Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

Những Thiên đường mù (phần 9)

"Sương mai" - Hot girl Việt Nam
Có bữa ở điếm canh thôn Đông, một thằng đàn ông xô ra. Nó đè sấn tôi ngay vệ cỏ... Giá như bây giờ cứ mặc, lại có đứa con nuôi. Nhưng lúc ấy, thì sống chết vật lộn, cào cấu. (ảnh không liên quan đến bài viết)
Người đàn ông đeo kính giơ một ngón tay sần sùi nâng gọng kính lên cúi chào mẹ con tôi.
- Cảm ơn cô nhé. Lúc khác tôi vào chơi.
Nói xong, ông ta cho xe nổ máy lượn ra đường. Chiếc mũ lông Mông Cổ to xù như chiếc rế đại trên đầu. Tiếng máy Honda dội giữa các bức tường trong ngõ hẹp làm rạn vỡ bầu không gian yên tĩnh. Vào giờ này, những hàng xôi lúa, xôi đậu đen, bánh dày, bánh rán, bún gánh, phở gánh... đã ra đi hết. Chỉ còn lại tiếng nước chảy ồ ồ vào một chiếc thùng tôn ai đó đang hứng ở vòi công cộng. Cô Tâm bảo. 
- Ta vào nhà. 
Rồi cô dắt tôi vào, tay bên kia xách chiếc làn tre nặng trĩu. Mẹ tôi cầm siêu nước đi theo. Hai mí mắt mẹ tôi thâm quầng, tròng trắng vằn những tia máu. Mẹ đổ nước sôi vào phích rồi sai tôi. 
- Lấy cho mẹ gói trà. 
Tôi hỏi. 
- Ở đâu ạ? 
Mẹ nói. 
- Bốc trong thúng hàng vậy. Hôm nay bận quá. 
Tôi mở thúng hàng, lấy thứ bình dân mẹ vẫn bán, pha nước. Trước đây, mẹ tôi không bao giờ dùng tới nó. Đôi mắt sắc như dao cau của cô Tâm nhìn theo, lặng lẽ. Chờ cho tôi pha nước, và mẹ tôi đã yên vị lên chiếc ghế đối diện với cô, cô Tâm nới cất giọng rẽ ràng. 
- Con Hằng nó đói ăn, sao không nói cho tôi biết một lời? 
Mặt mẹ tôi đỏ ửng, mẹ lắp bắp. 
- Em bận quá, tối ngày em ở ngoài chợ. 
Cô quay sang tôi. 
- Sao cháu không viết thư cho cô? 
Tôi đáp. 
- Tối qua cháu xin mẹ cháu bán một chiếc nhẫn đi mua thức ăn, nhưng mẹ cháu không cho. 
Cô Tâm hỏi day lại. 
- Mẹ cháu không cho? 
- Vâng. Mẹ cháu bảo của cô, không được tùy tiện dùng. Dạo này, hàng họ ở chợ khó khăn. 
Cô Tâm cười, bảo mẹ tôi. 
- Chẳng lẽ tôi quý của hơn người. Cô thừa biết con Hằng sẽ thừa hưởng toàn bộ gia sản nhà này? Để nó thành mớ xương khô rồi đeo vàng vào cổ hay sao? 
Mẹ tôi đáp. 
- Tuy là của chị cho cháu nhưng... em nghĩ là quyền ở chị. Chị chưa cho phép. 
- Thôi được, giờ tôi cho phép. Có cả mẹ cả con cô ngồi đây, cô lấy đôi nhẫn với cặp hoa tai cho tôi. 
- Vâng. 
Nhưng mặt mẹ tôi tái ngắt. Ngập ngừng một lát, mẹ tôi đứng dậy, vào buồng trong. Mẹ lục rất lâu. Trong khoảng thời gian ấy, cô tôi thong thả bước tới bàn thờ. Cô lấy tấm ảnh của bố tôi xuống, rút mùi xoa trong túi, lau sạch, rồi đặt lên. Cô đứng trầm ngâm nhìn. Lúc đó, tôi chợt hiểu. Chàng thanh niên trong tấm ảnh mờ nhạt ấy, với đường ngôi thẳng tắp trong trắng, với nụ cười thẹn thùng, đường cong của vành tai và vẻ tươi tắn ngời lên trong ánh mắt... sao giống người đàn bà nhỏ thó da nâu sậm, đôi vai mỏng và gầy, những nếp nhăn khắc khổ hằn hai bên khóe mép. Hai chị em giống nhau lạ lùng. Một người dưới cõi âm và một người trên dương thế. Một thiếu niên và một người đàn bà khô héo, sắp bước lên bục lão làng. Có lẽ, đó là sức mạnh bí ẩn của huyết thống. 
- Chị... 
Mẹ tôi từ trong buồng bước ra, một tay nắm chặt, mặt bỗng dưng nhợt nhạt như người phải cảm. Cô Tâm quay lại. Bước những bước khoan thai, cô đi lại bàn nước, ngồi xuống ghế. Cầm chén chè đã bắt đầu nguội, cô đưa lên môi nhấp và hỏi mẹ tôi. 
- Có chuyện gì thế, cô? 
Mẹ tôi vẫn đứng lom khom, không dám ngồi xuống ghế. Một tay nắm chặt, tay kia vịn vào mép bàn. 
- Em định nói với chị... là... 
Cô Tâm im lặng, nhìn thẳng vào mắt mẹ tôi. Từ đôi mắt cô bắn ra những tia sáng lạnh, nhọn sắc, dường như chúng có màu tím. Tôi có cảm giác mẹ tôi sắp ngã quỵ trước những tia nhìn giá buốt ấy. Tôi định chạy tới đỡ mẹ. Nhưng một sức mạnh không cắt nghĩa được đã kiềm chế lại. Mẹ tôi vẫn đứng, môi trắng như giấy ngâm nước, cô gắng nói cho hết câu. 
- Cặp nhẫn của chị, em cho người bạn mượn làm vốn buôn đường xa. Vì... họ hứa... chia lãi... 
Tôi biết mẹ nói dối. Cô Tâm mỉm cười: 
- Một tháng họ chia cho cô bao nhiêu? 
Mẹ đáp, lần này trơn tru hơn. 
- Năm phân. 
Cô tôi vẫn cười, nói từ tốn. 
- Nếu thế, một tháng, riêng tiền lãi đã đủ hơn 10 cân thịt, làm sao con bé lại gầy trơ xương thế này? 
Mẹ tôi đáp, lần này rất nhanh. 
- Nhưng em mới cho họ vay ba tháng nay. Ba tháng, họ chưa nhờ cậy được ai quen thuộc và tín cẩn để gửi tiền ra. Em có nhắn cho họ biết, cứ chồng tiền lại, tính lời, nửa năm em lấy một lần, cho ra tấm ra món... 
- Họ ở đâu vậy? 
- Minh Hải. Hai vợ chồng đem nhau vào tận trong đất mũi làm ăn. Đó là nơi tụ tập dân tứ xứ. 
Tôi không ngờ mẹ tôi ứng biến mau lẹ thế. Những người dối trá, chỉ khó khăn nhất khi vượt qua ranh giới đầu tiên. Khi đã qua ranh giới ấy, không còn cái chốt nào hãm họ lại. Cô tôi đứng dậy đi xuống bếp. Vẫn dáng đi thong thả như thế. Rồi cô trở lại với mâm cơm đậy lồng bàn. Cô đặt mâm cơm lên, và lật chiếc lồng bàn ra: một đĩa dưa cải củ muối xổi, với một đĩa xu hòa kho tương. Thực đơn quen thuộc từ ba tháng nay. Cô nhếch môi cười. Mẹ tôi rùng mình, rồi cúi gằm mặt xuống. Mặt mẹ, hai bàn tay mẹ, cổ mẹ tất cả đều tím như người bị tụ huyết sau trận đòn. Cô Tâm nói. 
- Cô ngồi xuống ghế. 
Lúc này, mẹ tôi giống như kẻ mất hồn, đờ đẫn làm theo lời sai khiến của cô. Mẹ tôi ngồi, đối diện với cô nhưng không ngẩng đầu lên. Cô lại bảo. 
- Đưa đôi bông tai đây. 
Mẹ tôi đặt bàn tay vẫn nắm chặt lên bàn khẽ xòe ra, để rơi một gói lụa nhỏ màu xanh. Cô Tâm nhặt gói lụa đó lên, không thèm mở ra xem, mà gạt nó về phía ấm trà, như người ta gạt một bao thuốc lá hay một chiếc bật lửa. Cô nói. 
- Cô Quế này, trước kia tôi vẫn thương cô. Dù những ngày oan khổ, cũng chưa phút nào tôi oán trách. 
Giọng cô Tâm đều đều, như người đọc kinh, hàm chứa sự bình thản tột vời. Nghe cô nói, mẹ tôi rùng mình như bị lạnh, rồi mẹ cúi đầu thấp hơn, nhô vai lên cao như để tránh cơn gió buốt. 
- Cô có nhớ ngày cô giả bộ móc cua để gặp tôi không? 
Cô Tâm nói, và dường như mỗi lời nói là một lằn roi quất lên đầu mẹ tôi. 
- Ngày ấy, lúc cô đi theo bờ ruộng, tôi cắp rổ quần áo ướt về làng, nước mắt hai hàng lai láng. Tôi thương thân, thương chú Tốn, thương cô. Làm sao còn nỡ dày vò nhau, những con người oan khổ. Tất cả nông nỗi ấy là số kiếp... 
Mẹ tôi không gượng được, gục đầu xuống mép bàn. Giọng cô tôi rót đều đều. 
- Bao nhiêu đêm ròng tôi thức trắng. Những đêm ấy, tôi thấy oan hồn mẹ tôi, tôi thấy hình bóng lang thang vật vờ của chú Tốn, tôi thấy gương mặt cô, cái buổi trưa trời nắng tóe lửa, mà cô khóc ngôi khóc nghê như mưa dầm. Tôi biết vợ chồng cô thương yêu nhau. Lạy trời cho vong linh em tôi mát mẻ... 
Cô ngừng lại, mắt nhìn xa xăm. Rồi cồ nói tiếp. 
- Tôi nhớ vụ mùa năm ấy. Ba giờ sáng tôi thức dậy, luộc một nồi khoai sọ, nửa ăn, nửa đùm vào giỏ đem theo. Thắt lưng buộc cho chặt, đi cấy thuê cho tiên hạ. Non trưa, cơn đói đã réo như sôi trong dạ, phải bấm bụng cấy một mạch tới đúng trưa mới dám giở giỏ khoai ăn. Mùa đông rét cắt ruột, người ta cấy xong lui về nhà làm vườn, chăn con lợn con gà chờ lúa chín. Đèn lửa, cơm tối ấm bụng, vợ chồng con cái họ kéo nhau lên giường. Tôi vác nón lội qua hai cánh đồng làm miến thuê. Mười một giờ đêm còn ngồi ôm cối quay bột. Gà gáy nửa đêm mới đội nón về nhà. Qua đồng, lửa ma trơi chập chờn như bóng đèn bay đuổi. Có bữa ở điếm canh thôn Đông, một thằng đàn ông xô ra. Nó đè sấn tôi ngay vệ cỏ... Giá như bây giờ cứ mặc, lại có đứa con nuôi. Nhưng lúc ấy, thì sống chết vật lộn, cào cấu. Đồng không mông quạnh, kêu cũng chẳng ai nghe. Mà có nghe, người trong xã tìm đến nơi, nhận ra mình là con địa chủ, họ cũng chẳng thèm cứu. Không biết chừng họ còn vu cho tội gian dâm. Cứ nghĩ vậy, mà liều mạng giằng giật. Hồi ấy đang xuân, tôi còn hăng lắm. Tôi cắn cổ thằng khốn nạn máu nó phọt ra mặn mà ấm như tiết gà. Nó kêu rống lên thả tay ra. Còn mình cũng vớ chiếc nón đâm đầu mà chạy. Vừa chạy vừa nhổ phì phì. Vị máu đọng trên đầu lưỡi, vừa tanh vừa mặn, đến nhà, gà gáy canh một, phải nhảy ùm xuống ao tắm, giặt áo, tẩy uế mùi hôi. Lóp ngóp lên bờ, gà đã gáy canh hai. May sao đêm hôm đó tôi không cảm hàn mà chết. 
Cô lại ngừng. Hai bàn tay cô đặt lên bàn, như hai mảnh rễ cây chồng lên nhau, bất động. Những chiếc móng tay nhỏ nhưng xù xì, sừng dày và nổi những rạch thẳng như đường ray. Trên lớp da nhăn nheo hiện lên những chấm tròn nâu sậm. Đó là những vệt đồi mồi. Chúng đã được tạo thành quá sớm, so với những người đàn bà khác, ở lứa tuổi cô. Sau một hồi lơ đãng nhìn vào hư không, cô nói tiếp. 
- Cô Quế, cô còn nhớ hồi sửa sai không nhỉ? Cái buổi tối những người oan ức trong làng đã tụ tập lại, đến trước cổng đập phá, đòi rạch miệng... 
- Thôi, thôi... 
Mẹ tôi bật kêu to: 
- Thôi, thôi... Em xin chị, em lạy chị... 
Rồi mẹ tôi khóc rưng rức, đầu gục xuống mặt bàn toàn thân run bần bật từng cơn. Tôi đến bên mẹ tôi, van vỉ. 
- Mẹ, đừng khóc, đừng khóc... 
Nhưng tôi biết việc tôi làm thật vô nghĩa. Mẹ tôi buông những lời nói đứt đoạn trong cơn nức nở. 
- Em lạy chị, em lạy...
Cô Tâm ngồi im lặng. Đôi mắt tròn của cô cũng bất động, không thoáng qua chút ánh sáng nào. Dường như lúc ấy, trong đôi mắt đen của cô, bóng tối và ánh sáng đã hòa trộn để tạo nên một trạng thái âm u, mờ đục của khoảng khắc sau chót buổi hoàng hôn. Cô chờ cho mẹ tôi ngớt cơn nức nở, lại nói tiếp, vẫn giọng đều đều không âm sắc. 
- Trên đời, chẳng ai gian dối được với ai. Cái kim trong bọc cũng có ngày lòi ra huống hồ chuyện nhân gian, sờ sờ trước mắt thiên hạ. Ở quê tôi cũng biết được một số việc cô làm, mọi đồng tiền cô tiêu. Tôi chẳng trách cô, ai ai cũng máu mủ ruột rà. Tôi thương em tôi thế nào, người đời cũng biết thương em họ như thế. Nhưng trong chuyện này, tôi phải rành mạch cho cô hiểu, em trai cô là kẻ tử thù của gia đình tôi. Nó đã đẩy em tôi vào cõi chết. Tôi không cho phép ai dùng đồng tiền của tôi để nuôi dưỡng nó. 
Nói xong cô đứng lên. 
- Từ nay, cô cũng không được quyền thờ cúng em tôi. 
Nói xong, cô bước tới bàn thờ, lấy tấm khung kính lồng ảnh cha tôi. Tìm một mảnh nilông, cô bọc lại cẩn thận. Sau đó, cô dỡ trong làn những thứ quà đem theo: nào giò, nào chả, nào đường, sữa, nào bánh trái... Tất cả, chất ngồn ngộn trên bàn. Cô Tâm bỏ tấm ảnh của cha tôi vào chiếc làn đã rỗng không, bảo: 
- Những thứ này của cô mua, đồng tiền của cô, mô hôi nước mắt của cô. Đem cho cháu chứ không cho quân sát nhân đâu nhé... 
Tôi không dám trả lời cô, chỉ im lặng gật đầu. Mẹ tôi đã thôi khóc, không ngửng đầu lên, nhưng chắc chắn nghe rõ từng lời của câu nói riết róng ấy. Vừa lúc, tiếng xe Honda nổ ròn trước sân. Cô Tâm nhìn ra. 
- Đừng tắt máy. Tôi ra ngay đây. 
Cô cầm gói lụa xanh bọc đôi hoa tai trên bàn, bỏ vào túi, rồi bảo tôi. 
- Cô cất cho con. Của con không chỉ có đôi hoa tai này. Còn trăm nghìn thứ nữa, Nhưng cô không muốn nó lọt vào tay kẻ khác. 
Nói xong, cô bước ra cửa, không chào ai. Người đàn ông đeo kính màu xanh chai giơ tay lên mũ, nheo mắt cười với tôi. Rồi ông ta phóng xe đi. Cô tôi ngồi phía sau, bé nhỏ, gầy gò. Như con nhái bén bám vào quả dưa ếch. 
Dưới chân cầu long biên năm 1897.
Tôi quay vào. Mẹ ngẩng đầu lên, nhìn tôi. Mắt mẹ mọng nước, xa lạ và hằn thù. Tôi gọi.
- Mẹ...
Nhưng mẹ không trả lời. Bỏ cơm, mẹ gánh gánh hàng ra chợ. Từ hôm ấy, quan hệ giữa chúng tôi trở nên tồi tệ. Tôi không cắt nghĩa nổi vì sao. Tôi đã hết sức cố gắng, hết sức nhường nhịn, nhưng không cứu vãn được. Thoạt tiên, là thái độ lạnh nhạt, xen lẫn mỉa mai. Bữa ăn, tôi dọn ra, mẹ cúi đầu xăm xăm gắp dưa cải. Tôi gắp giò chả bỏ vào bát mẹ, mẹ hất xuống mâm. 
- Mời chị. Tôi không dám đụng đũa vào phần người khác. 
Tôi van vỉ. 
- Mẹ lạ thật. Cô Tâm giận cô nói thế, mẹ để bụng làm gì? 
Mẹ cười nhạt. 
- Đồng tiền của người ta, mồ hôi nước mắt của người ta, tôi không dám. 
Tôi cười xí xóa. 
- Mẹ buồn cười thật. Ai mà chấp nê như trẻ con thế. Mẹ ăn con mới ăn. 
Mặt mẹ lạnh như tiền, giọng kéo dài ra chế riễu. 
- Ấy chết, chị phải tẩm bổ cho khỏe mà học cho thành tài. Người nhà chị nuôi dăm bảy con lợn để chờ ngày chị đỗ trạng nguyên mổ khao làng, khao nước. 
Tôi vẫn cười. 
- Con chỉ sợ không phải người ta mà chính là mẹ mong con đỗ trạng thôi. 
- Không dám. Tôi đâu được quyền xếp hạng với người ta? 
Nói xong, một lần nữa, mẹ hất miếng giò tôi bỏ vò bát mẹ xuống mâm. Tôi cố cười. 
- Thế mẹ muốn con xếp mẹ vào hạng nào? Con thì con chỉ xếp được mẹ vào hàng lãnh tụ thôi. 
- Đừng cho tôi đi tàu bay giấy. Chị đem người khác đặt lên bàn thờ thì hơn. 
Dầu sao, tôi cũng chỉ là một cô gái 19 tuổi. Tôi không chịu đựng được thêm. Cơn tức giận bùng nổ. Tôi nói. 
- Dù mẹ đẻ ra con, con cũng phải nói sự thật. Chính mẹ sai lầm. Mẹ đã dối trá. Xưa nay, chỉ một lần con nói dối mẹ. Hồi lên bảy, mẹ sai đi mua ba lạng thịt quay. Con đã mua hai lạng rưỡi, bớt tiền để đi thuê truyện. Lần ấy, mẹ đánh con lằn hết hai mông. Con đã đau, con đã nhục, con đã hiểu rằng dối trá là thói xấu và không bao giờ con lập lại. 
Mặt mẹ tôi đỏ bừng lên. Hai mắt mẹ đảo lia lịa. Rồi bỗng dưng mẹ quăng đũ xuống, hét. 
- Mày bước đi, bước khỏi nhà này... theo bà cô của mày. 
Tôi đứng dậy, thu xếp quần áo, buộc lên xe. Mẹ tôi lấy cái bị cói, bỏ tât cả những thứ thực phẩm, quà bánh cô Tâm mua cho tôi vào, treo lên ghi đông, nói. 
- Đi đi... bước cho khuất mắt. 
Tôi đạp xe vào trường. Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Mùa đông chưa qua, nhưng trời đã ấm. Nắng rực rỡ một cách bất thường, như tấm khăn choàng thiếu nữ. Người ta đi phố tưng bừng, vui vẻ. Không ai biết tình cảnh của tôi. 
Tôi vào trường, xin ở nội trú. Quản trị tạm ghép cho tôi ngủ cùng với một cô bạn người Tày quê Lạng Sơn. Cô ta to béo, hai má luôn đỏ như trái đào chín, cười nói suốt ngày. Cô giúp tôi thu xếp đồ đạc, rồi xẩm tối, cô trang điểm kỹ càng, ra đi. 
- Đằng ấy cứ buông màn ngủ trước nhé. Còn khuya tớ mới về. 
Nói xong cô nháy nháy mắt nhìn tôi. 
- Thông cảm. Người yêu đang chờ ở cửa ký túc xá. 
Cô đi. Mùi nước hoa nội địa tạt lại, sực nức. Mấy cô trong phòng cũng lần lượt đi nốt. Tôi ngồi bó gối, nhìn ngọn đèn điện sụt thế tối lù mù như một thứ đèn hoa kỳ hạng bét treo lơ lửng giữa phòng. Nó giống con mắt màu da cam nhìn vào mắt tôi, bệnh hoạn, tăm tối. Bên ngoài, gió rất nhẹ, reo vi vút. Trời không rét, chỉ lành lạnh. Tôi nhớ căn nhà, ngọn đèn với cái chao bằng sứ trắng, giá sách cỏn con của tôi. cái lọ sành cắm mấy bông cúc vàng đặt ở góc cửa sổ... Giờ này, chắc mẹ tôi cũng ngồi bó gối trong căn phòng trống vắng, giá lạnh nư tôi. Nước mắt tôi rơi từng giọt. Khi con người có quá nhiều lòng tự trọng, mà buộc phải hành động thiếu lương tâm, họ không đủ can đảm nhìn vào tội lỗi. Liên sỉ, ở khía cạnh tiêu cực, là một sợi thòng lọng không có cơ hội tháo gỡ. Tôi biết mình thất bại... 
Cuộc sống trong ký túc xá bắt đầu bằng một kỷ niệm vui vẻ. Những chuỗi ngày tiếp theo cũng không nhiều sóng gió. Có vài ba cuộc va chạm nhẹ, nhưng bản tính tôi không chấp nể, nên mọi kết thúc cũng tốt đẹp. Cô bạn người Tày rất đáng yêu. Một người dễ tính, tốt bụng và có đôi phần ngốc nghếch. Cô học rất kém, tôi luôn luôn phải chép bài cho cô. Bù lại, cô có nhiều anh chàng theo đuổi, toàn những chàng trai đẹp mã, thân hình như tượng thần Apôlông. Chàng này tặng thơ, chàng khác làm bài hát tặng cô. Và cô đánh số thời gian thư từ, các nhạc phẩm và thi phẩm thành bộ. Bộ sưu tập ấy cứ một tháng một lần được đem ra khoe tôi. Tôi giúp cô làm những bài thơ họa lại, viết những tình cavớ vẩn tặng lại, khiến đám nhân tình của cô lăn lóc mê cô như phải bùa. Tóm lại, chúng tôi quý nhau. Về phần kinh tế, ngay từ tuần lễ thứ hai tôi vào khu nội trú, người đàn ông đeo kính màu xanh đã đèo cô Tâm tới nơi. Từ đó, cứ hai tuần, cô lên chơi. Tiền nong, thực phẩm cô cung cấp cho tôi thừa mứa. Phải nói thực thà là, cả năm cô nữ cùng phòng với tôi và hội nam sinh nội trú bên cạnh được nhờ cậy ít nhiều vào cái kho thực phẩm của tôi. Người vác bát sang xin mỡ, người bưng ca nước sang xin đường. Có nhóm tới bữa cơm cầm chiếc camen gõ coong cong trước cửa lán. Toi lại phải đem nồi thức ăn mặn của mình ra san sẻ. 
- Hằng ơi, viện trợ bát nước mắm. 
- Hằng ơi, tớ xin thìa mỡ. 
- Hằng ơi, cơm nhạt khó nuốt quá. Nồi cá kho của cậu xem chừng cần san bớt đi. Chủ nghĩa cộng sản được xây dựng trên tinh thần tương thân tương ái. 
May mắn hơn nhiều bạn sinh viên khác, tôi không phải lo lắng vì miếng cơm, manh áo. Nhưng tôi bị phân tâm vì mẹ tôi. Bất kể sự ngang trái nào, bất kể sai lạc nào, tôi cũng là con. Và tôi yêu mẹ. Qua tin tức của những người quen, tôi biết những nỗ lực của mẹ tôi đã có kết quả. Cậu Chính khỏi bệnh, trở lại làm việc. Một lần mẹ tôi ốm, cậu mợ ấy đã đèo nhau tới chơi. Lần ấy, mẹ cũng bày biện trà thuốc, bánh kẹo, mời cô Vị và đám láng giềng sang để giới thiệu vợ chồng người em trai. 
- Cậu ấy là cán bộ tư tưởng của Đảng và mợ ấy là giáo sư trường Đoàn. 
Đứa con gái cô Vị kể lại với tôi, mẹ đã sung sướng biết bao khi giới thiệu những người ruột thịt của mẹ như thế, trước đám dân lao động trong ngõ phố. Nghe chuyện, tôi tạm yên tâm. Tôi mừng cho mẹ. Dầu sao, con người cũng nên có một cái lý để tự hào. Nhưng tôi không thể nén cảm giác tủi cực, có đôi phần uất ức. Chính họ, chính những người đem cho mẹ niềm vinh hạnh ấy là duyên cớ sự chia rẽ trong gia đình chúng tôi. Và, chui vào một góc tối trong học đường, ngồi giữa những hàng ghế thênh thang, bụi bặm, tôi mơ đến mái nhà vá víu của mình. Tiếng mưa rỉ rách gõ trên mái tôn. Âm điệu xôn xao của buổi lê minh, khi chân trời chưa rạng, khi tiếng gọi í ới, tiếng mắng chửi con cái, tiếng sai bảo công việc cùng lúc vang lên, ném qua các bức tường, hòa với mùi thơm của các món ăn sáng, tạo nên bầu không khí quen thuộc với tôi từ thuở ấu thơ. Tôi mơ tới giàn hoa đăng tiêu cháy như lửa, ngạo nghễ và chói chang giữa khóm nhà lô nhô, giữa những bức tường cắm mảnh chai bẩn thỉu và gớm ghiếc, như một bài ca khát vọng quá mãnh liệt trào lên trên ngọn triều bèo bọt của đời thường. Tôi mơ đến tiếng hát khàn và sai lạc của anh què, nghe như tiếng đổ vỡ, tiếng kêu, lời mời gọi. Tôi mơ tới một que kẹo mạch nha...
Học kỳ ấy tôi được xép hạnh sinh viên ưu tú, Cô Tâm may cho tôi hai chiếc áo bằng hàng mútxơlin ngoại, một chiếc màu lòng tôm, một chiếc xanh da trời. Ai cũng khen tôi mặc áo mới, trông trẻ và xinh hẳn ra. Cô Tâm im lặng nghe những lời khen ấy, với vẻ mặt đăm chiêu. Chắc cô đang tính xây cho tôi một thiên đường ngay ở cõi trần ai này. Cô đổi chiếc xe nữ Thống Nhất cũ rỉ tôi vẫn đi bằng chiếc xe Mifa mới. Cô định mua xe Pơgiô cho tôi nhưng may sao, người đàn ông đeo kính màu xanh chai đã kịp gàn. 
- Không phải em tiếc cháu. Nhưng con gái đi xe đắt tiền chỉ làm mồi cho bọn bất lương. 
Cô nghe theo, nhưng cô vẫn đánh một sợi dây chuyền vàng tây bắt tôi đeo. 
- Nam vô tửu bất thành nam, nữ bất điểm trang bất thành nữ. 
Cô nói thế. Rồi cô xuống một làng ngoại thành đóng cho tôi một lúc ba đôi giày. Thứ có gót, thứ hở gót, thứ quai tết không khóa cài. Nhưng có một nguyên tắc, không bao giờ cô đưa quá nhiều tiền cho tôi. Vàng cũng thế. Tôi ít ra thành phố, thường lúc rỗi tôi chúi mũi vào thư viện đọc sách. Chưa nhận lời yêu ai, tôi không ham đi xem chiếu bóng, xem xiếc, rong chơi. Tiền đối với tôi dường như không cần thiết. Và thế, món trợ cấp hàng tháng của cô cứ dồn tích lại. Tôi định khi nào mẹ nguôi giận tôi sẽ đem món tiền ấy về, thay lại mái nhà cũ. Nếu không đủ đổ mái bằng, tôi cũng lợp ngói Tây. Nhưng trái với dự tính của tôi, món tiền ấy đã được dùng vào việc khác. 
Ấy là một chiều xuân, tháng hai, mưa phùn rắc đầy trời. Ánh chiều tím sẫm, lọc qua mưa, bảng lảng như khói. Chúng tôi ngồi trong phòng, vừa tí tách ăn hạt bí, vừa tán chuyện hôm trước, lớp trướng của chúng tôi cưới vợ. Anh ta là bộ đội chuyển ngành, 33 tuổi, xấu mã nhưng rất tốt bụng. Một người chính trực, công bằng. Trong lớp, kể cả những chàng trai ngang ngược nhất, kể cả những cô gái chỏng lỏn, hoặc lười học ham chơi, hoặc đôi co mách lẻo, hoặc có thói ăn cắp vặt... những người bị anh đề nghị kỷ luật cũng không thù ghét được anh. Sáng qua, mưa phùn dầm dề. Cả lớp đội mưa, bì bõm lội qua một khúc đường sống trâu để vào dự đám cưới. Làng anh ở Vĩng Phú, vùng đồi xinh tươi nhưng nghèo khó. Đám cưới có cả kẹo nuga, kẹo Hải Hà, cả kẹo bột và chè lam nhà tự nấu. Hạt bí anh phải mua từ Hà Nội đem về. Cô dâu ở làng, một thôn nữ khỏe mạnh, lưng to chân to. Hai má không cần đánh phấn cũng đỏ rực. Đám cưới vui. 
Chừng bảy tám giờ tối, lũ chúng tôi mới mò mẫm ra ga, trở về Hà Nội. Cô dâu chú rể quần xắn ngang bắp chân theo ra ga đưa tiễn. Hai người dúi cho chúng tôi một gói hạt bí, một bọc chè lam, lại cả một đùm bánh khoai bánh nếp. Con tàu chạy suốt đêm. Chúng tôi vừa phải chống đỡ đám hành khách lôi thôi tràn trên các ga lẻ, vừa rôm rà chuyện trò. 
Gần sáng, tàu mới tới thành phố. Kéo nhau về khu học xá, cả bọn lăn ra ngủ. Nhưng khi cơn buồn ngủ đã được thỏa mãn, chúng tôi lại cảm thấy phấn khích, lại tụ tập nhau cắn hạt bí, tán chuyện. Đối với tuổi thanh xuân, đám cưới, hôn nhân, tình yêu là đề tài bất tận. Mội cô nàng chợt hô lên. 
- Sắp hết hạt bí rồi. 
Cả đám nhao nhao nói. 
- Đề nghị tiếp tục trợ cấp. 
- Tới lượt ai? 
- Ninh, tới lượt cái Ninh. Ba lần trước nó đều đánh trống lảng. Ê, Đào Thị Ninh, xùy tiền ra. nay đã tới phiên nhà ngươi nộp thuế thân. 
- Nhưng mà đến hôm nay mỗ lại hết tiền... Ha ha ha... may thật là may. 
Đào Thị Ninh, một cô gái quê Hải Phòng, to béo, đen mập, sống mũi gồ to như con trai nhâng nháo nói. Nói xong, cô nàng lại đứng phắt lên, ngay giữa đám đông lộn hết các túi áo túi quần. Mấy cậu bạn trai nhăn mũi. 
- Hắt xì hơi, mất vệ sinh. 
- Thôi, ngồi xuống, đàn bà con gái gì mà... 
Ninh liền túm tóc cậu con trai vừa nói lên. 
- Mà làm sao, nói tiếp? 
Cậu bạn cười cười, cố gỡ mái tóc uốn quăn chùm nho khỏi bàn tay cứng như thép của nữ lực sĩ. Ninh hỏi. 
- Nói mau, không ta cho một chưởng. 
Cậu bạn chớp mắt, rồi đánh liều. 
- Mà mà... thơm như hoa nhài vậy. 
Cả bọn rũ ra cười, nước mắt giàn giụa, cười xong, chừng vẫn nhớ rằng hạt bí sắp hết, mà câu chuyện đang giòn. Tất cả quay lại Đào Thị Ninh. 
- Mày đích thị là đồ hủi. Lần nào phải nộp phạt mày cũng hết tiền. 
Ninh cười ha hả. 
- Số mỗ luôn luôn may. Thần tài phù trợ cho mỗ. 
Đoạn Ninh khoa chân múa tay, hát tuồng. 
- “Như ta đây, chẳng phải dân Nghệ An, Hà Tĩnh nhưng thánh keo cũng gọi bằng cụ tổ. Năm một hội, tháng hai kỳ, dân con miền Trung xì xụp khói hương, lễ bái ta, ta phù hộ độ trì cho muôn dân xứ ... keo...” 
Một cô bé quê ở Hải Hưng rú lên trước, rồi cả bọn cứ thế mà cười theo. Lần này, đứa nào đứa nấy ôm bụng bò lóp ngóp trên giường, lũ con trai chổng cả vó lên, giãy đành đạch. Từng cơn cười kéo tới, không kiềm chế nổi, từ người nọ lây lan sang người kia. Phải 10 phút sau, chúng tôi mới hoàn hồn. Tích, một anh chàng quê Nghệ An, vừa lau nước mắt vừa nói. 
- Tổ cha mi, mi vào quê tao xem mi có dám hát thế không? 
Ninh đáp lại liền. 
- Tổ cha mi, tau mà vào quê mi tau thành triệu phú. 
Tích thật thà quay lại hỏi. 
- Sao vậy? 
- Tau thuê thợ tiện, tiện một ngàn con cá gỗ. Đem sơn vàng, sơn đỏ, vào quê mi bán giá thắt cổ, tau thành triệu phú liền. 
Tích vỡ lẽ, giơ nắm tay đấm Ninh. Ninh chạy. Hai người đuổi nhau mấy vòng liền. Rồi, sau đó, Ninh giơ tay đầu hàng. 
- Kéo cờ trắng. 
Cả hai về chỗ ngồi, thở hổn hển. Lúc ấy, Đào Thị Ninh quay sang bảo tôi. 
- Ê, nhà tài phiệt mặc quần thâm, xì tiền đi mày. 
Tôi bảo. 
- Cũng được. Nhưng mày phải đi mua. Trời mưa, tao ngại lắm. 
Ninh liền trợn mắt quát: 
- A, ra mày cậy có tiền, mày muốn ngồi nhà phải không? 
Tôi đáp: 
- Tất nhiên, ông mất của kia, bà chìa của nọ. 
Cô gái lực sĩ liền túm lưng áo tôi, nhấc bổng lên. 
- Này, đây là luật của bạn bè, nghe không ? Mặc áo mưa vào và đi ngay tắp lự. Mày giở thói bà chủ ra, mày sẽ bị tống cổ khỏi hội ngay. 
Tôi nghĩ, Ninh cũng có lý. Vả lại, không ai có thể khuất phục cái con bé nặc nô ấy. Bụng tức, nhưng tôi vẫn phải trùm áo mưa đi. Ở cổng trường, có một dãy hàng quán. Tới đó, có thể mua từ hộp sữa ngoại tới vài cái kẹo vừng hoặc mấy nắm bỏng ngô. 
Sân trường lầy lội. Khu nội trú càng lầy lội hơn. Những viên gạch ném trên lối đi chìm nghỉm trong lớp bùn nhão. Đám cỏ loi phoi nhú ngọn lên. Tôi bước từ viên gạch lát này sang viên gạch lát kia, cố gắng không trượt chân dẫm xuống nước. Chú tâm vào việc đó, tôi không biết có một người đang đi ngược lại phía mình. 
- Hằng! 
Tiếng gọi giật giọng khiến tôi giật nảy, ngẩng mặt lên. Cách tôi vài bước chân là cô Vị. Cô trùm tấm nilông xám, dài ngang khoeo chân. Quần đen xắn tới bẹn. Đôi chân trần lội trong bùn. Một tay cô giữa tấm vải che mưa, tay kia xách đôi dép. 
- Cô tìm cháu suốt từ lúc tan tầm. 
Tôi nhìn gương mặt đầm đìa nước của cô. 
- Lâu quá cháu chưa về nhà... Có chuyện gì thế cô? 
Cô cũng đăm đăm nhìn tôi, rồi thay vì trả lời, cô nói một câu chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện. 
- Mày có lớn mà chẳng có khôn, Hằng ạ... 
Xung quanh chúng tôi là khoảng sân láng nước, mấp mô các gờ đất, các lối đi rải sỏi. Không nơi nào trú chân được. Tôi nói với cô. 
- Cô quay ra cổng trường với cháu. Ở đó, có quán hàng. 
Cô gật đầu. 
- Ờ. 
Rồi chúng tôi im lặng đi về phía cổng trường. Mươi phút sau, tôi đưa cô vào quán bà Nhu, một bà chủ quán quen thuộc. Nhiều lần cô Tâm lên, cô cháu tôi thường ra ăn quà ở đó. Bà Nhu đang ngồi ngáp, đon đả cất tiếng chào. Rồi bà chỉ cho chúng tôi khúc tre thừa đầu quán, đề móc mấy tấm vải che mưa. Những chiếc ghế băng lấm bùn. Tôi mượn bà Nhu mảng giẻ lau. Bà hỏi. 
- Cô Hằng ăn gì? 
- Cháu xin bà hai chén chè nóng với đĩa bánh đậu xanh. 
Bà Nhu rót hai chén chè Thái xanh vào chén vại, rồi đặt một gói bánh đậu xanh lên chiếc đĩa hoa Hải Dương. 
- Bà với cô tự nhiên nhé, Cho tôi vô phép... 
Sau khi nói một cách lịch sự, bà co hai chân lên ghế tựa lưng vào vách, ngủ gà ngủ gật. Cô Vị uống một hơi hết cả chén nước, có lẽ cô đang lạnh. Rồi cô hỏi. 
- Sao hôm đi, không rẽ vào cô? 
- Mẹ cháu đuổi cháu đi tức khắc. Vả lại, lúc ấy cháu không nghĩ ra. 
- Lúc ấy, cô còn ở nhà. Hàng chưa đủ gánh. Giá cô biết thì không đến nỗi. 
Cô thở dài sườn sượt. Tôi ngồi im. Tốt nhất là im lặng và đợi. Những năm tháng sống cô đơn dạy tôi điều ấy. Cô Vị lại uống nốt chén chè thứ 2, và nói. 
- Mẹ mày khổ lắm. 
- Nhưng cháu cũng có sung sướng gì đâu? 
- Đã đành, nhưng mẹ vẫn là mẹ. 
- Bao giờ cháu cũng yêu mẹ cháu. 
- Trời đầy bà ấy. 
- Chính mẹ cháu đã đuổi cháu đi. 
- Phải, cô biết... Nhưng mẹ mày không muốn thế. 
- Không muốn? 
- Phải, không muốn, nhưng vẫn cứ làm. Ở đời, nhiều khi như vậy. Bao giờ cháu lớn lên, từng trải hơn khắc biết. Chẳng phải đương nhiên, nhân gian có câu: ma đưa lối, quỷ đưa đường. 
Tôi mở chiếc nắp bông ủ trên tích nước chè, rót chén thứ ba cho cô. Chén chè nóng giãy. Cô đưa hai bàn tay ủ chén nước cho đỡ rét. Tôi nói. 
- Cô bán hết hàng chưa? 
Cô gật đầu. 
- Bán hết hàng vừa tan tầm. Cô gửi quang gánh cho người quen rồi đi ô tô tới đây. 
Uống nốt chém chè thứ ba, cô đứng dậy. 
- Đi đi cháu. 
Tôi ngạc nhiên hỏi. 
- Đi đâu? 
- Mẹ mày què chân rồi. Bị ô tô chèn sáng nay, khi gánh hàng qua đường. Lúc cô biết tin trời đã non trưa, người ta đã đưa bà ấy vào viện. Bác sĩ phải tháo khớp gối. Đi đi cháu, bà ấy nằm trong bệnh viện Bạch Mai. 
Tôi không nhớ mình đã làm gì lúc ấy. Chân tay tôi giá lạnh, như bị chuột rút, tôi ngã vào bàn bày bát chén, bánh trái của bà chủ quán. Cô Vị đỡ tôi lên, trả tiền, nói gì đó thì thầm với bà chủ quá. Rồi bà chủ quán đội áo mưa le te chạy đi. Lát sau, bà quay về với chiếc xích lô. Chúng tôi cùng lên xe. Người lái xe kéo chiếc nón lá già che kín mắt, cắm cúi đạp. Đường gồ ghề, xóc nảy, mỗi lần xe xóc, lại vòng hào quang nảy ra trong mắt tôi. Một cơn rét run từ xương tủy lan tỏa ra da thịt. Cô Vị ôm tôi, khẽ đập vào vai. 
- Khóc đi, khóc đi cho nhẹ. 
Tôi không khóc được. Dường như tiếng khóc vón thành cục nước đá nằm trong họng. Dường như máu cũng đông thành một thứ tiết đặc trong các huyết quản tôi. Mắt tôi tối dần, cùng với bóng tối. Trời vẫn mưa. Mưa xiên lệch cả đất trới. Cái cổng vào viện trống toang hoác như cửa nhà mồ. Cô Vị đã phải năn nỉ mãi, người gác mới cho chúng tôi đi qua. Hành lang... Những giường bệnh... Những gương mặt xa cách và sầu não... Sau cùng là mẹ tôi... 
- Mẹ ơi! 
Tôi gọi. Và nước mắt trào ra như nước suối, nóng hổi, mặn, chảy tràn trên hai gò má, lan xuống cằm, rơi thánh thót. Bỗng dưng, khối tiết đông đặc trong tôi tan chảy thành các dòng máu. Cục đá trên tim tan chảy thành từng giọt lệ. Người tôi nhẹ bổng đi. 
- Mẹ ơi!... 
Mẹ tôi quay ra, giơ một bàn tay cho tôi, mỉm cười. Nhưng môi mẹ méo xệch. Rồi nước mắt cũng tuôn đầm đìa trên gò má những vết nám và những vết tàn nhang. Chân mẹ quấn đầy băng cụt ngang gối. 
"Hồ ly" - người đẹp Hoa ngữ
Có tiếng ai gọi trong sương mờ. Sao giọng nói xa lạ? Tôi định mở mắt nhưng không được. Tiếng gọi lặp lại lần thứ hai:
- Dậy đi cô bé, tới nơi rồi.
Bàn tay cứng cáp của một người đàn ông nào đó lắc vai tôi. Tôi choàng dậy: 
- Chào cô bé, hết khóc chưa? 
Người đồng hành cười, những chiếc răng bạc lóe lên. Chiếc mũi khoằm của ông ta giờ đây không còn làm tôi khó chịu. Giơ ngón tay trỏ, ông quệt nhẹ vào má tôi: 
- Hãy còn nước mắt đọng đây nhé. Tôi hy vọng là ra ngoài gió nó sẽ khô. 
Tôi sực nhớ cảnh toa tàu đêm qua, hai gã trai thô bạo, cơn tủi cực tràn đầy con tim nhỏ bé của tôi. Tôi đã nức nở mãi trong mơ. Người đàn ông sắp xếp hành lý: 
- Chuẩn bị xuống ga đi, cô bé. Chỉ còn một hai phút nữa thôi. 
Mátxcơva đã ở bên ngoài. Qua ô cửa, tôi thấy khung cảnh quen thuộc của nhà ga. Các đường ray, các mái trú tạm, kè xi măng đón khách chạy giữa các tuyến đường. Các cụm đèn tín hiệu. Các nhân viên nhà ga lặng lẽ đi lại. Trên một mái nhà lợp đá đen xa xa, lũ bồ câu đứng hiền lành. 
Tiếng còi tàu rú lên. Ở nơi nào trên trái đất, tiếng còi tàu cũng thế. Người đồng hành nắm cánh tay tôi: 
- Mặc áo vào cô bé. Và đưa chiếc túi tôi đeo cho. 
Không chờ tôi trả lời, ông ta khoác luôn chiếc túi du lịch của tôi vào vai, trông ông thật giống một con ngựa thồ. Thứ ngựa vùng sa mạc, gân guốc và thanh mảnh. Chúng tôi cùng đi ra ga, trông như hai cha con người Trung Á về thủ đô, hòa vào dòng người đông đúc. Thỉnh thoảng, người đàn ông cúi xuống nhìn tôi, vẻ như ủ ấp và che chở. Cái nhìn của ông takhiến tôi nao lòng. Trong ký ức của tôi, biết bao lần ánh mắt che chở như thế đã hiện về, giữa những trưa hè oi ả, giữa đêm lạnh gió mùa đông bắc ù ù thổi, giữa những cơn mưa thu dầm dề... khoảng thời gian dài rộng đã được đan nối bằng quá nhiều giấc mơ non yểu viển vông và quá nhiều nỗi khao khát. Thỉnh thoảng, người đàn ông lại cầm bàn tay tôi, bóp nhẹ. Tôi nhìn ông ta với lòng biết ơn.
Nhà văn Dương Thu Hương
"Biểu diễn" - tranh của họa sĩ Bùi Xuân Phái

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét