Vậy mà tan nát hết... 
Tôi nói: 
- Có phải lỗi tại mẹ đâu? 
Mẹ tôi ngẩng đầu lên: 
- Lẽ ra, khi ông bà chết, mẹ phải tẩn tào nuôi cho cậu con ăn học. Nhưng mẹ không giỏi giang được bằng thiên hạ, mẹ đã không làm nổi điều ấy. 
Buổi tối, nhà buồn như có tang. Mẹ tôi nằm trên giường, mặt quay vào tường. Không nghe tiếng mẹ khóc, cũng không nghe tiếng mẹ nói. Làm sao người ta có thể lặng im lâu như thế? Tôi sắp xếp bài vở, rồi bỏ sang nhà thằng Khang sứt chơi cờ ca rô. Vài tuần sau, tôi nghe mẹ nói với cô Vị hàng xóm: 
- Cậu ấy không muốn nhìn mặt tôi nữa. Tôi không đứng trong đội ngũ của giai cấp công nhân, cũng không là nông dân lao động hợp tác. Tôi làm ảnh hưởng tới cậu ấy. 
Cô Vị hỏi: 
- Ảnh hưởng gì? 
Mẹ tôi đáp: 
- Tiến bộ. Cậu ấy bảo tôi rằng, nếu tôi cũng là một cán bộ cách mạng có 10, 15 năm tuổi Đảng như bà chị ruột của cậu bạn cùng phòng thì cậu ấy đã lên cấp năm ngoái. Cậu kia năng lực kém, nhưng nhờ có bà chị bên Hội Phụ nữ trung ương hoạt động cách mạng năm 45 nên được đề bạt phó phòng. 
Nói xong, mẹ thở não nề. Cô Vị im lặng ngẫm nghĩ một hồi rồi nói toáng lên: 
- Làm sao chị phải rầu rĩ? Ai chọn cửa mà sinh cơ chứ? Nếu chọn được cửa, thì cả chị lẫn tôi chẳng dại gì không làm con ông Hoàng bà Chúa. Có ai muốn sống kiếp dân đầu chợ mom sông, sớm sương muối rát mặt đã lo gánh hàng ra chợ, tối phố lên đèn còn đi vét hàng. 
Mẹ tôi nói khẽ: 
- Giá không có cháu Hằng, tôi cũng liều nghe lời cậu ấy đi làm loong toong trong nhà máy. Thật nghề ngỗng chẳng ra sao nhưng cũng được 2 chữ công nhân. một thân một mình ném xuống ao tôi vẫn sống, nhưng khốn nỗi, còn có con Hằng. 
Cô Vị bảo: 
- Anh trai tôi làm thợ điện trong nhà máy Yên Phụ, chị gái tôi làm thợ dệt dưới Minh Khai, chẳng ai bỏ tôi chỉ vì tôi không đứng cùng một đội ngũ. Tôi ăn ở lương thiện, không trộm cắp, không lừa gạt, không ám hại ai. 
Mẹ tôi đáp: 
- Vâng... Vẫn biết thế, nhưng mỗi nhà mỗi khác. Cậu Chính khó tính từ nhỏ. Dòng họ Đỗ nhà tôi có cậu ấy là con trai. Xưa nay, nó muốn thế nào, mọi người phải làm theo thế. 
Cô Vị ối giời lên một tiếng rồi bảo: 
- Thế thì ông em chị là ông vua con, cách mạng cái khỉ gió. Nhà tôi dân nghèo, anh em chẳng ai làm vua được với ai. Hễ người nào gặp bão, đổ nhà trốc mái thì bốn người kia góp tiền góp sức. Con ai lấy vợ lấy chồng, cả họ xúm vào sắm lễ, sắm áo quần. Tôi bánh pháo thì anh chịu buồng cau. Ngày giỗ bố giỗ mẹ cũng phân cắt ra, năm nay anh cả, sang năm chị hai, cứ thế mà làm. Việc nhà chúng tôi nhẹ tênh tênh, còn như chị ấy à, nói xin lỗi, tôi cạch mặt. Anh em máu chảy ruột mềm thật, nhưng phải có lí có tình. 
Mẹ tôi nói: 
- Nhưng tôi ít học. Cậu ấy là cán bộ nhà nước, nhìn xa trông rộng. 
Cô Vị đáp: 
- Tôi cũng ít chữ. Tôi sống như ngày xưa bố mẹ tôi vẫn sống. Có thực mới vực được đạo. Chẳng ai nhịn đói được qua năm Dậu để chờ tới năm Tuất ăn cỗ Tiên. 
Tới đó, cô bỗng bật kêu: 
- Thôi chết tôi rồi. Nồi chè kho cháy. Thể nào mà cứ thơm lừng cả lên. 
Cô chạy bổ ra sân. Quả nhiên, tôi thấy mùi thơm của đỗ xanh bén lửa. Cô Vị về chừng 10 phút, lại quay sang, trên tay có đĩa chè: 
- Chị ăn chè với cháu đi. Chè tôi kho kĩ lắm. Trong như bánh dừa mà còn om trên than. 
Trời rét, tuy còn bốc khói nhưng đĩa chè cũng đã đặc quánh, như bánh đậu xanh đổ ra. Bên trên, vừng lột vỏ rang vàng rắc kín. Mẹ tôi trầm trồ khen: 
- Cô nấu khéo quá. Tết này cô cho tôi chung nồi chè kho nhá? 
- Có nồi chè, làm gì phải chung? Tôi cho hẳn mẹ con chị 10 đĩa. Vừa ăn, vừa tiếp khách ba ngày Tết thỏa thê. 
Nói xong, cô lại con cón chạy về. Từ hôm ấy cho tới dịp Tết Nguyên Đán, cậu Chính không lại chơi nữa. 28 Tết, cô Vị mới nghỉ bán hàng, cả đêm, cô xoay xỏa đãi gạo, đãi đỗ, pha thịt, róc lá gói bánh chưng. Gói bánh xong vừa rạng sáng, đã thấy cô nấu chè kho, nồi chè to tướng, hết ba cân đỗ. Cô múc cho mẹ con tôi 10 chiếc đĩa Bát Tràng: 
- Ăn xong phải trả đĩa đấy nhớ. Hết đĩa nào mang trả ngay đĩa ấy, ba ngày Tết, tôi lười rửa. 
2 má cô đỏ hây hây, mặc dù những nếp rạn chân chim đã hằn dưới đuôi mắt. Mẹ con tôi bưng chè về nhà, thấy một người đàn bà đứng trước bàn thờ, lưng quay về phía cửa. một tấm lưng thon gầy, hơi dẹt, dưới lần áo cánh màu nâu non. 
Mẹ tôi bảo: 
- Cô Tâm. 
Rồi mẹ bước dấn lên, đánh tiếng: 
- Chị vừa lên? 
Cô Tâm quay lại. Đỡ mấy đĩa chè trên tay mẹ tôi, hỏi: 
- Bưng chè ở đâu về thế này? Cô mua hả? 
Mẹ tôi đáp: 
- Hàng xóm cho. Em lười nấu quá. 
Thấy tôi cũng lễ mễ bưng chè vào, cô lắc đầu: 
- Mẹ con mày dắt nhau đi ăn xin thiên hạ? Ngày Tết, không chịu khó nấu mà cúng lễ cho thoải mái. 
Cô có vẻ không bằng lòng. Cô ôm tôi, xoa đầu, hít ngửi mái tóc tôi. May mà chiều hôm trước mẹ tôi vừa đun nước hương nhu cho tôi gội đầu. Cô Tâm hài lòng lắm: 
- Cái răng cái tóc là gốc con người. Phải đun nước lá thơm mà gội cho mượt tóc. 
Cô dặn, chẳng hiểu dặn mẹ tôi hay dặn tôi. Rồi cô lôi 2 chiếc làn tre đặt dưới chân bàn tới gần, lần lượt mở từng làn ra. Làn nào cũng đầy ắp thức ăn. Giò lụa vài cân, chả quế vài cân, giò hoa vài cân. Thứ nào cô cũng đặt trước. Thứ nào cũng còn mướt lá, chứng tỏ vừa được vớt chiều hôm qua. Rồi chè lam tỉnh Thanh, ngũ vị tỉnh Bắc, bánh cáy Thái Bình, chè ướp nhài ướp ngâu. Rồi mứt sen, bánh quy bơ, quy xốp. Rồi bánh gai, bánh tro nhuộm gấc, bánh tro rơm vàng. Giá một người đàn ông lực điền, cũng không thể mang nặng hơn thế. Mẹ tôi đứng sững sờ, rồi bối rối: 
- Em không thể nhận được. Em cũng có, chị đừng cho quá nhiều thế này. Mẹ con em làm sao ăn hết? 
Cô Tâm, trả lời giọng lạnh tanh: 
- Tôi có cho cô đâu! Đây là phần tôi cúng em tôi và cho cháu Hằng. Ăn không hết thì đem biếu thầy giáo, cho bạn bè, quyền ở nó. 
Đến lượt tôi đứng sững. Tôi không biết nói sao. Những quyền uy quà lớn ban cho một đứa trẻ khiến nó sợ hãi. Cô tôi ôm tôi vào lòng: 
- Cô lo cho Tết từ rằm cơ đấy. Cô nghe tin con được thưởng học kỳ vừa rồi, phải không? 
- Thưa cô, vâng. 
- Tại sao không viết thư báo cho cô biết? 
- Thưa cô... con bận quá. Tháng vừa rồi trường bắt làm kế hoạch nhỏ. 
- Kế hoạch nhỏ với chả kế hoạch lớn. Cha tiên nhân nó, chỉ hành con cái nhà người ta. Dưới làng, con nhà Bùng đi kiếm dây thép gai về bán lấy tiền nộp, đạp trúng uốn ván chết. Từ rày, chớ có dại mà đi kiếm mảnh chai với giấy vụn, lỡ sứt tay, nhiễm uốn ván thì nguy. Dòng họ Trần chỉ trông cậy vào con thôi đấy. 
Nói đoạn, cô mở chiếc ghim băng gài túi áo trong. Bên trong chiếc áo cánh bằng len màu nâu non. Cô mặc chiếc áo vải trắng, có bôđêâ gấu và cổ tay: 
- Tiền đây. Họ muốn bao nhiêu con cũng nộp. Chớ có dại dột mà theo lũ bạn đi ra bãi rác nhặt nhạnh đồ thừa. 
Cô đưa cho tôi một cuộn tiền mới. Toàn giấy bạc lớn, thứ bạc không bao giờ trẻ con được phép tiêu. Tôi rùng mình, đấy là đồng tiền của một người đàn bà không bao giờ có tuổi xuân. Người đàn bà đã ăn khoai sọ trừ cơm suốt vụ lúa, đêm ngủ ngoài trời với con dao mài sắc gối dưới đầu, kiếm từng xu một để thách đố đời sống. 
- Cầm lấy. 
Cô ấn cuộn giấy bạc vào tay tôi. Tôi ôm cổ cô, run run: 
- Con còn nhỏ, con không muốn tiiêu tiền. Cô cất đi. 
Cô tôi quát: 
- Không. Cô bảo con cầm, con phải cầm lấy, không được cãi. Mạng con quý nghìn vàng, tiền bạc kể vào đâu? 
- Còn cô đây, còn 2 bàn tay này. 
Cô chìa đôi tay khô xác của cô ra trước mặt tôi, giọng rắn như chém đá: 
- Còn đôi tay này, còn tiền còn bạc. Đừng lo. Cô biết cách tính. Chỉ một vụ cà chua, cô thu hoạch gấp ba lần vụ lúa tốt nhà khác. Chỉ một vụ hồng xiêm, một vụ cam, cô đủ xắm cho con dây chuyền vàng. Con biết không, cô đặt người ta làm sẵn rồi, mặt hình trái tim nặng chỉ rưỡi, dây cũng chỉ rưỡi, cô cất ở nhà. Bao giờ 16 tuổi, con sẽ đeo. 
Nói xong những lời ấy, mắt cô sáng lên. Dường như trong cái viễn cảnh huy hoàng cô vẽ ra cho tôi, cô đã đứng vượt lên mọi đau khổ và thua thiệt, cô đã thấy được hình ảnh của chính cô trên đài chiến thắng. Tôi không nói được nữa, tôi quay đi. Cổ nghẹn lại, tôi bước ra cửa. Trong khi đó, cô tôi nhét cuộn giấy bạc vào tủ. Rồi cô gọi mẹ tôi ở dưới bếp lên, xăng xái lau bàn thờ, giũ tấm lụa đỏ phủ trên tấm ảnh của ông bà ngoại. Cô đem sẵn theo tấm ảnh của bố tôi lồng trong khung kính. Tấm ảnh ấy cắt ra từ một tấm ảnh chụp đại gia đình trước ngày bố tôi lên tỉnh học. 
Hình người trong khung kính là một niên thiếu dịu dàng, với những nét gần giống như cô Tâm, nhưng mờ ảo, vì hình phóng lớn, nên thấy rõ những vết rạn ngoằn ngoèo. Cô tôi đặt tấm ảnh của đứa em trai lên bàn thờ, bảo mẹ tôi lấy một chiếc bát mẫu chưa dùng làm bát cắm nhang. Cô xếp các thứ bánh trái, chè thuốc, các cây giò lớn nhỏ. Cô sai mẹ tôi ra chợ: 
- Mua thêm bó hoa đơn trắng và hoa chân chim tím. Hồi còn ở nhà, chú Tốn thích nhất 2 màu hoa ấy. 
Sau khi bày biện bàn thờ hoàn tất, cô tôi lùi ra ngắm nghía, vẻ mãn nguyện. Từ hồi lớn lên, tôi chưa từng thấy bàn thờ nhà ai sang trọng như bàn thờ của bố tôi năm ấy. Đèn nến sáng choang, trông lóa mắt. Tiếng pháo đì đùng vọng đến. Trong không gian, lan truyền những làn sóng vô hình, như ảo giác, đan xen những giấc mơ đã héo tàn và những giấc mơ chưa tới. Đám người đi qua cửa nhà tôi, đều vác cành đào hoặc chậu quất, hí hửng một cách tức cười. Tôi đứng tựa cửa, quay quay sợi pháo sáng trong tay. Cuộn tiền cô tôi cho có thể mua cả một nhà pháo. Nhưng tôi không còn háo hức. Ném sợi dây pháo xuống rãnh, tôi bỏ chạy ra phố. Chạy mãi, tôi tìm được một quán cắt tóc vô chủ. Ông thợ cắt tóc đã bỏ về quê ăn Tết. Ông ta là loại người không có hộ khẩu thường trú ở thành phố này. Cái ghế gỗ xấu xí, sứt sẹo nằm giữa căn lều. Trên nền gạch, rải rác những món tóc rơi. Phía trước, cánh cửa bằng gỗ thùng ghép nửa mở nửa đóng ơ hờ. Tôi chui vào quán, ngồi lên ghế. Qua khuôn cửa, tôi ngắm người qua đường. Tôi không muốn ở nhà lúc đó. Tôi không muốn cô tôi và mẹ tôi tưng bừng chuẩn bị cho cuộc lễ tất niên: Nến đỏ và nến trắng, nhang que và nhang vòng, hoa và hoa, những thứ của ngon vật lạ, những lời khấn tụng rì rầm. Tất cả tạo dựng nên một thiên đường muộn mằn, phung phí... Mùa xuân qua rất nhanh. Rồi mùa hè. Cậu Chính tôi không đến nữa. Mẹ tôi không còn buồn khổ như hồi đầu tiên, khi bị cậu hắt hủi. Tôi học khá, mỗi tháng một lần tôi viết thư cho cô Tâm báo cáo việc học hành. Từ nay, tôi là con người khác, tôi có guồng máy khác thống trị. Đó là vinh quang của dòng họ Trần, của ông tôi, của bố tôi. Và tất cả được giao lãnh cho cô Tâm. Thư tôi gửi cho cô chỉ vài dòng. Thư cô trả lời đặc bốn trang giấy. Phần đối thoại với cuộc đời bị ngắt quãng cô dồn cả về cho tôi. Cô kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện: Nào là đêm rằm tháng trước cô tới chùa Pheo, nghe sư ông tụng kinh cả đêm, về nhà nhẹ lâng lâng như được uống thuốc cải lão hoàn đồng. Nào là trong vườn cam, còn sót lại một gốc ổi, sát bờ dậu. Vừa rồi gốc ổi ấy bỗng bị mối đùn to như đống rơm, khiến người làng xôn xao bàn tán. Cô đã đi xem bói và ông thày mù bảo đó là điềm báo trước họ Trần sắp phát quí, phát phú. Ngôi sao ứng nghiệm lại là Thái âm nên người thành đạt là phụ nữ. Nào mùa cam năm nay, cô bán được 6000 quả, còn lại dăm trăm quả cô vùi cát nhờ người chuyển dần lên Hà Nội cho tôi ăn... Thư nào cũng có lời dặn dò, khích lệ. 
Các Tân Khoa ra chợ Nam Định cho người dân xem mặt - ảnh Việt Nam xưa
Mùa thu năm ấy mẹ tôi chữa lại bức tường phía sau bếp. Tôi bảo mẹ tôi bán đôi hoa tai cô Tâm cho tôi để lợp lại mái nhà, ném tấm tôn và lớp giấy dầu đi. Mẹ tôi không chịu: 
- Vốn cô Tâm cho riêng con, không đụng tới được. 
Tôi nói: 
- Nhưng con muốn thế. 
Mẹ bảo: 
- Của cô, con không thể tùy tiện dùng. 
Tôi cãi: 
- Nhưng cô đã cho con. 
Mẹ lại bảo: 
- Cho là một chuyện. Cho con để con đeo. Bán đi là chuyện khác. 
Tôi cáu: 
- Nhưng con còn nhỏ, con không muốn đeo vàng trong khi ở mái nhà dột nát thế này. 
Mẹ tôi thở dài, hồi lâu mẹ hạ giọng: 
- Bây giờ bố con mất, mẹ nuôi con, không lo sửa được mái nhà mẹ xấu hổ với cô Tâm, với bà con họ mạc. Thôi, mẹ xin con. Hãy chờ mẹ ít lâu. 
Từ ngày cô Tâm xuất hiện, mẹ không còn gọi tôi là em, cũng không nựng nịu tôi nhiều như cũ. Mẹ xa hơn, e ngại, và dè chừng. Chúng tôi vẫn sống dưới mái nhà cũ. Mái nhà mà xưa kia, dưới bòng mát của nó, bố mẹ tôi đã thương yêu nhau và sinh nở ra tôi. một cuộc ái ân không ở trong cũng không ở ngoài pháp luât. Và tôi, đứa bé không được thừa nhận, đã lớn lên như loài cỏ không tên vẫn mọc đầy các chân tường. Mẹ không chịu bán đôi hoa tai của tôi lấy tiền chữa mái nhà. Những ngày nắng, mùi nhựa chảy trên các tấm giấy dầu bốc lên hôi khét, như mùi hỏa ngục. Ngày mưa, nhất là những ngày mưa thu, tiếng mưa gõ trên mái tôn buồn kinh hoàng. Một mái nhà chia đôi: nửa xám, nửa đen giống hai mảnh vá cùng gá trên một vạt áo cũ. Hình ảnh ấy không bao giờ rời tâm trí tôi. 
Cuối đông, giữa phố bỗng mọc lên một quán bia nhỏ. Những tay anh chị vô nghề nghiệp tụ lại ở đó, ngươi chạy bia từ các cửa hàng quốc doanh đem về, người bưng mẹt đồ nhắm, thông thường là lạc rang, lạc luộc, vó bò, nộm đu đủ tới bán. Sau này quán bia phình ra mãi, thu nạp thêm những khách nhậu lắm tiền. Chủ yếu là cánh lái xe ngoại tỉnh và đám dân buôn xe đạp, xe máy. Người bán đồ nhắm tăng lên và cấp độ thức nhắm cũng tăng lên theo. Ngoài những mẹt hàng nôm và lạc, còn có các gánh thịt chó, các lò than quạt lạp sường, mực nướng, khô cá thiều nướng và thịt bò khô dầm tương ớt. Mùi thơm ngạt ngào bay khắp phố. Lũ bợm nhậu lúc say sưa, bất cứ góc tường nào cũng loạng quạng xô tới rót nước tiểu. Những dòng nước tiểu khô thành vệt dưới chân tường. Mùi khai lưu cữu vào những ngày trở trời xông lên nhức óc. Ngõ phố trở nên đông đúc, nhộn nhạo. Chợ gần kế đó cũng sầm uất lây. Mẹ tôi và các bạn hàng khấm khá lên trông thấy. Mẹ thu góp nhặt tiền, tính toán. Mẹ mua sẵn hai tạ sắt và vài nghìn gạch máy dự định Tết xong sẽ nâng cao thêm tường và đổ mái bằng. Chỉ còn lo xi măng và công thợ. 
- Cứ chờ cho mẹ qua Tết. 
Mẹ bảo tôi, hớn hở. Dáng điệu tự tin hẳn lên. Có lẽ, trước sức mạnh kinh tế của cô Tâm, mẹ mặc cảm. Mẹ nghĩ rằng sự lo toan về phương diện vật chất của người chị chồng sẽ làm cho giá trị của mẹ giảm đi. Đôi khi, những suy nghĩ của người lớn thật phiến diện và nông cạn. Tôi nói với mẹ: 
- Mẹ không cần lo nhiều quá. 
Mẹ đáp: 
- Qua Tết, mẹ con mình sẽ có mái nhà mới. Khỏi lo dột, lo nóng. Không cần đến hoa tai của cô Tâm. 
Mắt mẹ sáng lên đắc thắng. Nhưng mẹ không gặp may. một chiều, đi học về tôi thấy mẹ đang xếp hàng vào góc nhà. Tôi hỏi: 
- Sao mẹ về sớm thế? 
Mẹ bảo: 
- Có việc. Con rửa mặt mũi, thay áo quần rồi đi với mẹ thăm cậu Chính. Cậu ốm nặng, khó bề qua khỏi. Mau lên. 
Nói xong, mẹ chạy vào buồng thay quần áo. Tôi chưa thấy mẹ vội vã như thế bao giờ. Tôi cất cặp, thay áo quần ngay. Hai mẹ con tôi ra đầu phố, gọi xích lô. Từ đó tới bệnh viện hết nửa giờ. Đang lúc tan tầm, đường đông nghẹt xe pháo. Ởû bệnh viện cũng tấp nập người ra vào, người mang cơm, người tới thăm nom, người ôm từng chồng quần áo đi giặt. Gác cổng bệnh viện là một ông lão ngoại ngũ tuần, béo phì, mặt như người mắc chứng thần kinh hoang tưởng. Giá cứ đi thì lại xong. Mẹ tôi thận trọng đến trước cửa phòng trực, xưng danh, sau đó mới xin phép vào thăm người ốm. 
Ông gác cổng nhìn chúng tôi bằng một con mắt, con mắt kia ông ngó xuống địa ngục hoặc nhìn lên thiên đường. Ông hỏi những câu ngô nghê nhưng đầy vẻ quan trọng. Rút cục ông phát một cái lệnh rất quí tộc: 
- Chờ đã, tôi giải quyết sau. 
Một mệnh lệnh có thể gặp nhan nhản trong suốt thời buổi này. Tôi kéo áo mẹ, lùi ra cổng. Chừng hai phút sau. ông ta đã cúi xuống đọc báo. Tôi bảo mẹ: 
- Đừng hỏi, cứ đi thẳng mẹ nhé. 
Mẹ ngần ngừ: 
- Thôi, nhỡ người ta biết. 
Tôi gắt: 
- Mẹ hay nhỉ, mình có ăn trộm cắp gì mà lo. 
Tôi kéo tay mẹ đi. Chúng tôi đã vượt qua cổng chính vào sân viện một cách bình yên. Từ đó, chúng tôi phải lần mò qua bốn tòa nhà cao tầng, hỏi hết người này qua người khác mới tới được căn phòng cậu nằm điều trị. Ông già nằm cùng phòng với cậu bảo: 
- Anh ấy vừa xuất viện chiều hôm qua. hai mẹ con chị đến muộn rồi. 
Mẹ tôi đứng bần thần, mãi mới cất được tiếng hỏi: 
- Thưa bác, có đúng người bệnh là Đỗ Quốc Chính không? 
Ông già đáp: 
- Phải, ngày nào y tá chẳng gọi tên từng người đi tiêm. 
Mẹ tôi nói: 
- Nhưng cháu nghe bảo cậu ấy bệnh nặng, khó bề qua khỏi. 
Ông già cười: 
- Ngất đi như thế người ta dễ sợ về chầu Diêm Vương. Nhưng anh Chính chỉ ngất vì hạ đường huyết. Cái bệnh chung của lũ cán bộ chúng tôi: đói, thiếu dinh dưỡng... Vào đây được tiếp có một phần tư lít nmáu lại tươi ngoay ngoảy. 
Mẹ tôi nhìn nụ cười của ông, bán tín bán nghi. Ông già thấy thế, lắc đầu: 
- Ô hay, chẳng lẽ tôi nói dối chị hay sao? Cứ về nhà anh ta ngay bây giờ, khắc biết. 
- Mẹ con cháu xin đa tạ bác. 
Chúng tôi ra viện, qua ông già gác cổng. Ông ta đã bỏ tờ báo xuống bàn, nhìn chúng tôi như nhìn vào đám sương mù. Cửa viện chen chân cũng không được. Hàng quà bánh ngồi la liệt không thứ tự. Khó nhọc, chúng tôi mới lách ra được ra. Mẹ tôi lần túi áo rất lâu, móc một tấm giấy lịch, trong đó ghi địa chỉ cậu Chính. Tờ lịch cũ, nhàu nát, đọc mãi mới ra mặt chữ. 
- Xích lô. 
Một chiếc xích lô cọc cạch lao tới từ dãy xe chờ sẵn. Người đạp là một thanh niên vạm vỡ. Tóc húi móng lừa: 
- Đi đâu bà chị? 
- Chú cho hai mẹ tôi con tôi về tập thể K. 
- Hai sọi nhé? 
- Vâng. 
- A ha, bà chị này nhẹ vía đấy. Nào, lên đi. 
Anh chàng xích lô hăng máu thí mạng. May mà đường đã vắng. Hồ Thuyền Quang như mảnh gương xanh thẫm thấp thoáng qua rặng cây. Một người đàn bà béo múp míp, mặc áo lụa mỡ gà phóng xe máy vọt lên, vừa phóng xe vừa cười tít mắt. Phía sau, cũng có một phụ nữ đã qua tuổi ngũ tuần, cưỡi Honda đuổi theo. Anh chàng xích lô phởn chí, hét lên:
- Ếp ếp ếp... 
Xe đi hết non một giờ đồng hồ mới tới nơi. Mẹ tôi trả tiền, cảm ơn anh chàng đạp xích lô. Anh ta trợn mắt nhìn hồi lâu rồi bảo: 
- Bà chị ngày tử tế nhỉ! 
Nói đoạn anh giơ tay vẫy, miệng huýt sáo rồi đạp xe đi. Chúng tôi đi qua một phòng trực ghép bằng gỗ, kiểu như những trạm chỉ đường của công an trong thành phố, nhưng không sơn xanh hoặc sơn trắng mà sơn màu cánh dán. Nhìn gần, thật khó coi. Ngồi trong phòng trực là một ông già hói, gầy tong teo, vừa ho khù khụ vừa liếc nhìn khách qua đôi tròng kính lão: 
- Đỗ Quốc Chính? Có đấy. Tôi vừa thấy anh ta dắt đứa con lớn đi qua đây buổi chiều. Chị có giấy tờ gì không? 
- Dạ, cháu có chứng minh thư nhân dân. 
Ông già ngần ngừ vài giây rồi hất tay: 
- Thôi khỏi cần. Cho mẹ con chị đi. 
Con đường trải nhựa bề ngang chỉ độ ngót nghét ba thước, nhưng khá dài. Hai bên đường, những thùng gỗ lớn bằng gian nhà xếp thành dãy. Thùng nào cũng vẽ dấu hiệu chống va đập, dễ vỡ. Hoặc chiếc ô hoặc chiếc ly thủy tinh. Nhìn nhãn in bằng mực trên lớp gỗ thông, có thể biết đó là những côngtennơ chở hàng viện trợ thời chống Mỹ. Những nét chữ đã phai màu. Lớp gỗ cũng đã ải. Mẹ con tôi đi hết đường, rẽ sang trái. Nơi đây, có những khu nhà một tầng kiểu như những dãy trường học cấp một xếp song song. Nhà nọ giống nhà kia như hai giọt nước, cùng một kiểu kiến trúc, cùng màu vôi tường vàng nhạt, cửa sổ và cửa ra vào sơn màu cánh dán, trông thô lậu, gớm ghiếc. Nhà nhà đã lên đèn. Người ta đang ăn cơm. Đi ngoài đường có thể nhìn rõ mồn một. 
"Co duỗi" - Hot girl Hoa ngữ
Mẹ tôi lại móc túi tìm tấm lịch. Lần này, mẹ ghé hẳng vào ánh đèn, đọc lẩm nhẩm: số 56 nhà G. Chúng tôi ngước nhìn đầu hồi của từng căn: A, B, C, D... G là dãy cuối cùng, sát vào bức tường phần cắt khu tập thể K với một cơ quan khác. Có lẽ đấy là một nhà máy in vì nghe rõ tiếng máy in chạy rùng rùng bên kia tường. Gia đình cậu Chính đang ăn cơm. Cả nhà ngồi trên phản. Cậu tôi, một người đàn bà mặt rỗ hoa tóc kẹp và hai đứa con trai, đứa lớn chừng lên bẩy, đứa nhỏ trạc lên ba. Cả hai đứa gầy như hai con nhái. Cậu tôi, so với hồi đầu đã sút đi non nửa. Hai hô xương quai xanh nhô lên. Cái mũi dọc dừa giống mũi mẹ tôi teo hết thịt, trơ xương sống lá mía. Cậu mặc quần ngủ với cái áo bông phai màu. 
- Cậu Chính. 
Mẹ tôi gọi tên đứa em trai, ngay từ lúc đứng ngoài hè. Cả bốn người đều quay ra, nhưng quáng đèn nên họ không thể nhìn rõ mặt chúng tôi. 
- Cậu Chính. 
Mẹ tôi cất tiếng gọi lần thứ hai, vẫn giọng bồi hồi. Không chờ câu trả lời, mẹ dắt tôi vào nhà: 
- Tôi nghe cậu ống nặng. Vào viện tìm quanh quất mãi, người ta bảo cậu đã xuất viện chiều hôm qua. 
Cậu tôi đứng lên, bảo người đàn bà mặt rỗ hoa: 
- Thành này, đây là chị Quế. 
Rồi quay sang mẹ con chúng tôi cậu giới thiệu: 
- Nhà em, cán bộ trường Đoàn. 
Bà mợ tôi, nghe chồng nói thì à lên một tiếng, rồi gật đầu. Mẹ tôi chưa kịp chào lại mợ ta đã quay đũa gõ lên đầu đứa con trai: 
- Ăn đi, trong bữa cơm không được há mồm ra. 
Tôi thấy mẹ tôi có vẻ ngượng ngùng, tay chân mẹ thu cất, đôi vai cũng như co lại trước cái nhìn có tính chất quan sát nghiêm ngặt của người em dâu. Có lẽ mợ ta đã quen quan sát các học viện trường Đoàn như thế. Cái nhìn sắc lạnh lướt từ tấm khăn nhung choàng cổ, tới tấm áo len dài tay màu be thẫm đính hàng khuy mạ vàng trang nhã, từ chiếc làn nhựa mẹ tôi xách trong tay tới chiếc quần sa tanh ngoại mẹ tôi đang mặc có viền bôđê gấu. Nó bộc lộ cuộc sống của lớp dân sống ngoài biên chế nhà nước, nó cũng định vị luôn giá trị của họ trong xã hội. 
Cậu tôi rót nước sôi vào ấm, rồi từ ấm rót ra một thứ nước trắng phếch, có lẽ bã chè đã được pha đi pha lại từ chiều hôm qua. 
- Chị và cháu uống nước đi. 
Mẹ tôi khẽ đáp: 
- Vâng. Cậu cứ ra ăn cơm cho xong bữa. 
Rồi mẹ đưa mắt trìu mến nhìn hai đứa bé trai giống hai con nhái bén kia: 
- Hai cháu đấy phải không? 
Cậu tôi gật đầu: 
- Vâng, thằng Tuấn, thằng Tú. Chào bác đi con. 
Lúc ấy hai đứa mới đồng thanh: 
- Chào bác. 
Mẹ tôi, từ nãy lúng túng như gà mắc tóc, liền bán víu tiếng chào của hai đứa bé: 
- Ối giời, cháu tôi ngoan quá. Cháu Tuấn học lớp mấy rồi? 
Thắng bé lại giương mắt chầu chẫu ra nhìn. Cậu tôi bảo: 
- Trả lời bác đi. 
Nó liền đáp: 
- Cháu học lớp hai. 
Nói xong, nó cúi xuống chọc đũa vào đĩa nhộng rang hành. Chợt thằng em kêu ré lên, Nhanh như cắt, mẹ nó trở đũa gò lên đầu con: 
- Tuấn, làm cái gì thế hả? 
Hóa ra thằng bé gắp nhầm phần thức ăn của đứa em, không biết cố tình hay vô ý. Bị đánh, nó giơ tay xoa đầu, không dám kêu. Mẹ tôi cúi mặt xuống. Đĩa nhộng, lúc ấy tôi mới để ý, gạt làm ba phần, mỗi phần chừng 15, 16 con. Ngoài đĩa nhộng, có một đĩa rau muống luộc và một chiếc chén nhỏ, loại chén dùng đựng nước mắm hay múc chè, đụng thịt nạc băm. Chắc chắn, đó là phần bồi dưỡng cho cậu Chính. Cậu tôi đã ăn xong bát cơm, trở lại bàn uống nước. Mợ Thành cũng đã ăn xong, bưng cốc nước sôi để nguội uống một lèo rồi ra ngồi xuống ghế làm việc. Một cái ghế tựa cao, đặt trước bàn viết có cây đèn chân ốc. Cậu tôi bảo: 
- Nhà em phải soạn bài để mai lên lớp. Cô ấy là cán bộ cứng của trường. Gia đình đều là công nhân, 11 tuổi Đảng. 
- Vâng. 
Mẹ tôi đáp, vẫn không ngẩng mặt lên. Trước những lời giới thiệu đầy kiêu hãnh của cậu tôi, bà cảm thấy tủi nhục. Một người chị ruột, nhưng chẳng có một giá trị nào mang lại niềm an ủi cho đứa em. Cậu tôi vừa xỉa răng vừa nói: 
- Em vẫn còn được nghỉ. Nhưng không có gì nguy hiểm. Chị không cần lo. Cơ quan em, toàn gia đình cán bộ, ra vào khó khăn. 
Mẹ tôi nuốt nước bọt. Nhưng ngập ngừng một lát, lại ngẩng lên: 
- Nhưng... tôi nghe nói cậu yếu lắm, suy dinh dưỡng. 
Cậu tôi bảo: 
- Chị nghe người ta nói nhảm. Vừa qua, em làm việc căng thẳng quá. 
Giọng cậu lạnh tanh. Mẹ tôi không nói thêm được lời nào, cầm nón, xách làn đứng lên: 
- Thôi, thế chị về. 
Cậu tôi gật đầu: 
- Chị bảo cháu về đi. 
Rồi quay vào nhà, cậu gọi: 
- Thành ơi, chị Quế về. 
Vợ cậu ngẩng lên: 
- Chào chị. 
Đó là câu chào duy nhất tứ khi mẹ con tôi đặt chân vào nhà. Nói xong, bà mợ tôi lại cúi xuống cuốn sách. Một cuốn sách rất dày, láng bóng. Nhìn kĩ, có đề chữ: V.I. Lênin tập 13. Cậu tôi lại bảo: 
- Chào bác đi các con. 
Hai đứa con trai cậu vươn hai cái cổ cò ra, đồng thanh: 
- Chào bác. 
Mẹ con tôi ra về. Cậu Chính đưa tiễn hết dãy nhà G. Khi chúng tôi rời khu nhà tập thể, rẽ vào con dường nhỏ hai bên chất san sát những dãy côngtennơ, mẹ tôi thút thít khóc. Đầu mẹ cúi gằm xuống, đôi vai mỏng nhô lên. Dáng điệu của một kẻ phạm lỗi. Tôi bảo: 
- Đừng bao giờ đến đây nữa mẹ ạ. 
Mẹ tôi rút khăn lau mặt, hỉ mũi sụt soạt rồi nói: 
- Tình ruột thịt. Không bỏ được con ạ. 
Tôi nói: 
- Lần sau mẹ đến, con không đến nữa đâu. 
Mẹ im lặng, đôi vai rung lên. Từ lúc ấy cho tới khi ra đường, mẹ tôi không nói thêm lời nào. Tôi cầm chiếc nón cho mẹ rồi gọi xích lô. Chúng tôi trở về khu ngoại ô lấm bụi. Những đĩa nhạc cải lương não nề vọng oang oang ngoài phố, giọng ca này lấn át giọng cakia. một hàng phở rong bắt đầu gõ dịp: 
- Xịt tắc... xịt tắc... 
Mùi nước dùng có hoa hồi và gừng nướng thơm ngậy bay theo gió. Tôi nắm áo mẹ: 
- Con đói quá, mẹ ơi! 
Mắt mẹ tôi như mờ đi. Mẹ bảo: 
- Ờ, thế mà mẹ quên mất. Từ trưa đến giờ hai mẹ con chẳng ăn gì. 
Chúng tôi ngồi ăn phở gánh ngay lối rẽ. Ăn xong, mẹ tôi bỗng kêu khó chịu: 
- Đi mau lên, mau lên con... 
Mẹ bảo tôi rồi dấn bước như ma đuổi. Tôi vừa đi vừa chạy mới kịp. Vừa về tới nhà, mẹ tôi chạy nhào ra bể nước. Ngồi thụp xuống miệng cống, mẹ nôn thốc nôn tháo: 
- Hằng ơi, gọi cô Vị cho mẹ đi con. 
Tôi chạy sang nhà cô Vị, đấm cửa thùm thùm: 
- Cô Vị ơi, cô Vị, mẹ cháu làm sao ấy. 
Người đàn bà láng giềng đang ngồi cắn hạt dưa, ném ngay nắm hạt dưa trong tay xuống giường rồi chạy sang nhà tôi. Theo sau cô, lốc nhốc cả bốn đứa con lớn bé. Chú Vị làm ca ba, phải tảng sáng mới về. Cô Vị bế thốc mẹ tôi vào nhà, đánh gió, dùng ngải cứu khô đốt các huyệt. Cô lại xoa dầu trùm khắp đầu, lay giật chân tóc. Mẹ tôi tỉnh, mở mắt nhìn cô: 
- Tôi cảm lạnh, phải không? 
Cô Vị đáp: 
- Cả lạnh, cả đói, cả lao tâm. Chị cảm nhập tâm, phải kiêng lâu đấy. 
Mẹ tôi nắm tay người đàn bà láng giềng, nước mắt chảy quanh: 
- Tôi thương con Hằng quá, cô ạ. 
Lúc ấy tôi đứng sau lưng cô Vị. Vì tôi khuất lấp trong bóng tối, cùng lũ con lốc nhốc của cô Vị nên mẹ không nhìn thấy tôi. Nhưng tôi thấy gương mặt mẹ, vòng nước mắt ứa long lanh, và một nỗi buồn tiên cảm, một trắc ẩn mơ hồ trong tia nhìn lúc đó. Tôi bỏ ra cửa. Tôi không muốn thấy người khác xót thương tôi. Tôi ngồi thụp xuống, trong bóng tối của lùm cây đăng tiêu bên dàn hoa nhà cô Vị trùm sang. Mấy năm nay, người trong ngõ thi nhau trồng thứ hoa này. Đó là một loài dây leo có vẻ đẹp cuồng dại. màu lá xanh quá thể xanh. Với những chùm hoa chi chít màu nghệ thắm, màu của máu, của lửa, của ráng chiều, của mặt trời giữa ngọ cùng lúc hòa trộn nhau. Tôi ngồi đó, nghe tiếng trò chuyện trong nhà vọng ra. Mùi dầu tràm, mùi ngải cứu cháy vẫn tỏa trong không gian, thơm ngai ngái. Bỗng dưng, một con vật lừ lừ đi tới. Một con chó lạc chăng, hay con mèo của chú Tín bỏ đi hoang ba bốn tháng lại quay về? Nó vẫn lử thử bước tới. Qua cây cột đèn, tôi nhận ra đó là con Trắng xồm. 
- Trắng xồm... Trắng xồm... 
Tôi gọi thì thầm, Giọng tôi trở nên lạc điệu, xa lạ như giọng của một người nào khác. 
- Trắng xồm, lại đây... 
Con chó khẽ đụng đậy cái tai xơ xác, chảy thõng một bên đầu. Có lẽ nó không nhận ra tiếng gọi của tôi. Nó lượn lờ thêm nửa vòng nữa. Lúc tôi tưởng nó đến gần, nó lại đi, quay trở lại đường cũ. Con Trắng xồm đi qua cây cột đèn, cái bóng nhù hòa như một mảnh vải rách ai kéo lê trên hè phố. Đúng lúc ấy, anh con trai què của bà Miều lại gào lên. Anh ta ngồi suốt ngày trên ghế vải bố, có lúc anh ta đòi lấy vợ, có lúc anh ta đòi nhảy xuống giếng tự vẫn, có lúc anh ta đòi đi học nghề. Nhưng rút cục, anh ta chỉ biết đọc biết viết và không làm cái nghề nào khác hơn là ngồi trên ghế, đọc đi dọc lại vài cuốn truyện trinh thám, tán tỉnh chòng ghẹo bọn trẻ con, bị bọn trai trẻ chòng ghẹo lại, nghe đủ loại chuyện tục tĩu, mơ tưởng tới cuộc sống trên thiên đường, và thỉnh thoảng lại gào lên: 
Mùa thu sang lá vàng rơi đầy 
Hàng bạch dương buồn im xác xơ ven đồi... 
Giọng hát sai lạc rót vào nỗi sầu phố xá. Hòa với tiếng rao hàng: 
- Bánh nóng đây. Bánh nóng óng óng đây ây ây... 
Tiếng hai cây tre gõ nhịp của gánh phở rong: 
- Xịt tắc... xịt tắc... tắc xịt tắc... 
Cô Vị kéo lũ con ra về. Giơ tay xoa đầu tôi, cô bảo: 
- Mẹ mày đỡ rồi đấy. Vào ngủ đi. 
Tôi đóng cửa, trèo lên giường. Mẹ tôi đã ngũ. Nhưng tôi vẫn như thấy đôi mắt long lanh của mẹ, mỗi tia nhìn ánh lên một nỗi buồn tiên cảm. Có lẽ, ý nghĩ cuối cùng của con người trước khi bước vào giấc ngủ thường có được linh cảm tính nhạy, như tia sáng cuối cùng lóe lên trước khi tắt mặt trời. Sáng hôm sau, mẹ tôi vẫn sốt. Nhưng khi tôi mua cháo ép mẹ ăn, mẹ lại nắm tay tôi: 
- Được rồi, mẹ sẽ ăn. Nhưng con phải hứa một điều. 
Tôi gật đầu: 
- Mẹ ăn cho khỏi ốm. Điều gì con cũng hứa. 
Đôi mắt của mẹ lóe lên: 
- Con thương mẹ chứ? 
Tôi đáp: 
- Sao con không thương mẹ? Mẹ ăn cho nóng. Cô Vị bỏ nửa bát lá xương sông với lá hành. 
Mẹ tôi nhìn vào mắt tôi: 
- Mẹ sẽ ăn. Mẹ sẽ khỏi ngay thôi. Nhưng con hãy đến nhà cậu Chính. 
Tôi im lặng. Chắc lúc ấy tôi cau mày hoặc nhăn trán, nên mẹ tôi hối hả nói thêm: 
- Dù sao mẹ cũng chỉ có cậu là người ruột thịt duy nhất trên đời. Cậu ấy thiếu ăn, cậu ấy khổ quá. Hai đứa em của con nữa. Trông chúng giống như hai cái giải khoai. 
Tôi nghĩ: 
- Sao mẹ không nói thẳng ra: Hai đứa cháu ruột của mẹ. Hai giọt máu mang dòng họ Đỗ... 
Cuối cùng, mẹ cũng giống cô Tâm. Hai người đàn bà ruột thịt của tôi. Nhưng tôi đã không nói điều tôi nghĩ. Cuộc sống lẻ loi đã dạy tôi khôn sớm hơn các đứa trẻ bình thường. Tôi ôn tồn nói với mẹ: 
- Được rồi, Mẹ ăn đi đã. 
Bưng bát cháo, tôi kề sát môi mẹ. Nhưng mẹ giữa tay tôi lại, và nhìn tôi, như người ta cầu khẩn một lời nguyền trước khi nhảy vào lửa: 
- Con thương mẹ nhé. Con hứa đi. 
Tôi gật đầu: 
- Vâng, con hứa. 
Mẹ tôi hớn hở. Mẹ ăn hết bát cháo, uống thuốc cảm rồi sau đó,bảo tôi đem cho mẹ chiếc làn. Rút chiếc túi lụa đen đựng tiền, mẹ lấy ra một xấp bạc, đếm và bảo tôi: 
- Con mua hai cân giò, hai cân chả quế, hai cân thịt nạc đem cho cậu. Thịt nạc mợ ấy làm ruốc, còn giò chả cho cậu và các em ăn. Nói với cậu mợ rằng mẹ cháu gửi thức ăn tới cho hai em Tuấn và Tú. 
Tôi cầm tiền, đáp”: 
- Vâng. 
Mẹ dặn: 
- Giò chả mua ở phố Hàng Bông. Còn thịt thăn lấy của cô Hòe. Nói cô bán cho mẹ cháu con lợn ngon nhất. 
Tôi đáp: 
- Vâng. 
Mẹ bảo: 
- Thế thôi. Con thay áo đi cho sớm sủa. À đừng có cói với cậu mợ là mẹ ốm. 
Nhà văn Dương Thu Hương
"Hai người" - tranh của họa sĩ Escher

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét